Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TÂN TRÀO – TUYÊN QUANG NHẰM NÂNG CAO PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.74 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH TẠI
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TÂN TRÀO – TUYÊN QUANG
NHẰM NÂNG CAO PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC


HÀ NỘI – 2016

Lời cảm ơn
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi
lời cảm ơn tới thầy giáo PGS.TS. Phạm văn Thuần, người trực tiếp hướng dẫn
khoa học đã nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
để hoàn thành bản luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo trường Đại học
Giáo Dục Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
tại trường.
Xin gửi lời cảm ơn tới Ban chủ nhiệm khoa, lãnh đạo các tổ chuyên
môn, cán bộ và giáo viên trường THPT Tân Trào Tuyên Quang , tổ chuyên
môn trường THPT Tân Trào Tuyên Quang đã nhiệt tình cung cấp số liệu,
đóng góp ý kiến và tư vấn khoa học cho tôi trong việc thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, khích lệ,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong các thầy giáo, cô giáo và các bạn quan tâm góp ý để luận văn
được hoàn thiện hơn.


Hà Nội, tháng 10 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hương

2


KÝ HIỆU CỤM TỪ VIẾT TẮT
BGH

Ban giám hiệu

CBQL

Cán bộ quản lý

CNTT

Công nghệ thông tin

CSVC

Cơ sở vật chất

DH

Dạy học

ĐTNCS


Đoàn Thanh niên cộng sản

GD & ĐT

Giáo dục và Đào tạo

GV

Giảng viên

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

HS

Học sinh

KT - ĐG

Kiểm tra - Đánh giá

NCKH

Nghiên cứu khoa học

NN

Ngoại ngữ


NXB

Nhà xuất bản

PP

Phương pháp

PPDH

Phương pháp dạy học

QLGD

Quản lý giáo dục

QLHS

Quản lý học sinh

HS

Học sinh

TBDH

Thiết bị dạy học

TBM


Trưởng bộ môn

3


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong bối cảnh hiện nay, để hội nhập thế giới và thực hiện quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước Việt Nam cũng như nhiều nước trên
thế giới đang có xu hướng chuyển dịch nền kinh tế của nước mình sang nền
kinh tế tri thức; nền kinh tế mà sản phẩm của nó đều chứa đựng hàm lượng
chất xám cao. Xu thế hội nhập đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có chất lượng
cao trong môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hóa. Ngoại ngữ được xếp vào vào
một trong những lĩnh vực ưu tiên nói chung và tiếng Anh nói riêng là công cụ
giao tiếp, là chìa khóa mở cửa kho tàng tri thức nhân loại góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ trong thời đại hiện nay để đất nước
chúng ta vững bước trên con đường hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa.
Xuất phát từ thực tế hội nhập của Việt Nam trong thời đại khoa học,
công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng và đáp ứng
nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội.Trong các ngoại ngữ, tiếng anh là
ngôn ngữ phổ biến nhất hầu hết các giao dich trên thế giới đều bằng tiếng
anh .Vì vậy rất nhiều quốc gia đưa tiếng anh vào chương trình giáo dục và
đào tạo vì vậy sinh viên tốt nghiệp yêu cầu biết sử dụng ít nhất một ngoại
ngữ ở trình độ nhất định. Nhận thức được điều đó từ nhiều năm nay, Việt nam
đã đưa chương trình tiếng anh vào giảng dạy ở tất cả các cơ sở giáo dục, từ
phổ thông đến sau đại học .

Trong Quyết định số 1400/QĐ -TTg ngày 30/9/2008 về việc phê duyệt
thực hiện Đề án dạy và học ngoại ngữ giai đoạn 2008-2020, theo Thứ trưởng
Bộ Giáo dục & Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển, với mục tiêu chung của đề án là
đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc
dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ
học, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực

1


sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu
tiên; đến năm 2020, ngoại ngữ phải trở thành thế mạnh của Học sinh, Sinh
viên Việt Nam trong học thuật, giao tiếp, nghiên cứu… Thứ trưởng Nguyễn
Vinh Hiển nhấn mạnh, tầm bao trùm của đề án, vì vậy không chỉ trong phạm
vi giáo dục quốc dân bởi nó còn gắn với môi trường sử dụng ngoại ngữ.
Chính vì vậy, trong quá trình triển khai đề án, các đơn vị thực hiện cần thực
hiện tốt công tác xã hội hóa để tận dụng và kết hợp được sức mạnh trong và
ngoài nhà trường trong việc tạo môi trường sử dụng tiếng Anh cũng như tận
dụng nguồn lực của các tổ chức giáo dục nước ngoài.Thứ trưởng Nguyễn
Vinh Hiển nhấn mạnh: Có một thực tế là hiện nay, mức độ sử dụng ngoại ngữ
được của HS, SV sau khi tốt nghiệp là rất thấp, thế nên tiến độ của đề án có
thể chậm nhưng phải đảm bảo chất lượng và phải làm thật. Muốn làm được
điều này, nhất thiết đội ngũ giáo viên phải đủ năng lực về ngoại ngữ và năng
lực sư phạm. Công tác kiểm tra, đánh giá cũng sẽ thay đổi theo hướng đánh
giá được cả 4 kỹ năng nghe - nói - đọc - viết. Cũng đồng quan điểm này, Thứ
trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga cho rằng cần phải đổi mới tư duy về dạy học ngoại ngữ. Nếu cứ duy trì như hiện nay thì môn ngoại ngữ sẽ trở thành
nỗi sợ hãi của SV. Phương pháp giảng dạy phải có sự điều chỉnh tùy theo
trình độ, đối tượng SV để đạt được mục tiêu cuối cùng là SV khi tốt nghiệp
phải sử dụng được ngoại ngữ ở trình độ chúng ta mong muốn chứ không phải
là hoàn thành xong giáo trình, đạt được một chứng chỉ nào đó. Chính vì vậy,

theo Thứ trưởng Bùi Văn Ga, việc đào tạo GV tại các trường ĐH, CĐ là một
yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của đề án.Việc đầu tư, mua sắm trang
thiết bị cho việc học ngoại ngữ cũng không thể giống như trước đây mà phải
nghiên cứu để sử dụng những công cụ hiện đại, mang tính mềm dẻo hơn.
Bộ trưởng Giáo dục thừa nhận đề án 2020 thất bại – Bộ trưởng Phùng
Xuân Nhạ thừa nhận trước Quốc hội rằng đến năm 2020 không thể đạt được
mục tiêu đã đề ra của đề án Ngoại ngữ 2020. Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020

2


và khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam và vấn đề liên quan đến
quy định trình độ ngoại ngữ đối với GV và HS ; đào tạo trình độ sau đại học,
đào tạo Và phát triển nguần nhân lục chất lượng cao người dân tộc thiểu số,…
Đề án Ngoại ngữ quốc gia là một vấn đề lớn, có tính lâu dài, nó không
phải là nhiệm vụ cảu quá khứ, hiện tại, mà phải tiếp tục sau này. Để đạt được
mục tiêu như đề án mong muốn, cần phải có thời gian và chi phí lớn hơn.
Trong khi xây dựng đề án và triển khai gặp rất nhiều vấn đề. Khi ây dựng
đề án phải hết sức thiết thực,hết khả thi, bám sát vào yếu tố thực tiễn. Bộ Giáo
dục đẫ tổ chức rà soát, trước hết là cách tiếp cận, sau đó đến mục tiêu.
Một trong những sửa đổi đề án trong thời gian tới là nội dung thống
nhất, trong đó có tính đến sự hội nhập quốc tế ;tập trung vào đội ngũ GV và
phương thức tổ chức giảng dạy,đặc biệt là mục tiêu đào tạo suốt đời về ngoại
ngữ và mội người đều được được hưởng thành quả của hội nhập.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cũng khảng định, không thể
phủ nhận một số thành công của dự án. Đặc biệt là bài học kinh nghiệm.
Theo Bộ trưởng, mục tiêu của Đề án thời gian qua chưa tính đến điều
kiện khả thi, vì vậy sau một thời gian triển khai, nhiều mục tiêu không đạt
được. Vì nhiều mục tiêu đề ra quá cao dẫn đến hiệu quả không cao. Biểu hiện
rõ trong các kỳ thi vừa rồi. Đây là bài học sáng giá để nhìn lại.

Cũng theo ông Phùng Xuân Nhạ đội ngữ GV có vai trò quan trọng nhất
trong việc dạy và học Ngoại ngữ. Việc áp dụng theo khung năng lực Ngoại
ngữ châu Âu 6 bậc có tài liệu những vẫn nặng lý thuyết,nhẹ thực hành. GV đã
phải cố giắng nhiều nhưng không hiệu quả. Không ngoại trừ một số trường
hợp chạy chứng chỉ để đảm bảo hồ sơ đứng lớp.
Đào tạo có nhưng phương thức vẫn theo kiểu cũ. Trách nhiệm của các
trường sư phạm, nhất là các trường chuyên ngữ chưa được chú trọng đúng
mức. GV phần lớn dồn vào hè đi học, vất vả cho GV mà hiệu quả không cao.
Trong khi ở thế giới, nhiều người dùng theo hình thức online, các thầy cô có

3


thể học mọi lúc mọi nơi, ứng dụng mạnh công nghệ thông tin.
Từ những giải pháp này Bộ Trưởng Phùng Xuân Nhạ đưa ra giải pháp
trong thời gian tới.
Thứ nhất tập trung vào đội ngũ GV .THứ hai tập trung vào cơ sở học
liệu, phù hợp với điều kiện yêu cầu của Việt Nam và đào tạo từ xa, tạo điều
kiện cho GV có thể mọi lúc mọi nơi, hình thành các trung tâm không có liên
doanh liên kết đào tạo ngoại ngữ. Thứ ba là củng cố nâng cao việc dạy ngoại
ngữ. Tránh tình trạng học xong công nhận, làm thật nghiêm.
Ngoài ra Đề án 2020 không phải để phục vụ tất cả mọi người nâng cao
trình độ Ngoại ngữ là xương sống, tạo môi trường để học Ngoại ngữ. Chúng
ta đưa ra mục tiêu bao nhiêu năm thì tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai
nhưng phải tạo được sự thay đổi dần dần.
Vì vậy, quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh nhằm tiếp cận phát
triển năng lực người học có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc nâng cao
chất lượng đào tạo trong nhà trường. Quản lý tốt hoạt động dạy học môn tiếng
Anh sẽ giúp giảng viên và sinh viên có những bước đi đúng đắn trong từng khâu
của quá trình dạy học nhằm đạt được các yêu cầu do mục tiêu giáo dục đề ra.

Hiện nay, việc quản lý dạy và học môn tiếng Anh nhằm tiếp cận đánh
giá năng lực của người học còn nhiều bất cập, chậm đổi mới, một số giảng
viên giảng dạy qua loa, nhiều sinh viên chỉ chú trọng học để đối phó với thi
cử. Việc dạy và học còn mang nặng tính hình thức, chạy theo thành tích. Chất
lượng dạy và học môn tiếng Anh còn thấp, khả năng thực hành tiếng của sinh
viên còn kém, không sử dụng được để giao tiếp. Việc đầu tư trang thiết bị
hiện đại phục vụ cho việc dạy và học còn hạn chế hoặc nếu được trang bị thì
hiệu quả sử dụng còn thấp.
Môn tiếng Anh chiếm vị trí quan trọng và đóng vai trò không thể thiếu
được trong việc nâng cao và mở rộng kiến thức, tư duy tầm hiểu biết về thông
tin, văn hóa cho các em học sinh. Chính vì vậy, việc dạy và học môn tiếng

4


Anh cho các em học sinh, phụ huynh và cả xã hội quan tâm, đầu tư.Cùng với
các môn học và hoạt động giáo dục khác tiếng Anh góp phần hình thành và
phát triển nhân cách của học sinh là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mục
hiệu quả dạy và học môn tiếng Anh là đội ngũ giáo viên giúp cho việc thực
hiện mục tiêu giáo dục ở trường phổ thông.
Trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang trong thời gian qua, nhà trường
cố gắng khắc phục khó khăn không ngừng phấn đấu nâng cao chất lượng đào
tạo, coi đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo. Coi trọng các biện pháp quản lý hoạt động dạy học đặc biệt quản
lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất
lượng cao. Vì vậy, việc dạy và học tốt môn tiếng Anh đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường và có trình độ tiếng
Anh tốt không chỉ giúp học sinh tự học, tự nghiên cứu tốt mà còn giúp ích cho
học sinh khi ra trường có đủ năng lực sử dụng ngoại ngữ độc lập, tự tin trong
giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hóa biến

ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam trên con đường hội
nhập và xu thế toàn cầu hóa. Xuất phát từ lý do trên, với vị trí là giáo viên
ngoại ngữ trực tiếp giảng dạy cho học sinh tiếp cận theo năng lực của học
sinh theo Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai
đoạn 2008-2020”
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học
môn tiếng Anh tại trường THPT Tân Trào-Tuyên Quang nhằm nâng cao
phát triển năng lực người học” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học
chuyên ngành quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận. Tìm hiểu thực trạng các biện pháp quản
lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở trường THPT Tân Trào Tuyên Quang;
đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh của

5


trường, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ tại trường
THPT Tân Trào Tuyên Quang với mục đích đáp ứng yêu cầu của đề án “Dạy
và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020” và
góp phần vào thành công trong công cuộc đổi mới căn bản giáo dục toàn diện
hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu.
Công tác bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ cho giáo viên tiếng Anh của
trường THPT .
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh bồi dưỡng năng
lực cho giáo viên tiếng Anh của trường THPT Tân trào Tuyên Quang
3.3. Khách thể khảo sát.

- Học sinh lớp 10, 11, 12 :Trường THPT Tân trào Tuyên Quang 1268
HS; (trong đó 300 học sinh năm lớp 10, 200 học sinh năm thứ 2 lớp 11, 200
học sinh năm thứ 3 lớp 12)
- Giáo viên bộ môn ngoại ngữ.
- Các giáo viên, tổ bộ môn khác (Ban giám hiệu 4; tổ bộ môn có 8 tổ)
4. Giả thuyết khoa học.
Hiện nay, đội ngũ giáo viên tiếng Anh có vai trò quyết định việc đảm
bảo chất lượng hiệu quả giáo dục môn tiếng Anh trong trường THPT các biện
pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ của của tổ chuyên môn Ngoại ngữ
Tiếng Anh thuộc trường THPT Tân trào đã đạt được những kết quả nhất định
tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế.Vì vậy nếu tìm ra các biện pháp quản lý năng
lực giáo viên tiếng Anh THPT một cách khoa học và hiệu quả và triển khai
một cách đồng bộ và hợp lí thì sẽ nâng cao năng lực cho giáo viên tiếng Anh
tỉnh Tuyên Quang đáp ứng được yêu cầu của Đề án, từ đó đề xuất các biện
pháp quản lý phù hợp thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng quản lý hoạt động

6


dạy học môn tiếng Anh tại trường THPT Tân Trào.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn tập trung thực hiện
các nhiệm vụ sau đây.
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động bồi
dưỡng năng lực ngoại ngữ và hoạt động quản lý bồi dưỡng năng lực cho GV
tiếng Anh THPT Tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 3 năm từ năm 2013.
5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về dạy học ngoại ngữ, dạy học
môn tiếng Anh và quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh của trường
THPT Tân Trào Tuyên Quang.
5.2. Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh của

trưởng THPT Tân Trào.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng
Anh của trường THPT Tân Trào nhằm tiếp cận phát năng lực người học.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động bồi
dưỡng năng lực ngoại ngữ cho giáo viên tiếng Anh và nhằm phát triển năng
lực cho người học trường THPT Tân Trào trong giai đoạn 3 năm từ từ năm
2013 đến nay.
+ Giới hạn phạm vi đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu biện pháp quản
lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh của trường THPT Tân trào .
+ Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu tại trường THPT Tân Trào
Tuyên Quang
7. Phương pháp nghiên cứu.
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Phân tích, tổng hợp các tài liệu về lý luận có liên quan đến quản lý dạy
học ngoại ngữ.
7.2. Phương pháp phỏng vấn.

7


Phỏng vấn cán bộ quản lý, các GV có kinh nghiệm trong dạy học ngoại
ngữ về các biện pháp quản lý HĐDH ngoại ngữ của trường THPT Tân Trào Tuyên Quang.
7.3. Phương pháp quan sát.
Thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu bằng cách tri giác trực tiếp
đối tượng (dự giờ, thăm lớp) và các nhân tố khác liên quan đến đối tượng
nghiên cứu.
7.4. Phương pháp điều tra.
Xây dựng các mẫu phiếu điều tra nhằm thu thập các ý kiến đánh giá
của các chuyên gia về các biện pháp quản lý HĐDH ngoại ngữ của trường

THPT Tân Trào Tuyên Quang, kiểm chứng tính cần thiết, khả thi của các biện
pháp một cách khách quan nhằm tránh những sai sót trong quá trình nghiên cứu.
7.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Mục đích chính của việc sử dụng phương pháp nàylà tìm hiểu về thực
trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV tiếng Anh của trường THPT Tân Trào
Tuyên Quang, qua phương pháp này, người nghiên cứu có thể khẳng định kết
quả định tính của việc kiểm chứng các biện pháp do mình đề xuất.
Việc tổ chức các hội thảo, gặp gỡ, trao đổi ý kiến một cách chính thức,
hoặc không chính thức như trao đổi, trực tiếp thảo luận, qua điện thoại hoặc
thư điện tử (Email) bàn về những vẫn đề có liên quan đến nội dung này với
các càn bộ quản lý, tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, GV dạy tiếng Anh
có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy tiếng Anh của trường THPT trong tỉnh
Tuyên Quang. Phương pháp này được sử dụng với mục đích tìm hiểu mức độ
tán thành của các chuyên gia về các biện pháp dự kiến đề xuất và mức độ vận
dụng các biện pháp đó vào hoạt động BDGV dạy tiếng Anh . Mặt khác,
phương pháp này được dùng để xem xét tính hợp lý và tính khả thi của các
biện pháp quản lý được bổ sung sau khi hoàn chỉnh các biện pháp dự kiến.
Bằng việc xây dựng câu hỏi điều tra theo nguyên tắc và nội dung của

8


chúng tôi. Phương pháp này được sử dụng với mục đích chủ yếu là thu thập
các số liệu về quản lý hoạt động BDGV dạy tiếng Anh của cán bộ quản lý các
trường THPT, cán bộ quản lý cơ sở GD&ĐT tỉnh Tuyên Quang, nhằm minh
chứng được thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV dạy tiếng Anh tại các
trường THPT Tuyên Quang.
7.6. Phương pháp thống kê toán học.
Dùng một số công thức toán học để xử lý số liệu thu được để sử lý kết
quả điều tra, phân tích kết quả nghiên cứu trước khi rút ra kết luận định tính.

8. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận - khuyến nghị, luận văn được trình bầy
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động dạy học ngoại
ngữ của trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang.
Chương 2: Thực trạng biện pháp quản lý HĐDH môn tiếng Anh của
trường THPT Tân Trào.
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp quản lý HĐDH môn tiếng Anh
của trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang.

9


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN
TIẾNG ANH CỦA TRƯỜNG THPT TÂN TRÀO TUYÊN QUANG
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học và quản lý
hoạt động dạy học môn tiếng Anh.
1.1.1. Ở nước ngoài.
Quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng, dựa
trên sự phân công và hợp tác để thực hiện một công việc nào đó nhằm đạt
mục tiêu chung. Có thể nhận thấy quản lý ra đời từ nhu cầu của cuộc sống,
lịch sử phát triển của xã hội loài người là sự phát triển từ thấp đến cao của các
hình thái ý thức xã hội, sự hình thành và phát triển của quản lý gắn liền với
dòng chảy lịch sử ấy. Khái niệm quản lý đã được phát hiện cách đây hơn
7.000 năm. Lúc đó quản lý gắn với triết học, chưa tách ra trở thành một khoa
học độc lập.
Ở thời kỳ cổ Hi lạp những tư tưởng quản lý sơ khai xuất phát từ các
quan điểm triết học, sự đóng góp của các nhà triết học về lĩnh vực quản lý tuy
còn ít ỏi nhưng rất đáng chú ý: Xôcrat (469-399 trước Công nguyên) đưa ra

khái niệm về tính toàn năng của quản lý; Platon (427-347) trước Công
nguyên) sáng tạo mô hình nhà nước quí tộc lý tưởng; Aristot (384-322 trước
Công nguyên) cho rằng hình thức cao nhất của quyền lực nhà nước là những
hình thức loại trừ được khả năng sử dụng quyền lợi một cách tư lợi.
Ở phương Đông, các nhà hiền triết Trung Hoa có những đóng góp to
lớn về tư tưởng quản lý. Quản Trọng (725-645 trước công nguyên) với tư
tưởng lập pháp thuộc về vua, qui tắc lập pháp phải lấy tình người và phép trời
làm tiêu chuẩn, hành pháp phải công bố luật rõ ràng, chính sách cai trị phải
dựa vào ý dân; Khổng Tử (551-479 trước công nguyên) với học thuyết Lễ trị,
đề cao sự cai trị bằng đạo đức, sự chính xác của những mối quan hệ xã hội, sự

10


công bằng và ngay thẳng; Mạnh Tử (372-289) đại biểu xuất sắc của Nho giáo,
với sự phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng không tuyệt đối hóa vai
trò của người làm vua mà chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh
(dân là quý, đất nước đứng hàng thứ hai, vua thì coi nhẹ); Tuân Tử (313-238
trước công nguyên) nhấn mạnh kẻ giỏi về quân sự là phải biết “thiện phụ
dân”, tức là dựa vào sức mạnh của dân một cách hiệu quả, được dân ủng hộ
mới nắm chắc phần thắng, “thiện phụ dân” là cái vốn quý nhất của người điều
khiển chiến tranh; Hàn Phi Tử (280-233 trước công nguyên) người chủ trương
nêu lên tư tưởng mọi người bình đẳng trước pháp luật, pháp luật là thượng tôn
trong nhà nước.
Đến thời kỳ cận đại, quản lý dần tách khỏi triết học và trở thành một
khoa học độc lập. Thời kỳ này đánh dấu sự xuất hiện của nhiều thuyết quản lý
mới tương ứng với sự ra đời của xã hội công nghiệp. Tác giả Henry Fayol
trong thuyết hành chính của mình cho rằng: Quản lý là biết được chính xác
điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành
một cách tốt nhất và rẻ nhất. Cũng theo Fayol, quản lý là sự dự đoán, lập kế

hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra. Đại diện cho thuyết tổ chức
trong quản lý là Max Weber và Chester Barnard, họ là những người sáng lập
ra mô hình tổ chức để quản lý các doanh nghiệp lớn với yếu tố chủ yếu là sự
phân công, sắp xếp rõ ràng từng vị trí, lựa chọn nhân lực nghiêm ngặt, lương
thưởng và đề bạt hợp lí. Thuyết hành vi trong quản lý có đại diện là H.Simon
và Douglas MC Gregor với sự vận dụng khoa học tâm lý vào quản lý. Ở thời
kỳ hiện đại, cùng với sự thay đổi của kinh tế xã hội, nhiều thuyết quản lý mới
đã ra đời trên cơ sở kế thừa những tư tưởng quản lý trước đây.
Nhìn chung qua tổng kết quá trình hình thành và phát triển của quản lý
có thể thấy rằng chính xác phương thức tồn tại và phát triển của xã hội con
người là nguồn gốc của quản lý. Xã hội càng văn minh, trình độ tổ chức, điều
hành xã hội càng phát triển thì nhu cầu về quản lý ngày càng cao, bởi thế

11


quản lý lúc ban đầu tồn tại như một bộ phận của triết học dần dần đã được
tách ra trở thành một khoa học độc lập với những thành tựu nghiên cứu lớn
lao phục vụ cho sự phát triển của xã hội loài người. Đó là sự hình thành và
phát triển của quản lý nói chung, quản lý giáo dục, một phần ngành của quản
lý có sự hình thành muộn hơn. Ở thế kỷ 18, nghiên cứu về thực tiễn giáo dục
thế giới có các công trình tiêu biểu của K.Raumer (1842, Đức); R.H Quych
(1868, Mĩ). Đến giữa và cuối thế kỷ 19 nhiều tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu
những vấn đề cụ thể của giáo dục như K. Ker, A.Laropski, M.I Kalinin, N.K
Krupxcaia, A. Makarenko, giai đoạn hiện nay phải kể đến Baldrige, Beare,
Caldwell, Bell, Beundrett, Bush, Campbell - Evans, Chapman, Cuban, davies,
Dimmock, C.& Walker, Wilower.
1.1.2. Ở trong nước.
Ở Việt Nam, một số quan điểm, tư tưởng về giáo dục đã được bàn luận
đến từ lâu trong những công trình nghiên cứu của các sử gia như Ngô Sĩ Liên

(thế kỷ XV), Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII). Trong nửa đầu thế kỷ XIX Phan
Huy Chú cũng bỏ công nghiên cứu về hệ thống khoa cử của Việt Nam. Thời
kỳ sau cách mạng tháng Tám nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động sư phạm đã
đề cập đến quản lý giáo dục, đặc biệt là các lãnh tụ Đảng và Nhà nước như
Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cũng có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu
về lĩnh vực này. Ngày nay, cùng với quá trình hình thành và phát triển của
kinh tế xã hội, khoa học quản lý giáo dục của Việt Nam đã dần định hình và
tiếp cận thế giới. Trong quá trình đó đã xuất hiện nhiều tác giả nghiên cứu về
quản lý giáo dục như Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Phạm Minh Hạc. Gần
đây nhất xuất hiện nhiều tài liệu đáng chú ý trong lĩnh vực quản lý giáo dục:
Khoa học quản lý giáo dục (Trần Kiểm), Bài giảng đại cương về quản lý giáo
dục (Trần Quốc Thành), Quản lý giáo dục (Bùi Minh Hiền), (Vũ Ngọc Hải,
Đặng Quốc Bảo), Lý luận quản lý giáo dục học đại cương (Đặng Bá Lãm,
Phạm Khắc Chương), Giáo trình quản lý giáo dục (Bùi Văn Quân).

12


Đối với bộ môn ngoại ngữ nói chung, môn tiếng Anh nói riêng là môn
học mà các trường phổ thông, các trường cao đẳng, đại học và trung cấp
chuyên nghiệp trong toàn quốc đều giảng dạy và học tập. Tiếng Anh là ngôn
ngữ quốc tế, là công cụ, là ngôn ngữ giao tiếp, là chìa khóa mở cửa kho tàng
tri thức, là môn học giúp HS cập nhật và mở rộng kiến thức khoa học nhanh
nhất. Như vậy có thể nói môn tiếng Anh có một vị trí vai trò rất quan trọng và
rất đặc biệt trong các nhà trường cũng như ngoài xã hội. Và từ cái lợi, cái hữu
ích của tiếng Anh trong thế giới ngày nay chúng ta cần quan tâm nhiều hơn
nữa, đầu tư cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu cũng như tạo điều kiện, môi
trường sử dụng nó tốt hơn nữa. Hiện nay việc quản lý hoạt động dạy học môn
tiếng Anh có hiệu quả và giúp người dạy, người học và cả các nhà quản lý
nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn để giảng dạy, học tập và QL

nghiêm túc hơn là vấn đề mà các nhà trường cũng như các cơ sở đào tạo cần
quan tâm, chấn chỉnh. Thực tế cho thấy vẫn có nhiều nơi, nhiều lúc vấn đề
này còn bị xem nhẹ hay bỏ ngỏ. Nhiều trường, nhiều cơ sở đào tạo vẫn còn
xem môn tiếng Anh như là một môn học có trong chương trình Bộ giáo dục &
Đào tạo quy định, chứ chưa thật sự thấy được vai trò quan trọng của môn học.
Những nghiên cứu giúp tìm ra đường lối và phương pháp quản lý việc dạy
học bộ môn này quả là bước đi lâu dài và trải qua nhiều thử nghiệm của bao
thế hệ hôm nay và tương lai. Theo thống kê gần đây nhất đã có một số tác giả
chuyên ngành tiếng Anh và chuyên ngành Quản lý giáo dục trong thời gian
qua đã có nhiều nỗ lực và tâm huyết nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt
động dạy học và quản lý hoạt động dạy học môn ngoại ngữ nói chung và môn
tiếng Anh nói riêng như: Đề tài “Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học
môn tiếng Anh tại trường ĐH Điện Lực” của tác giả Trần Thị Bích Hải, luận
văn thạc sỹ Khoa học Giáo dục, năm 2008; Đề tài “Các biện pháp quản lý
hoạt động dạy-học tiếng Anh chuyên ngành ở trường ĐH Lao động-Xã hội”
của tác giả Trương Thị Tuyết Hạnh, luận văn thạc sỹ Khoa học Giáo dục, năm

13


2008; Đề tài “Các biện pháp quản lý hoạt động dạy - học môn tiếng Anh cho
SV hệ chính quy ở Học viện Hành chính Quốc gia” của tác giả Trương Thị
Thu Thủy luận văn thạc sỹ Khoa học Giáo dục, năm 2008; Đề tài “Biện pháp
quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại trường Cao đẳng tài nguyên và
môi trường Hà Nội”, của tác giả Đặng Đức Chính, luận văn thạc sỹ Khoa học
Giáo dục, năm 2009; Đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ
của trưởng bộ môn ở các trường cao đẳng, Đại học ở địa bàn tỉnh Sơn La” của
tác giả Trần Diệu An, luận văn thạc sỹ Khoa học Giáo dục, năm 2010; Đề tài:
“Biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học tiếng anh không chuyên tại
trường Cao đẳng Sơn La” của tác giả Cầm Thị Giàng, luận văn thạc sỹ Khoa

học Giáo dục, năm 2010;
Các đề tài trên nghiên cứu những biện pháp quản lý hoạt động dạy học
môn tiếng Anh ở một số trường học, cơ sở giáo dục đào tạo tại Sơn La và Hà
Nội. Chưa có đề tài nào nghiên cứu quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh
của TBM ở các trường Đại học trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Chúng tôi mong
muốn từ thực trạng tình hình hoạt động dạy và học ngoại ngữ, thực trạng quản
lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh của TBM ở trường Đại học Kinh tế Kỹ
thuật Hải Dương để tìm ra các biện pháp cụ thể, phù hợp góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động dạy học ngoại ngữ. Đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân
lực có chất lượng cao cho địa phương theo yêu cầu phát triển và hội nhập
ngày nay của đất nước ta.
1.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý và quản lý hoạt động dạy học.
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm quản lý.
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất và lâu
đời của con người nó mang tính đặc thù. Nó gắn liền với sự phát triển không
ngừng theo sự phát triển của xã hội. Quản lý là một hoạt động cần thiết cho
tất cả các lĩnh vực của đời sống con người và là một nhân tố của sự phát triển

14


xã hội. Lý luận về quản lý vì vậy được hình thành và phát triển qua các thời kì
và trong các lý luận về chính trị, kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mới chỉ gần đây
người ta mới chú ý đến "chất khoa học" của quá trình quản lý và dần dần hình
thành các "lý thuyết quản lý". Từ khi F.W.Taylor phát biểu nguyên lý về quản
lý thì quản lý nhanh chóng phát triển thành một ngành khoa học.
Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý tùy thuộc vào các cách tiếp
cận, góc độ nghiên cứu và hoàn cảnh xã hội, kinh tế, chính trị.
Theo Harold Koontz, quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo

sự phối hợp nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục
tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con
người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất
và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một
nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức về quản lý là một khoa học. [12; 33]
Theo Afanaxev: “Quản lý con người có nghĩa là tác động đến anh ta,
sao cho hành vi, công việc và hoạt động của anh ta đáp ứng những yêu cầu
của xã hội, tập thể, để những cái đó có lợi cho cả tập thể và cá nhân, thúc đẩy
sự tiến bộ của cả xã hội lẫn cá nhân”. [1; 27] Tác giả Trần Kiểm cho rằng:
Quản lý trường học có thể là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và
có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể GV, HS và các lực lượng xã
hội trong và ngoài nhà trường nhằm huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của
họ vào mọi mặt hoạt động của nhà trường hướng vào hoàn thành có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu dự kiến. [18; 21]
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là những tác động có định hướng,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận
hành tổ chức nhằm đạt được mục đích nhất định”. [23; 5]
Theo tác giả Nguyễn Bá Dương: “Hoạt động quản lý là sự tác động qua
lại một cách tích cực giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý qua con
đường tổ chức, là sự tác động có điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động

15


của các đối tượng quản lý, lãnh đạo cùng hướng vào hoàn thành những mục
tiêu nhất định của tập thể và xã hội.” [8; 55]
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm cho tổ chức vậnh hành và đạt được mục đích của tổ chức. Nghiên cứu

các định nghĩa trên chúng ta có thể nhận thấy mặc dù các tác giả có các quan
niệm khác nhau về quản lý nhưng họ đều thống nhất ở một số điểm là:
+ Quản lý luôn luôn tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm các yếu tố:
chủ thể quản lý, khách thể quản lý và mục đích hay mục tiêu chung của công
tác quản lý do chủ thể quản lý áp đặt hay do yêu cầu khách quan của xã hội
hoặc do có sự cam kết thỏa thuận giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý,
từ đó nảy sinh các mối quan hệ tương tác với nhau giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý.
+ Bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều
khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt
được mục tiêu đề ra.
Như vậy, quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu của xã hội. Chủ
thể quản lý và khách thể quản lý luôn có mối quan hệ tác động qua lại và chịu
tác động của môi trường. Con người là yếu tố trung tâm của hoạt động quản
lý vì thế quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật.
Quản lý là khoa học vì các hoạt động quản lý luôn là một hoạt động có
tổ chức, có định hướng trên những quy luật, những nguyên tắc và phương
pháp hoạt động cụ thể. Chỉ khi nhận biết đúng các quy luật đó, các đặc điểm
của từng cá thể, các đặc trưng tâm lý khác nhau thì tác động của quản lý mới
có kết quả. Mặc dù trong hoạt động quản lý, nhà quản lý luôn tìm cách đúc
kết kinh nghiệm và cải tiến công việc để có hiệu quả, tuy nhiên muốn quản lý

16


tốt thì phải học, không thể chỉ làm theo kinh nghiệm được.
Quản lý đồng thời là một nghệ thuật vì hoạt động quản lý là một hoạt
động thực hành trong thực tiễn vô cùng phong phú và đầy biến động. Không
có một nguyên tắc chung nào cho mọi tình huống. Nhà quản lý phải làm sao

để có thể xử lý sáng tạo, thành công mọi tình huống nhằm thực hiện có hiệu
quả mục tiêu đề ra, điều đó phụ thuộc vào bí quyết sắp xếp các nguồn lực,
nghệ thuật giao tiếp, ứng xử, khả năng thuyết phục, kỹ năng sử dụng biện
pháp của từng người.
Trong luận văn này tôi sử dụng khái niệm: Quản lý là tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt
được mục tiêu nhất định.
1.2.1.2. Chức năng quản lý.
Chức năng quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định
trên cơ sở nhận thức và vận dụng đứng đắn những quy luật khách quan của hệ
thống là hình thái biểu hiện sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý. Quản lý có bốn chức năng cơ bản, có quan hệ chặt chẽ với
nhau là: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
a. Chức năng kế hoạch hoá.
Lập kế hoạch là xác định mục tiêu, xác định bước đi để đạt mục tiêu,
xác định con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu đó. Đây là
chức năng hạt nhân, quan trọng nhất của quá trình quản lý. Kế hoạch được
hiểu là tập hợp những mục tiêu cơ bản được sắp xếp theo một trình tự nhất
định, với một chương trình hành động cụ thể để đạt các mục tiêu đã được
hoạch định. Kế hoạch đặt ra xuất phát từ đặc điểm tình hình cụ thể của tổ
chức và những mục tiêu cụ thể đã định sẵn mà tổ chức có thể hướng tới và đạt
được theo mong muốn, dưới sự tác động có định hướng của chủ thể quản lý.
b. Chức năng tổ chức.

17


Tổ chức là quá trình sắp xếp, phân bố công việc, quyền hành và các
nguồn lực cho các thành viên của tổ chức để họ có thể đạt được các mục tiêu

của tổ chức một cách hiệu quả. Ứng với những mục tiêu khác nhau đòi hỏi
cấu trúc tổ chức đơn vị cũng khác nhau. Nhờ tổ chức hiệu quả mà người quản
lý có thể phối hợp điều phối tốt hơn các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực).
Một tổ chức được thiết kế phù hợp sẽ phát huy được năng lực nội sinh và có ý
nghĩa quyết định đến việc chuyển hoá kế hoạch thành hiện thực.
c. Chức năng chỉ đạo.
Là hoạt động dẫn dắt, điều khiển của người quản lý đối với các hoạt
động và các thành viên của tổ chức để điều hành hoạt động của hệ thống thực
hiện đúng kế hoạch đã định và đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong quá trình chỉ
đạo phải bám sát các hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ thống đúng
tiến trình đúng kế hoạch đã định, kịp thời phát hiện và sửa chữa các sai lệch
nảy sinh trong quá trình hoạt động của hệ thống nhằm đạt được mục tiêu đã
đề ra.
d. Chức năng kiểm tra
Quản lý mà không có kiểm tra thì coi như không có quản lý. Kiểm tra
là một chức năng quan trọng trong quản lý. Kiểm tra là thiết lập mối quan hệ
ngược trong quản lý. Kiểm tra chính là việc thu thập những thông tin ngược
từ đối tượng quản lý trong quá trình vận hành hệ thống để đánh giá trạng thái
của hệ thống, xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế hoạch đã đến mức
độ nào. Khi kiểm tra sẽ phát hiện những sai sót trong quá trình hoạt động để
kịp thời điều chỉnh. Kiểm tra bao gồm các yếu tố cơ bản sau: xem xét, thu
nhận thông tin ngược, đánh giá việc thực hiện công việc theo chuẩn, nếu có
sai lệch thì kịp thời điều chỉnh.
Nội dung của chức năng quản lý chính là tổng hợp các chức năng quản
lý tạo nên. Trong quá trình quản lý chủ thể quản lý phải thực hiện các chức
năng quản lý một cách logic.

18



Ngoài ra trong chu trình quản lý chủ thể phải sử dụng thông tin như
một công cụ hay chức năng đặc biệt để thực hiện các chức năng trên. Người
quản lý phải luôn nắm bắt thông tin, xử lý thông tin và tiến hành việc quản lý
theo 4 chức năng trên để dẫn dắt tổ chức, hệ thống đến mục tiêu cần đạt được
trên cơ sở thông tin là mạch máu của quản lý.
1.2.1.3. Nguyên tắc quản lý.
a. Nguyên tắc đảm bảo tính Đảng trong quản lý.
Nguyên tắc đảm bảo tính Đảng đòi hỏi nhà quản lý phải bám sát chủ
trương, đường lối chung của Đảng, xây dựng đội ngũ vững mạnh về tư tưởng
chính trị, tôn trọng và tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng mọi lúc, mọi nơi.
b. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đây là nguyên tắc quan trọng tạo khả năng quản lý một cách khoa học
có sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cơ quan quyền lực với sức mạnh sáng
tạo của quảng đại quần chúng trong việc thực hiện mục tiêu quản lý. Nguyên
tắc tập trung được thể hiện thông qua chế độ một thủ trưởng - người chịu
trách nhiệm toàn bộ các hoạt động của đơn vị, tổ chức mình. Dân chủ trong
quản lý được hiểu là sự huy động trí lực của mọi thành viên trong tổ chức để
tiến hành quản lý. Dân chủ được thể hiện ở chỗ: các chỉ tiêu, phương án hành
động đều được tập thể tham gia bàn bạc, kiến nghị các biện pháp thực thi
trước khi đi đến quyết định. Các tổ chức quần chúng, người lao động còn
được tham gia các chức năng quản lý: tham gia xây dựng kế hoạch, kiểm tra,
giám sát. Tập trung và dân chủ có quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau,
có dân chủ sẽ phát huy tốt sức sáng tạo của quần chúng, động viên quần
chúng tích cực lao động và tham gia bàn bạc thống nhất hành động thì tập
trung càng cao và ngược lại. Tuy nhiên trong thực tiễn, nguyên tắc này
thường nảy sinh hai thái cực: tập trung quá dẫn tới quan liêu, độc đoán
chuyên quyền và dân chủ thái quá dễ dẫn đến vô chính phủ. Cả hai thái cực
này dẫn đến làm suy yếu hiệu lực quản lý. Bởi vậy, để thực hiện tốt chức

19



năng lãnh đạo, người quản lý phải phối hợp hài hòa nguyên tắc tập trung và
dân chủ.
c. Nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội.
Hiệu quả là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của tổ chức.
Nguyên tắc hiệu quả đòi hỏi phải làm thế nào để lực lượng lao động của tổ
chức tạo ra thành quả lớn nhất, chất lượng tốt nhất và hiệu quả cao nhất. Hiệu
quả không chỉ là nguyên tắc quản lý mà còn là thước đo trình độ tổ chức, chỉ
đạo và tài năng của nhà quản lý.
d. Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích xã hội.
Quản lý trước hết là quản lý con người. Con người có những lợi ích,
những nguyện vọng và những nhu cầu nhất định, do đó một trong những
nhiệm vụ quan trọng của nhà quản lý là phải chú ý đến lợi ích của con người
để khuyến khích, kích thích tính tích cực của họ. Lợi ích là một động lực to
lớn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của con người. Vì vậy, trong quản
lý phải kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích chung của
toàn xã hội.
đ. Nguyên tắc nắm khâu trọng yếu.
Nguyên tắc này đòi hỏi người quản lý phải có khả năng phân tích chính
xác các tình thế của hệ thống trong quá trình xây dựng và phát triển để tìm ra
các khâu, các việc chủ yếu, những vấn đề then chốt có ý nghĩa quan trọng
trong sự thành bại của tổ chức. Nắm vững nguyên tắc này người quản lý có
thể khắc phục được tình trạng dàn trải chung chung để tập trung vào những
vấn đề then chốt, quyết định trong việc quản lý tổ chức thực hiện mục tiêu.
e. Nguyên tắc kiên định mục tiêu.
Đây là nguyên tắc đòi hỏi người quản lý các tổ chức phải có ý chí kiên
định thực hiện cho được mục tiêu đã xác định. Bởi vì một tổ chức dù mục tiêu
đúng đắn nhưng không phải lúc nào cũng được xã hội chấp nhận, đồng tình
ủng hộ. Nếu người quản lý thiếu tự tin, không quyết tâm thì mục tiêu không


20


dễ đạt được.
1.2.1.4. Phương pháp quản lý.
Phương pháp quản lý là tổng thể các cách thức tác động có chủ đích
của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu đã
đề ra. Một mặt, phương pháp quản lý xuất phát từ các quy luật kinh tế, quy
luật tâm lý xã hội, quy luật tổ chức và các nguyên tắc chung. Mặt khác, nó
cho phép thể hiện rõ tính năng động của chủ thể quản lý. Việc lựa chọn và
phối hợp một cách đúng đắn các phương pháp quản lý quyết định hiệu quả
hoạt động quản lý. Trên thực thế người ta sử dụng các phương pháp sau:
a. Phương pháp thuyết phục.
Là phương pháp tác động vào nhận thức của con người bằng lý lẽ làm
cho con người nhận thức đúng đắn và tự nguyện thừa nhận các yêu cầu của
nhà quản lý từ đó có thái độ và hành vi phù hợp với các yêu cầu đó.
Cơ sở của phương pháp này là nhận thức, nhận thức là cơ sở thái độ và
hành vi của con người, nhận thức đúng sẽ có thái độ và hành vi đúng. Có thể
làm cho con người thay đổi nhận thức bằng các tác động nhẹ nhàng vì bản
chất của con người không ưa các tác động nặng nề. Bản chất của con người là
tốt và không ưa cưỡng bức về tư tưởng, do đó nhẹ nhàng thuyết phục làm cho
con người tự nguyện nhận ra cái đúng, cái sai. Đây là phương pháp cơ bản để
giáo dục con người, nhà quản lý chỉ tác động đến đối tượng quản lý bằng lý lẽ
của mình để thay đổi nhận thức của đối tượng. Phương pháp này gắn kết với
tất cả các phương pháp khác vì nhận thức là bước đầu tiên trong hoạt động
của con người. Nếu không có phương pháp này các phương pháp khác sẽ
không phát huy tác dụng.
Hướng tác động: Thuyết phục chung đối với tất cả mọi người, thuyết
phục riêng khi có vướng mắc ở từng cá nhân.

Khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý: Không ép buộc mà để cho con
người tự nguyện thừa nhận; Cần dùng người có uy tín để thuyết phục; Không

21


×