Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng agribank chi nhánh cầu giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.73 KB, 109 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những năm vừa qua, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu cộng với những bất cập, yếu kém nội tại từ trong nước, nền kinh tế nước ta đã
lâm vào tình trạng hết sức khó khăn. Tình trạng cầu kéo chi phí đẩy dẫn đến lạm phát
kéo dài làm cho sức mua kiệt quệ, sản xuất đình đốn. Chưa bao giờ các doanh nghiệp
trong nước lại gặp khó khăn như hiện nay, nhiều doanh nghiệp còn rơi vào tình trạng
“chết trên đống của”.
Doanh nghiệp khó khăn, hàng hóa tồn đọng, đặc biệt là tình trạng nợ đọng
xây dựng cơ bản vẫn chưa được xử lý, thị trường bất động sản trầm lắng thậm chí rơi
vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kéo theo hàng loạt các ngành liên quan
gặp khó khăn, vốn của doanh nghiệp “nằm im” một chỗ, doanh nghiệp không có
nguồn thu để trả nợ vay làm cho nợ xấu trong hệ thống ngân hàng liên tục tăng cao.
Hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều dịch vụ, đó là hoạt động
dịch vụ nền tảng của quốc gia phát triển. Trong các dịch vụ do ngân hàng thương
mại cung cấp thì tín dụng là hoạt động chủ yếu, cung cấp nguồn thu chính cho ngân
hàng. Sự vận động của vốn cho vay có đặc điểm là tách rời quyền sở hữu và quyền
sử dụng, từ đó dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng và thực tế trong hoạt động tín
dụng ngân hàng đều phát phát sinh tình trạng nợ xấu.
Tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy, giai đoạn 2009-2013 dư nợ liên tục tăng
khá mạnh ở giai đoạn đầu và giảm dần trong những năm sau (năm 2009 tăng 30,4%;
năm 2010 là 7,1%; năm 2011 là 1,57%; năm 2012 đạt mức tăng 5,92%; năm 2013
tốc độ tăng trưởng là -5,99%; tính chung cả giai đoạn 5 năm từ 2009-2013, tín dụng
tăng 3,07%).
Trong giai đoạn này, vấn đề nợ xấu liên tục tăng cao và đã trở nên khá
nghiêm trọng trong 2 năm 2012-2013, tăng cả về số tương đối và tuyệt đối. Thời
điểm 31/12/2009, tỷ lệ nợ xấu là ..............; thời điểm 31/12/2010 là .............., thời
điểm 31/12/2011 là .............., thời điểm 31/12/2012 tăng vọt lên .............. và thời



2
điểm 31/12/2013, nợ xấu giảm về mức ............./ tổng dư nợ - sau khi đã loại trừ các
khoản nợ xấu được cơ cấu lại theo quyết định 780/QĐ-NHNN và thực hiện việc bán
nợ cho VAMC, xử lý rủi ro tín dụng.
Việc nợ xấu liên tục tăng cao đã đặt ra vấn đề trong công tác quản lý, điều
hành của Chi nhánh.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề và để góp phần giảm thiểu nợ xấu và
nâng cao chất lượng công tác tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy, trong
khuôn khổ có hạn của đề tài, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Nâng cao chất
lượng công tác tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy” để làm luận văn
nghiên cứu trong quá trình học tập tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân và thực tế
làm việc tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.

2. Tình hình nghiên cứu.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu chủ đề về chất lượng tín dụng, trong đó
đáng chú ý có một số công trình như sau:
- Luật các TCTD (2010), NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
- NHNN Việt Nam (2006), “Nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu”, Bản tin
Thông tin Tín dụng (CIC), Số 8 tháng 10/2006.
- NHNN Việt Nam (2005), “Qui định về phân loại nợ, trích lập dự phòng để
xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của TCTD”, Quyết định Số 493/2005/QĐNHNN (22/4/2005).
- Nguyễn Thị Hoài Thương (2012), “Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương
mại Việt Nam”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân.
- Phùng Tuấn Kiệt (2009), “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp
trong khu công nghiệp của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Hải Dương”,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng.
- NHNN Việt Nam (2005), “Nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng
thương mại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Phương Đông, Hà Nội.



3
- Nguyễn Đắc Dũng (2012) - “Hạn chế nợ xấu cho vay khu vực tư nhân tại
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Chi nhánh Bình Định”,
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng.
- NGND. PGS. TS. Tô Ngọc Hưng, Giám đốc Học viện Ngân hàng (2013),
“Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số quốc gia và những bài học cho Việt Nam”,
Tạp chí Học viện Ngân hàng.
- Nguyễn Thành Chung (2001), “Nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối
với phát triển nông nghiệp và nông thôn ở tỉnh Quản Ninh”, Luận án tiến sỹ kinh tế,
Học viện Ngân hàng.
- Nguyễn Mạnh Hùng (2008), “Chính sách tín dụng của Agribank đối với
phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn khu vực Tây Nguyên”, Luận án tiến sỹ
kinh tế, Học viện Ngân hàng.
Ngoài ra các công trình trên, còn rất nhiều các tài liệu tham khảo, các giáo
trình và bài viết đăng tải trên các tạp chí trong và ngoài ngành. Đó thực sự là các
công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo rất tốt về lý luận và thực tiễn.
Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng đã được nhiều tác giả đề cập ở các công
trình trên, tuy nhiên mỗi đề tài có một cách tiếp cận và nội dung nghiên cứu khác
nhau tùy vào tình hình thực tế và đặc điểm của từng ngân hàng, địa phương.
Từ cách tiếp cận riêng của mình, đề tài “Nâng cao chất lượng công tác tín
dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy” là đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá về chất
lượng công tác tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy từ đó đưa ra các giải pháp
nâng cao chất lượng đối với hoạt động này trong thời gian tới, đề tài được lựa chọn
trên cơ sở công tác thực tế và những mong muốn đóng góp của tác giả về nâng cao
chất lượng công tác tín dụng tại đơn vị mình đang công tác.

3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Mục đích chính của đề tài là hạn chế thấp nhất có thể việc tăng nợ xấu, nâng
cao chất lượng công tác tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy, góp phần đưa

Agribank Chi nhánh Cầu Giấy trở thành đơn vị vững mạnh trong hệ thống Agribank.


4
Mục tiêu của đề tài là tìm ra nguyên nhân những tồn tại, vướng mắc trong
chính hoạt động cấp tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy và đưa ra một số giải
pháp để nâng cao chất lượng công tác tín dụng tại Chi nhánh, như sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của chất lượng tín dụng, các tiêu chí đánh giá chất
lượng công tác tín của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng công tác tín dụng tại Agribank Chi
nhánh Cầu Giấy.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng công tác
tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.
Các nội dung nêu trên nhằm trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào để nâng cao chất
lượng tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.
Giải pháp tốt cũng như việc có được “đôi hài vạn dặm” sẽ góp phần hạn chế
nợ xấu phát sinh, góp phần đưa Agribank trở thành ngân hàng tổ chức tài chính – tín
dụng hàng đầu của Việt Nam, tiếp tục đóng góp lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước.
Nâng cao chất lượng công tác tín dụng là một đề tài khó, ngoài ra việc tiếp
cận và thu thập số liệu khó khăn do mang tính bảo mật và còn nhạy cảm…

4. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại, công tác cho vay tại
Agribank Chi nhánh Cầu Giấy. Thông tin, dữ liệu từ:
• Agribank Chi nhánh Cầu Giấy: Phòng Tín dụng, Phòng Kế hoạch tổng
hợp, Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ, một số Phòng giao dịch trực thuộc;
• Ban Kế hoạch, Ban Khách hàng doanh nghiệp, Trung tâm Phòng ngừa và

Xử lý rủi ro thuộc Agribank, website Agribank và một số trang web khác;
• Khách hàng vay vốn tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy;
• Ngân hàng Nhà nước.


5
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung phân tích chất lượng tín dụng thông qua hoạt động cho
vay tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy trong giai đoạn 2009 – 2013.
Trong khuôn khổ có hạn của luận văn thạc sĩ cả về không gian và thời gian,
tác giả không có tham vọng nghiên cứu được toàn diện về lý luận và thực tế công tác
tín dụng tại các ngân hàng thương mại của Việt Nam, cũng như tại các chi nhánh
thuộc Agribank nên không nêu được tất cả những bất cập còn hiện hữu trong công
tác tín dụng, có thể không nêu được hết có thể dẫn đến việc đánh giá phân tích không
được triệt để, thấu đáo. Luận văn cũng không nghiên cứu các vấn đề về cấp bảo lãnh
tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy do các khoản cấp bảo lãnh tại đây không nhiều và
Agribank Chi nhánh Cầu Giấy cũng chưa bao giờ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
nên không đặt ra vấn đề cấp bách phải nâng cao chất lượng các khoản cấp bảo lãnh.
Kính mong các thầy cô tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân và quý vị tiếp
tục đóng góp để em hoàn thiện hơn nữa đề tài này.

5. Phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý thuyết sẽ sử dụng để phân tích thực tiễn: Tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chính như phương pháp so sánh, phân tích – tổng hợp, đánh
giá, đàm thoại, mô tả và khái quát đối tượng nghiên cứu, điều tra phân tích thống kê,
trong đó tác giả sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp, đánh giá là chủ yếu.
- Các dữ liệu cần thu thập:
• Các quy định, chính sách về cấp tín dụng hiện nay của NHNN, Agribank;
• Báo cáo thường niên của Agribank các năm từ 2009 - 2013;
• Số liệu về công tác tín dụng Agribank Chi nhánh Cầu Giấy qua các Báo cáo

thống kê, Báo cáo tổng kết các năm từ 2009 - 2013;
• Một số quy định khác liên quan hoạt động tín dụng ngân hàng.
- Các nguồn dữ liệu:
Thứ cấp: Từ các báo cáo thường niên và các kết quả nghiên cứu được thực
hiện trước đó, thu thập từ các tài liệu thông tin nội bộ: Agribank Chi nhánh Cầu
Giấy, Ban Kế hoạch, Ban Khách hàng doanh nghiệp, Trung tâm Phòng ngừa và Xử


6
lý rủi ro, website Agribank và một số trang web khác… Các nguồn số liệu được trích
dẫn trực tiếp trong luận văn và được ghi chú cụ thể trong phần tài liệu tham khảo.

6. Đóng góp của Luận văn.
- Bổ sung và hoàn thiện các vấn đề lý luận về chất lượng tín dụng của ngân
hàng thương mại.
- Nghiên cứu có hệ thống những bài học kinh nghiệm từ ngân hàng thương
mại trong và ngoài nước về nâng cao chất lượng tín dụng. Qua đó, rút ra một số bài
học cho Agribank Chi nhánh Cầu Giấy nói riêng và các ngân hàng thương mại Việt
Nam nói chung.
- Phân tích có hệ thống thực trạng chất lượng công tác tín dụng tại Agribank
Chi nhánh Cầu Giấy qua các năm 2009-2013. Qua đó đánh giá toàn diện về các kết
quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng
tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.

7. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu theo 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chất lượng tín dụng của
ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng chất lượng công tác tín dụng tại Agribank Chi nhánh
Cầu Giấy.
Chương 3: Phướng hướng và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác
tín dụng tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.


7

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
1.1.1.1. Khái niệm.
* Khái niệm tín dụng:
Trong kinh tế hàng hoá, trong cùng một thời gian luôn có một số người tạm
thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó luôn có
một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy sinh
mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời
thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu được
do sử dụng vốn vay. Đây chính là quan hệ tín dụng.
Hiểu một cách chung nhất thì tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ
thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một
thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả vốn gốc và
lãi cho bên chuyển giao tiền hoặc tài sản với điều kiện theo thời hạn đó thoả thuận.
Tín dụng được cấu thành bởi sự kết hợp của 3 yếu tố chính là: Lòng tin, thời
hạn của quan hệ tín dụng, sự hứa hẹn hoàn trả. Từ đó có thể rút ra 3 đặc trưng của tín
dụng: (1) Quan hệ chuyển nhượng mang tính tạm thời; (2) Có tính hoàn trả; (3) Quan
hệ dựa trên cơ sở tin tưởng giữa người cho vay và người đi vay.
* Khái niệm tín dụng ngân hàng:

Công tác tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng, tại
Việt Nam do sự phát triển kinh tế còn thấp các dịch vụ ngoài tín dụng chưa phát triển
nên trong tổng thu nhập của ngân hàng có đến 90% là thu từ hoạt động tín dụng. Tín
dụng là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng thương mại, nhằm tài trợ vốn
cho các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức khác trong nền kinh tế.


8
Hoạt động tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị (chủ yếu là bằng tiền hoặc cũng có thể bằng hiện vật) từ chủ sở
hữu sang người sử dụng để sau một thời gian thu về một lượng giá trị lớn hơn lượng
giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên thoả thuận trong khuôn khổ cho phép.
Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng với bên đi vay trong
đó Ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định theo thoả thuận (thời gian, lãi suất, khối lượng, điều kiện đảm bảo tiền vay) và
bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng
(TCTD) khi đến hạn thanh toán.
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của NHNN thì
hoạt động cho vay được khái niệm: "Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó
TCTD giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời
gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi".
Tín dụng ngân hàng có các đặc trưng: (1) Giao dịch trong quan hệ tín dụng
bao gồm 2 hình thức: cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản); (2)
Khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng thông thường phải có vật thế chấp
(đảm bảo tiền vay); (3) Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay,
đó là thu nhập từ hoạt động tín dụng.

1.1.1.2. Đặc điểm.
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Đây chính là điều kiện
tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng. Ngân hàng chỉ cho vay khi đã tin tưởng đối

với người đi vay. Đồng thời người ta tin rằng người sử dụng lượng giá trị đó sẽ thu
được lượng giá trị cao hơn sau một thời gian nhất định, người cho vay cũng tin tưởng
người đi vay có ý muốn trả nợ thì quan hệ tín dụng mới xảy ra.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn hay tính thời
hạn của tín dụng. Xuất phát từ bản chất của tín dụng là sự tín nhiệm, người cho vay
tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả vào một ngày trong tương lai. Người đi vay chỉ
được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời gian sử dụng
theo thỏa thuận, người đi vay hoàn trả cho người cho vay.


9
Thứ ba, tín dụng phải trên nguyên tắc hoàn trả (gồm cả gốc và lãi). Đây là
đặc trưng cơ bản nhất và sự hoàn trả là tiêu chuẩn phân biệt quan hệ tín dụng với các
quan hệ tài chính khác. Trong tính hoàn trả thì lượng vốn được chuyển nhượng phải
được hoàn trả đúng hạn về cả thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận: Gốc và lãi.
Phần lãi phải đảm bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự
chênh lệch này là giá trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời. Mặt khác nếu không có sự
hoàn trả thì đó là quan hệ tín dụng không hoàn hảo.
Thứ tư, tín dụng là hoạt động ẩn chứa nhiều rủi ro. Do sự bất cân xứng về
thông tin và người cho vay không hiểu rõ hết về người đi vay. Mối quan hệ tín dụng
hoàn hảo nếu người đi vay hoàn trả được đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn.
Thứ năm, tín dụng dựa trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía
cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế
ước… thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho
bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tuy nhiên trong thực tế không phải mọi việc lúc nào cũng diễn ra một cách
trôi chảy, không hiếm trường hợp người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ của
mình đối với chủ nợ do các nguyên nhân khách quan hay chủ quan gây ra, chưa kể
các hoạt động vi phạm pháp luật của các bên liên quan. Đó là trường hợp khi đến hạn
hoàn trả vốn vay, người đi vay không thể thực hiện được việc trả nợ cho người cho

vay dẫn đến các khoản nợ bị quá hạn. Nợ xấu là biểu hiện không lành mạnh của quá
trình hoạt động tín dụng, là sự báo hiệu của rủi ro.

1.1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng có thể phân chia theo nhiều loại hình khác nhau tùy theo
tiêu chí phân loại. Qua việc phân loại giúp ngân hàng thiết lập quy trình cho vay,
nâng cao hiệu quả tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng được tốt hơn.
Thứ nhất, căn cứ theo thời hạn tín dụng:
- Cho vay ngắn hạn: Gồm những khoản cho vay có kỳ hạn từ 12 tháng trở
xuống, căn cứ vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.


10
- Cho vay trung, dài hạn: Gồm những khoản cho vay chủ yếu để đầu tư mua
sắm tài sản cố định, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
xây dựng các dự án có thời gian thu hồi vốn lâu (trên 12 tháng). Loại cho vay này
đang ngày càng được các ngân hàng chú trọng phát triển, một mặt chúng đáp ứng
nhu cầu vay vốn của khách hàng trên cơ sở yêu cầu của sự phát triển, mặt khác
chúng cũng phù hợp với khả năng vốn của các ngân hàng thương mại.
Trên thực tế, không phải cứ cho vay trên 12 tháng đều là hoạt động đầu tư.
Có những khoản cho vay có thời hạn trên 12 tháng nhưng là để bổ sung vốn lưu động
cho doanh nghiệp do chu kỳ sản xuất kinh doanh, vòng đời của sản phẩm kéo dài,
chẳng hạn như sản xuất rượu wishky thời gian cho vay vốn lưu động có thể kéo dài
đến 5 năm do việc ngâm ủ rượu kéo dài, hay sản xuất nước mắm cốt thời gian ủ tối
thiểu 12 tháng (càng lâu càng tốt), hay như việc cho vay để phát triển nguồn nguyên
liệu mà từ khi bắt đầu sản xuất đến khi thu hoạch có thể kéo dài 5 năm hoặc hơn.
Thứ hai, căn cứ theo mức độ tín nhiệm của khách hàng với ngân hàng:
- Tín dụng không bảo đảm (tín chấp): Việc cho vay căn cứ vào uy tín của
khách hàng, phương án sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý của ngân hàng.
Ngân hàng sẽ xem xét dựa trên các điều kiện: phương án sản xuất kinh doanh có tính

khả thi, có khả năng đem lại lợi nhuận tốt; người vay kinh doanh có lãi trong hai năm
liền kề thời điểm vay vốn, người vay có uy tín, thương hiệu trên thị trường, khả năng
tài chính lành mạnh, có lịch sử quan hệ tín dụng tốt, khi đó ngân hàng dựa vào uy tín
của khách hàng mà không cần nguồn thu nợ bổ sung. Tuy nhiên, ngoài các điều kiện
trên, các ngân hàng còn xem xét đến khả năng quản lý các nguồn thu của khách hàng
của khách hàng đảm bảo khả năng trả nợ khi đến hạn.
- Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: Là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở
ngân hàng nắm giữ các tài sản thuộc sở hữu trực tiếp của người đi vay hoặc thuộc sở
hữu của bên thứ ba để bảo đảm cho các khoản vay. Các hình thức thường gặp là thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh. Khi có tài sản bảo đảm khách hàng sẽ phấn đấu ở mức
cao nhất trong việc quản lý, sử dụng vốn vay đảm bảo có hiệu quả, thậm chí là sống
chết với việc sản xuất kinh doanh và trách nhiệm cao hơn đối với việc trả nợ.


11
- Tín dụng kết hợp - có bảo đảm một phần bằng tài sản: Là việc kết hợp của 2
hình thức trên. Tỷ lệ cho vay không có tài sản thế chấp tùy thuộc vào mức độ đánh
giá khách hàng của ngân hàng và các tiêu chí mà khách hàng đạt được trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, căn cứ theo xuất xứ tín dụng:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những khách hàng có
nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các
ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương mại,
mua các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của doanh nghiệp…
Hiện nay, việc cho vay gián tiếp các ngân hàng tại Việt Nam chưa áp dụng
nhiều. Tuy nhiên, trong tương lai gần hình thức này sẽ rất phát triển ở Việt Nam và
là khoản thu quan trọng sau khoản thu từ hoạt động cho vay trực tiếp.
Thứ tư, căn cứ theo phương pháp, hình thức hoàn trả nợ vay:

Theo quy chế cho vay của các TCTD ban hành ngày 31/12/2001, ngân hàng
tiến hàng cho vay theo các phương thức như sau:
- Cho vay từng lần: Phương thức cho vay từng lần là phương thức cho vay mà
ngân hàng căn cứ vào từng kế hoạch, phương án kinh doanh, từng khâu hoặc từng
loại vật tư cụ thể để cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Việc cho vay và thu nợ căn cứ vào quá
trình nhập, xuất vật tư hàng hoá, dịch vụ... Theo phương thức cho vay này khách
hàng được ngân hàng xác định cho một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng
thời gian nhất định để làm căn cứ cho việc phát tiền vay. Thời hạn của hạn mức tín
dụng thường là 12 tháng.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống. Ngân hàng cùng khách hàng cùng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn


12
đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ trả nợ và giải ngân
theo tiến độ thực hiện dự án.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm TCTD cùng cho vay đối với một dự án vay
vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong đó có một TCTD làm đầu mối
dàn xếp, phối hợp với các TCTD khác. Cho vay hợp vốn có ưu điểm là san sẻ được
rủi ro song nhược điểm là nới lỏng việc kiểm soát tiền vay khách hàng.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ
hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng
và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí
trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.

- Cho vay theo hạn mức thấu chi.
- Cho vay lưu vụ: Phương thức này chỉ áp dụng trong cho vay hộ gia đình cá
nhân, ở vùng chuyên canh trồng lúa và các vùng xen canh trồng lúa với các cây trồng
ngắn ngày khác.
- Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm.
Thứ năm, căn cứ vào mục đích tín dụng:
- Cho vay bất động sản: Gồm các khoản cho vay thi công xây dựng, giải
phóng mặt bằng dưới 12 tháng và các khoản cho vay trung dài hạn tài trợ cho việc
mua đất canh tác, nhà, trung tâm thương mại… và mua các tài sản nước ngoài. Đối
với loại hình cho vay này, tài sản thế chấp thường được bảo đảm bằng chính tài sản
hình thành trong tương lai (áp dụng đối với các chủ đầu tư là người đi vay).
- Cho vay đối với các tổ chức tài chính: Gồm các khoản tín dụng dành cho
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
- Cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại.
- Cho vay tiêu dùng đối với các cá nhân.


13
- Cho vay khác: Bao gồm các khoản cho vay không được xếp ở trên mà pháp
luật không cấm và các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán.
- Tài trợ thuê mua: Loại hình này chủ yếu áp dụng đối với các công ty cho
thuê tài chính, đó là việc các công ty tài chính mua các loại bất động sản, động sản
(thường có giá trị cao, thời gian khấu hao dài) để cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu
thuê lại phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu, căn cứ vào chủ thể vay vốn:
- Tín dụng doanh nghiệp (bán buôn): Là loại hình ngân hàng mà hoạt động
của nó chủ yếu thực hiện đối với các khách hàng lớn. Số lượng các giao dịch của
ngân hàng bán buôn nhỏ song về giá trị một dịch vụ lại lớn.
- Tín dụng cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ và vừa (bán lẻ): Là loại
hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó thực hiện đối với các khách hàng là các

doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân.
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản cấp tín dụng cho các
ngân hàng, các tổ chức tài chính, bảo hiểm… Hiện chưa phát triển ở Việt Nam.
Thứ bảy, căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
- Tín dụng bằng tiền: Là loại hình tín dụng được giải ngân bằng tiền cho đối
tượng thụ hưởng và một phần nhỏ lẻ giải ngân trực tiếp cho người vay.
- Tín dụng bằng tài sản: Đây là hình thức cho vay bằng tài sản khá phổ biến
và đa dạng, mà điển hình nhất là tài trợ thuê mua. Theo phương thức này ngân hàng
hoặc công ty thuê mua (chủ yếu là các công ty con thuộc các Ngân hàng) cung cấp
trực tiếp tài sản cho khách hàng và theo định kỳ khách hàng hoàn trả nợ vay gồm cả
gốc và lãi. Đây gọi là hình thức tín dụng cho thuê tài chính.

1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng của ngân hàng được sử dụng như là
công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất các nguồn lực xã hội vào quá trình
tái sản xuất xã hội nhất là tái sản xuất mở rộng, phù hợp với quá trình vận động liên
tục của vốn.


14
Do trình độ phát triển kinh tế khác nhau, mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội
khác nhau ở mỗi nước nên vai trò tín dụng được thể hiện và có định hướng khác
nhau. Ở Việt Nam hiện nay, tín dụng góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, song song
với nhiệm vụ hoàn thiện cải cách các thể chế để thu hút đầu tư nước ngoài đang có
xu hướng suy giảm trong thời gian gần đây.

1.1.3.1. Đối với ngân hàng thương mại.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các ngân hàng đang phải cạnh tranh gay gắt
để tồn tại và phát triển, kinh doanh có hiệu quả. Hoạt động tín dụng là hoạt động

quan trọng nhất quyết định thành bại của các ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay ở
nước ta, nhu cầu mở rộng quy mô, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, tiên tiến
thì nhu cầu nguồn vốn tín dụng trung – dài hạn là cấp thiết và quan trọng. Đây là
điều kiện để ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng
định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường.
Tín dụng còn là một hoạt động mang lại lợi ích chủ yếu cho các ngân hàng.
Quan hệ tín dụng cũng dẫn tới các hoạt động bảo lãnh do ngân hàng thực hiện. Ngân
hàng có thể thực hiện bảo lãnh cho các khách hàng vay các ngân hàng khác, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền tạm ứng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo đảm chất
lượng sản phẩm và các hình thức bảo lãnh khác cho khách hàng. Qua việc thu phí từ
các hình thức bảo lãnh này đem lại thêm lợi nhuận cho Ngân hàng.
Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả tín dụng đang là những vấn đề mà các ngân
hàng đều quan tâm nhằm đem lại lợi nhuận, hiệu quả cho ngân hàng cũng như phục
vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.

1.1.3.2. Đối với khách hàng vay.
Thiếu vốn là căn bệnh kinh niên của các đơn vị sản xuất kinh doanh (sau đây
gọi chung là doanh nghiệp), đặc biệt là các doanh nghiệp ở Việt Nam khi kinh tế
chưa phát triển và chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn doanh nghiệp lớn thì
chủ yếu tài sản cũng hình thành từ vốn vay. Càng lớn càng vay nhiều, bất kể là
doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân. Trong khi đó kinh tế không ngừng vận động,


15
hàng hoá sản xuất ngày càng nhiều và nhu cầu con người không ngừng tăng lên.
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải nắm bắt nhu cầu và thoả mãn nhu
cầu đó.
Như vậy, doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, mạnh dạn đầu tư để nâng cao
chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất hay để xâm nhập vào thị trường mới, sản
phẩm mới. Tuy nhiên, để đạt được điều này, cần huy động một khối lượng vốn nhất

định đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh, hoặc doanh nghiệp cũng có thể tự
tích luỹ thông qua lợi nhuận để lại nhưng thời gian tích luỹ quá lâu, làm mất thời cơ
kinh doanh thậm chí tụt lại phía sau và phá sản. Đối với việc vay vốn từ ngân hàng
đôi khi đem lại nhiều thuận lợi hơn so với việc huy động vốn trên thị trường chứng
khoán và không phải doanh nghiệp nào cũng có thể huy động vốn hoặc đủ điều kiện
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Còn về kỳ hạn, doanh nghiệp có thể vay vốn
ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn. Thời gian và thủ tục
nhanh và ít phức tạp so với huy động trên thị trường chứng khoán.
Lãi vay cũng được hạch toán vào chi phí để giảm số thuế thu nhập phải nộp,
trong khi huy động vốn trên thị trường chứng khoán thì cổ tức chỉ được chia sau khi
đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thuế. Đây là sự khác biệt rất lớn trong việc huy
động vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra đối với các khoản vay tại ngân hàng, doanh nghiệp thực hiện được
mục tiêu kinh doanh là tăng lợi nhuận mà không tăng sự kiểm soát của người bên
ngoài đối với hoạt động kinh doanh như trong trường hợp phát hành cổ phiếu. Tuy
nhiên, vay vốn ngân hàng chi phí khá cao so với huy động trên thị trường chứng
khoán với các doanh nghiệp đủ điều kiện. Do vậy, doanh nghiệp cũng cần tính toán
đến hiệu quả đầu tư, doanh thu đạt được không chỉ đủ trả vốn và lãi cho ngân hàng
mà phải đem lại lợi tức cho mình. Do đó, lãi suất cho vay là đòn bẩy thúc đẩy doanh
nghiệp khai thác triệt để đồng vốn để kinh doanh có lãi và thắng lợi trong cạnh tranh.


16

1.1.3.3. Đối với nền kinh tế và xã hội.
Tín dụng ngân hàng kênh cung ứng vốn quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế, chuyển vốn từ nơi thiếu vốn,
từ tiết kiệm sang nhà đầu tư, phục vụ phát triển kinh tế.
Do tập trung được vốn và điều hoà cung cầu vốn trong nền kinh tế, tín dụng
góp phần đầy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, thực

hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.
Các khoản cho vay cung cấp cho ngành được thực hiện theo cả chiều sâu và chiều
rộng, đầu tư có trọng điểm, hình thành các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ
cấu kinh tế hợp lý, khai thác triết để các nguồn lực, tập trung phục vụ sản xuất. Nắm
trong tay nguồn vốn lớn, lâu dài đã thúc đẩy tiến độ đầu tư xây dựng các công trình,
các dự án, tạo được hiệu quả kinh tế bên vững, lâu dài góp phần thúc để tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Bên cạnh đó, các khoản cho vay có vai trò tạo nguồn vốn để thực hiện xây
dựng mới, hiện đại hoá từng bước nền sản xuất trong nước, thúc đẩy sản xuất, nâng
cao chất lượng, mẫu mã, đa dạng về tính năng của sản phẩm để tiêu thụ trong nước
và xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho quốc gia, cải thiện cán cân thương mại và cán cân
thanh toán quốc tế.
Tín dụng ngân hàng có vai trò trong việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô thông qua các chính sách điều hành thị trường tiền tệ của Chính phủ. TCTD đóng
vai trò là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, ổn định lưu thông tiền tệ. Thông
qua tín dụng ngân hàng, Chính phủ có thể quản lý và thực hiện các chương trình kinh
tế lớn một cách có hiệu quả. Thực tế cho thấy, các chương trình kinh tế lớn đều được
cấp vốn thông qua hệ thông các TCTD, hiệu quả được xét đến kỹ hơn và Chính phủ
cũng quản lý dễ dàng hơn các chương trình đầu tư này. Ngoài ra, Chính phủ còn có
thể hướng tín dụng ngân hàng vào các ngành kinh tế mũi nhọn, phục vụ quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá để các ngành này đi đầu, tạo cho sự phát triển kinh tế
-xã hội đến đất nước.


17
Hoạt động tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển các quốc gia luôn gắn
liền với thị trường thế giới. Tín dụng trở thành nhịp cầu nối liền quan hệ kinh tế giữa
các quốc gia với nhau bằng các hoạt động tín dụng quốc tế như: Các hình thức tín
dụng giữa các Chính phủ, giữa cá nhân, các hình thức tài trợ, cho vay không hoàn lại
của Chính phủ các nước.

Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội của một đất nước, nó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Để đánh giá hoạt động tín dụng của một Ngân hàng thương mại có tốt hay
không, cần xem xét chất lượng tín dụng.

1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại: Quan niệm, tiêu
chí và sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng.
1.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại và
đặc trưng của chất lượng tín dụng.
Về chất lượng: Theo Tổ chức quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo
DIS 9000:2000, đã đưa ra định nghĩa về chất lượng như sau: “Chất lượng là khả
năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng
các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan".
Chất lượng tín dụng: Mặc dù hệ thống ngân hàng thương mại của các quốc
gia trên thế đã rất phát triển, nhiều ngân hàng lớn đã vươn tầm hoạt động tín dụng
của mình ra nhiều khu vực, nhiều nước trên thế giới, nhưng vẫn chưa có một định
nghĩa chính xác về chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại. Chất lượng
tín dụng vẫn chỉ được bao hàm trong chất lượng tài sản có của ngân hàng. Mà chất
lượng tài sản có của ngân hàng là chỉ tiêu tổng hợp nhất nói lên khả năng bền vững
về mặt tài chính, khả năng sinh lời và năng lực quản lý của một ngân hàng.
Chất lượng tín dụng có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng nói
chung cũng như tổng thể hoạt động của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng của TCTD có thể hiểu: Chất lượng tín dụng của ngân
hàng thương mại là sự đáp ứng kịp thời, hợp lý những yêu cầu về vốn của khách
hàng phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, với một mức chi phí hợp lý,


18
đảm bảo sự phát triển an toàn, và lợi nhuận trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.

Chất lượng tín dụng là khái niệm vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu
tượng. Tính cụ thể được thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng có thể lượng
hoá được (nợ quá hạn, nợ xấu, tốc độ tăng trưởng tín dụng…).
Tính trừu tượng thể hiện qua khả năng lôi cuốn, hấp dẫn khách hàng, uy tín
của ngân hàng và mức độ tác động đối với nền kinh tế.
Về đặc trưng của chất lượng tín dụng:
- Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng
của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn nợ hợp lý. Thủ tục giản đơn thu hút được khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông
hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất.
- Đối với TCTD: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực
lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi
của tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt động, mang lại
lợi nhuận và đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả, độ tin cậy trong hoạt động tín dụng.

1.2.2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng.
Hiện nay, việc đánh giá chất lượng tín dụng ở Việt Nam được dựa trên một số
tiêu chuẩn do các ngân hàng trung ương, cơ quan quản lý cao nhất trong hệ thống
ngân hàng của một quốc gia ban hành.
Tại Việt Nam, những chỉ tiêu phản ánh quy mô, chất lượng hoạt động tín
dụng của ngân hàng có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu nợ:
Tổng dư nợ phản ánh khối lượng vốn mà ngân hàng đã cho vay và chưa thu
được nợ hoặc nợ chưa đến hạn, được tính bằng số dư nợ năm trước và doanh số cho
vay năm nay trừ đi doanh số thu nợ năm nay.


19

Tổng dư nợ thấp phản ánh quy mô hoạt động của ngân hàng và các yếu tố
khác như về lãi suất cho vay cao, trình độ marketing tiếp cận với khách hàng và thị
trường còn thiếu nhạy bén, khả năng thẩm định nhìn nhận khách hàng khắt khe...
Tổng dư nợ cao có thể kỳ vọng thu nhập từ hoạt động tín dụng cao nhưng cũng đồng
nghĩa với rủi ro sẽ tăng lên do không thu được nợ đúng hạn... Tuy nhiên, nâng cao
chất lượng tín dụng không phải là việc hạn chế rủi ro bằng cách thắt chặt tín dụng mà
phải mở rộng tín dụng với hiệu quả hoạt động cao nhất, nghĩa là có khả năng sinh lời
cao nhất và an toàn nhất.
Chỉ tiêu này được sử dụng để phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, có
thể thể hiện ở dạng số tuyệt đối hoặc số tương đối (dư nợ so với nguồn vốn, cơ cấu
dư nợ theo thời gian, theo thành phần kinh tế, dư nợ có tài sản đảm bảo - không có
tài sản đảm bảo...). Bên cạnh đó chỉ tiêu này cũng phản ánh chất lượng tín dụng của
ngân hàng song không phải là chỉ tiêu duy nhất, người ta phải kết hợp chỉ tiêu tổng
dư nợ tín dụng và một số chỉ tiêu khác như doanh số cho vay, thu nợ …..để đánh giá
chính xác chất lượng tín dụng của TCTD.
Kết cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ. Phân
tích kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng biết được gân hàng cần đẩy mạnh cho vay
theo loại hình nào để cân đối với thực lực của ngân hàng. Kết cấu dư nợ khi so với
kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay nào là nhiều nhất.
Thứ hai, chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá
chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Nợ quá hạn phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi
vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân
hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, quý, năm.
Tỷ lệ nợ quá hạn =

Nợ quá hạn
Tổng dư nợ


x 100%


20
Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan
trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả
đúng hạn như đã cam kết nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi
suất thông thường. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì ngân hàng càng gặp khó khăn trong
kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận,
tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín dụng càng thấp.
Thứ ba, chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu:
Tổng nợ xấu bao gồm nợ quá hạn, nợ được cơ cấu, nợ đang trong thời gian
thử thách…, chính vì vậy chỉ tiêu này cho thấy thực chất tình hình chất lượng tín
dụng tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả năng quản lý tín dụng của ngân hàng
trong khâu cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng đối với các khoản vay.
Định nghĩa nợ xấu của Việt Nam tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 của NHNN như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào
nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn).”
Cụ thể nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên
90 ngày, đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy định các ngân hàng
thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay
vào các nhóm thích hợp.
Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố: đã quá hạn trên 90 ngày và khả
năng trả nợ đáng lo ngại.
Còn theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc: Về cơ bản
một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc
các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm
trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng
có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.

Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: quá hạn
trên 90 ngày và khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của IAS đang
được áp dụng phổ biến hiện hành trên thế giới.
Tỷ lệ nợ xấu =

Tổng nợ xấu x 100%


21
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém
và ngược lại. Thông thường tỷ lệ nợ xấu ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được,
còn ở mức dưới 3% là tương đối an toàn đối với ngân hàng. Tuy nhiên, cách thức
nhìn nhận và phân loại nợ phải rõ ràng, minh bạch theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Để quản lý tốt và đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, ta có thể xét đến cơ
cấu nợ xấu.
Thứ tư, chỉ tiêu về cơ cấu nợ xấu:
Muốn xác định được cơ cấu nợ xấu phải xác định được các tiêu thức hợp lý
để phân loại chúng để nắm được nợ xấu tập trung chủ yếu ở đối tượng nào, theo hình
thức nào, thời hạn bao nhiêu... từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Tại Việt Nam, thường phân loại nợ xấu theo các tiêu thức sau:
- Căn cứ theo thành phần kinh tế, gồm:
+ Nợ quá hạn của doanh nghiệp nhà nước;
+ Nợ quá hạn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
+ Nợ quá hạn của cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh.
- Cơ cấu nợ xấu phân theo nguyên nhân:
Việc phân loại nợ xấu theo nguyên nhân sẽ giúp ngân hàng quản lý tốt các
khoản đã cho vay, là cơ sở cho việc tìm ra các giải pháp phù hợp.
+ Nợ quá hạn theo nguyên nhân chủ quan.
+ Nợ quá hạn theo nguyên nhân khách quan.

Thứ năm, chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn:
Vòng quay vốn
tín dụng

=

Doanh số thu nợ trong năm
Dư nợ bình quân trong năm

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn nhanh hay chậm, nghĩa là một
đồng vốn của ngân hàng cho vay được bao nhiêu lần trong năm. Theo cách hiểu
thông thường, hoặc thậm chí theo rất nhiều các luận văn thạc sĩ kinh tế thì số vòng
quay vốn tín dụng càng lớn chứng tỏ nguồn vốn luân chuyển nhanh, sử dụng vốn


22
hiệu quả. Tuy nhiên mức độ đánh giá nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào đối tượng
khách hàng vay vốn cho kinh doanh hay sản xuất, ví đối với khách hàng kinh doanh
thương mại, vòng quay vốn tín dụng đòi hỏi phải nhanh, có khi đạt 4-5 lần/năm thậm
chí là hơn mới được đánh giá là tốt, trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất, thi công
xây dựng có thể chỉ cần đạt khoảng 1-2vòng/năm; ngoài ra vòng quay vốn tín dụng
còn phụ thuộc vào tính thời vụ, tính chu kì của sản xuất; thời gian của dự án...
Trên thực tế, theo bản thân tác giả và qua thực tiễn công tác cho thấy, chỉ tiêu
được dùng xác định đối với từng lĩnh vực, đối tượng cho vay để ngân hàng tính toán
cho phù hợp. Còn nhìn vào con số tổng quát vòng quay vốn tín dụng của một ngân
hàng để đánh giá thì nó không có nhiều ý nghĩa, thậm chí là vô nghĩa. Bởi, khác với
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đơn thuần, vòng quay vốn càng lớn mang lại
càng nhiều doanh thu và lợi nhuận, nhưng với ngân hàng vòng quay lớn chưa chứng
tỏ được điều gì do hiệu quả, chất lượng của tín dụng ở đây lại phụ thuộc vào mức dư
nợ mà ngân hàng đạt được/ nguồn vốn có thể cho vay, tỷ lệ nợ xấu (nợ xấu là khoản

nợ không thu được gốc và lãi).
Thứ sáu, chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay:
Chất lượng tín dụng nhìn từ phía ngân hàng xét trên hai khía cạnh: hiệu quả
và an toàn. Do vậy, chất lượng tín dụng tốt chỉ có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao
khả năng sinh lời của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu cần thiết để đo lường khả năng sinh
lời của ngân hàng mang lại từ hoạt động tín dụng.
Theo nghĩa đen, thu nhập từ hoạt động cho vay chính là lãi từ hoạt động cho
vay nhưng ta có thể xét thêm thu nhập thực từ hoạt động cho vay của ngân hàng sau
khi đã trừ đi các chi phí phát sinh trong quá trình hình thành và chấp nhận cho vay,
ví dụ như các chi phí thẩm định, chi phí quản lý theo dõi khoản vay... Trên thực tế,
các TCTD Việt Nam hiện nay hiểu thu nhập từ hoạt động cho vay chính là tỷ lệ lãi từ
hoạt động cho vay trên tổng thu nhập.
Tỷ lệ thu nhập
từ hoạt động cho vay

=

Lãi từ hoạt động cho vay
x 100%
Tổng thu nhập


23
Tỷ lệ này cho thấy tầm quan trọng của hoạt động tín dụng trong việc tạo ra
tổng thu nhập của ngân hàng. Ở Việt Nam hiện nay, các TCTD có tỷ lệ thu nhập từ
hoạt động cho vay thường rất lớn chiếm đến 90%, điều đó thể hiện rõ rằng tín dụng
vẫn là hoạt động sinh lời chủ yếu. Tuy nhiên, ở các nước phát triển thì tỷ lệ này lại
rất khiêm tốn, bởi các ngân hàng có xu hướng phát triển các loại hình dịch vụ tài
chính trung gian khác hơn là việc cung cấp tín dụng.
Thứ bảy, các chỉ tiêu khác:

- Tỷ lệ dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm (TSBĐ).
- Chỉ tiêu dự phòng rủi ro tín dụng.
Hiện nay, đối với các TCTD Việt Nam để đánh giá chất lượng tín dụng của
một Ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro thấp nhất trong hoạt động kinh doanh, các Ngân
hàng thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định
493/2005/QĐ-NHNN. Theo quyết định này thì các khoản cho vay của Ngân hàng sẽ
được phân thành các nhóm sau:
- Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn), bao gồm:
+ Các khoản nợ trong hạn mà Ngân hàng nơi cho vay đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và Ngân hàng nơi cho vay đánh giá là
có khả năng thu hồi đầy đủ gốc, lãi bị quá hạn và thu hồi đẩy đủ gốc và lãi đúng thời
hạn còn lại.
- Nhóm 2 (nợ cần chú ý), bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
+ Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
- Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cầu lại thời hạn trả nợ lần đầu trừ các khoản điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2.
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lại do khách hàng không đủ năng lực
trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.


24
+ Các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn dưới 30 ngày.
- Nhóm 4 (nợ nghi ngờ), bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cầu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thức 2.
+ Các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn từ 30-90 ngày.
- Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn), bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cầu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần thứ 2.
Ngoài ra, theo Điều 7 của quyết định này, TCTD có chính sách dự phòng rủi
ro được NHNN chấp thuận, thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng như sau:
+ Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá
là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là có
khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm
khả năng trả nợ.
+ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh
giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được
TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
+ Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả
năng tổn thất cao.
+ Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD
đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Việc phân loại nợ như Điều 7 trên căn cứ theo điểm số trên hệ thống chấm
điểm nội bộ của TCTD.


25
Ngoài các chỉ tiêu như trên, ngân hàng còn được đánh giá về chất lượng tín
dụng trên cơ sở nhiều tiêu chuẩn khác, phi chính thức như: thái độ tiếp đón, hướng
dẫn và phục vụ khách hàng một cách hoà nhã ân cần, thủ tục nhanh gọn, hợp lý, đơn

giản, phục vụ cho khách hàng nhanh nhất trong phạm vi thời gian quy định; đảm bảo
cung ứng đúng và đủ lượng tiền theo Hợp đồng tín dụng đã ký; đồng thời tuân thủ
các quy định trong lĩnh vực cho vay (các Luật và văn bản dưới Luật).

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Chất lượng hoạt động tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại, phát
triển của các ngân hàng và của toàn xã hội. Để quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ,
đòi hỏi phải hiểu rõ tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Có
thể chia các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng làm hai loại: các nhân tố bên
ngoài (nhân tố khách quan) và các nhân tố bên trong (nhân tố chủ quan). Tuỳ thuộc
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng nước, của từng ngân hàng mà hai loại nhân
tố này qua nghiên cứu cụ thể từng loại nhân tố ảnh hưởng.

1.2.3.1. Từ phía ngân hàng.
Đây là các nhân tố từ bên trong, bao gồm: Chính sách tín dụng; Khả năng
thẩm định dự án, thẩm định khách hàng; Năng lực giám sát và xử lý các tình huống
tín dụng; Thông tin tín dụng; Công nghệ phục vụ hoạt động tín dụng; Hoạt động
kiểm tra, kiểm soát nội bộ; Năng lực, trình độ của đội ngũ CBTD.
Các nhân tố bên trong trường thường liên quan tới sự phấn đấu của bản thân
ngân hàng trên tất cả các mặt có liên quan tới hoạt động tín dụng và ảnh hưởng trực
tiếp tới những khía cạnh khác nhau của chất lượng tín dụng. Các nhân tố bên trong
gồm 7 nhân tố (về chính sách; công tác tổ chức; trình độ lao động; quy trình nghiệp
vụ; thông tin; kiểm tra kiểm soát và trang thiết bị), cụ thể như sau:
- Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng bảo đảm cho hoạt động tín dụng
đi đúng quỹ đạo, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một ngân
hàng. Tùy từng thời kỳ, điều kiện cụ thể mà chính sách tín dụng được điều chỉnh cho
thích hợp. Chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo
khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật



×