Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

LA kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 176 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

PHAN VN HIU

KINH Tế TậP THể TRONG XÂY DựNG
NÔNG THÔN MớI ở TỉNH QUảNG NGãI

LUN N TIN S KINH T
CHUYấN NGNH KINH T CHNH TR

H NI - 2017


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

PHAN VN HIU

KINH Tế TậP THể TRONG XÂY DựNG
NÔNG THÔN MớI ở TỉNH QUảNG NGãI

LUN N TIN S KINH T
CHUYấN NGNH: KINH T CHNH TR
Mó s: 62 31 01 02

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN VN HU

H NI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của


riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định./.
Tác giả
Phan Văn Hiếu

Phan Văn Hiếu


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

6

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến kinh tế tập thể
trong phát triển nông thôn

6

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến kinh tế tập thể
trong xây dựng nông thôn mới

16

1.3. Kết luận rút ra từ những công trình liên quan đến đề tài luận án và

vấn đề tiếp tục nghiên cứu

23

Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TẬP THỂ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

29

2.1. Bản chất, hình thức, nguyên tắc và xu hướng của kinh tế tập thể,
quan hệ giữa phát triển kinh tế tập thể với xây dựng nông thôn mới

29

2.2. Nội dung phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới,
tiêu chí đánh giá và điều kiện bảo đảm thực hiện

49

2.3. Kinh nghiệm trong nước và nước ngoài về phát triển kinh tế tập thể
trong xây dựng nông thôn mới

66

Chương 3. THỰC TRẠNG KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN 2011-2015

76

3.1. Thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh

Quảng Ngãi liên quan đến kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới

76

3.2. Tình hình triển khai, vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn
mới của tỉnh Quảng Ngãi

80

3.3. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015

91


Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
TỈNH QUẢNG NGÃI

112

4.1. Mục tiêu, quan điểm và phương hướng phát triển kinh tế tập thể
trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030

112

4.2. Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn tới

KẾT LUẬN

127
147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

150

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
AFTA

: ASEAN Free Trade Area, tiếng Việt: Khu vực
thương mại tự do ASEAN

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

FTA

: Free Trade Agreement, tiếng Việt: Hiệp định

thương mại tự do

GDP

: Gross Domestic Product, tiếng Việt: Tổng sản phẩm
trong nước

GRDP

: Gross Regional Domestic Product, tiếng Việt: Tổng
sản phẩm trên địa bàn

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTX

: Hợp tác xã

ICA

: International Cooperative Allien, tiếng Việt: Liên
minh hợp tác xã quốc tế

KH&CN

: Khoa học và công nghệ

KTTT


: Kinh tế tập thể

NN

: Nông nghiệp

NT

: Nông thôn

NTM

: Nông thôn mới

THT

: Tổ hợp tác

TPP

: Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement, tiếng Việt: Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương

UBMTTQVN

: Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam

UBND


: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 3.1: Số lượng cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông thôn tỉnh Quảng
Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Bảng 3.2: Số thành viên trong các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông
thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Bảng 3.3: Số lao động làm việc trong các cơ sở kinh tế tập thể ở khu
vực nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Bảng 3.4: Vốn của các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông thôn tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Bảng 3.5: Chỉ tiêu tài chính của các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực
nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Bảng 3.6: Hiệu quả kinh doanh của các hợp tác xã ở nông thôn tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015
Bảng 4.1: Hướng phát triển kinh tế tập thể ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn
2016-2020

91
94
94
95
96
107
124



DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN ÁN
Trang
Hình 3.1: Cơ cấu hợp tác xã theo ngành ở khu vực nông thôn tỉnh
Quảng Ngãi năm 2015
Hình 3.2: Quy mô tập trung vốn đầu tư trong các hình thức kinh tế tập
thể ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015
Hình 3.3: Mô hình chuỗi giá trị sản xuất lúa giống tại hợp tác xã dịch
vụ nông nghiêp, nông thôn Tịnh Trà
Hình 3.4: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của các hợp tác xã ở nông thôn
tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015

92
96
98
106


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Kinh tế tập thể (KTTT) là một hình thức tổ chức kinh tế phổ biến ở hầu
hết các nước trên thế giới từ khoảng 200 năm gần đây. Phát triển hình thức
kinh tế này đã trở thành phong trào quốc tế sâu rộng, liên kết trong Liên minh
hợp tác xã (HTX) quốc tế (ICA). Nó không chỉ có ý nghĩa quan trọng về kinh
tế mà còn có ý nghĩa to lớn về chính trị và xã hội đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia.
Ở Việt Nam, kể từ khi Bác Hồ viết thư kêu gọi điền chủ nông dân tham
gia HTX (11/4/1946) đến nay, KTTT đã có lịch sử phát triển 70 năm. Phát
triển KTTT là chủ trương lớn, nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta từ trước
tới nay. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quyết sách để

thúc đẩy phát triển KTTT. Trong công cuộc đổi mới đất nước, KTTT được
xác định là một thành phần kinh tế có vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn có đóng góp
quan trọng trong phát triển văn hoá, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “KTTT không ngừng được
củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với KTTT ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [26, tr. 73-74].
Bằng nhiều nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng và toàn dân, đến nay KTTT
đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tính đến hết tháng 6/2016, cả nước đã có
trên 20.000 HTX, 150.000 THT, gần 50 liên hiệp HTX, 1.148 quỹ tín dụng
nhân dân và 43 quỹ hỗ trợ và phát triển HTX, đã đóng vai trò không nhỏ đối
với nền kinh tế quốc dân [16]. Nhiều HTX, liên hiệp HTX mới được thành
lập, hoạt động đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực, số THT tiếp tục tăng. Nhiều
HTX được củng cố, đổi mới về tổ chức và hoạt động, trong đó xuất hiện một
số điển hình tiên tiến, hỗ trợ tốt hơn kinh tế hộ xã viên, tạo việc làm và thu


2
nhập thường xuyên cho người lao động. Liên kết giữa các HTX với nhau và
với các tổ chức kinh tế khác [35].
Tuy nhiên, KTTT ở nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo
dài, năng lực nội tại hạn chế, số HTX sản xuất kinh doanh có hiệu quả còn ít,
lợi ích đem lại cho thành viên chưa nhiều. Tốc độ tăng trưởng của KTTT chậm,
thiếu ổn định. KTTT chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sản phẩm xã hội, tỷ lệ
đóng góp vào GDP của cả nước có chiều hướng giảm dần. Sức cạnh tranh của
không ít HTX còn yếu. Nhiều cơ sở KTTT vẫn chưa sẵn sàng ứng phó trong
bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Nhiều HTX
chưa tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật, còn có những biểu hiện hình
thức, xa rời bản chất, các nguyên tắc và giá trị HTX. Thiếu sự liên kết, hợp tác

của các HTX trong sản xuất tạo chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa chủ lực quy
mô lớn. KTTT phát triển thiếu bền vững… Tình trạng này diễn ra ở khắp các
tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước. Tại tỉnh Quảng Ngãi, tính đến hết năm
2015 đã có 6.704 đơn vị KTTT, tăng 5,4 lần so với năm 2011, trong đó có 204
HTX đã đi vào hoạt động tạo ra 401 tỷ đồng doanh thu, gần 10 tỷ đồng lợi
nhuận. Nhưng sự phát triển chưa được như mong muốn, quy mô HTX còn nhỏ,
vốn góp của xã viên giảm, mức độ liên kết còn sơ khai, hiệu quả thấp, tính bền
vững trong phát triển KTTT còn phải quan tâm nhiều.
Yêu cầu đặt ra hiện nay là phải tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả
KTTT để nó làm tốt vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nói chung, xây dựng nông thôn mới (NTM) nói riêng, cần có những
nghiên cứu khoa học làm rõ cơ sở lý luận của phát triển KTTT, phân tích và
đánh giá đúng thực trạng KTTT nước ta hiện nay, đề xuất giải pháp nhằm
thúc đẩy phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Để góp phần vào giải quyết yêu
cầu trên, bằng thực tế hoạt động của bản thân trong tổ chức phát triển KTTT
trên địa bàn một tỉnh, tác giả lựa chọn đề tài: “Kinh tế tập thể trong xây
dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi” để nghiên cứu làm luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Kinh tế chính trị tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.


3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015, làm rõ những kết quả đạt được, những hạn
chế, yếu kém và nguyên nhân, để đề xuất quan điểm, phương hướng và giải
pháp thúc đẩy phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi trong
giai đoạn tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ:

- Hệ thống hóa và làm rõ điểm mới cơ sở lý luận về KTTT trong xây
dựng NTM trước yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về phát triển KTTT
trong xây dựng NTM trên thế giới và trong nước làm tài liệu để tỉnh Quảng
Ngãi có thể tham khảo.
- Phân tích và đánh giá thực trạng KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh
Quảng Ngãi từ năm 2011 đến nay, làm rõ những thành tựu, hạn chế, yếu kém
và nguyên nhân của thực trạng này.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát
triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn đến năm 2020
và tầm nhìn đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là KTTT bao gồm các THT,
HTX, liên hiệp HTX trong các ngành, lĩnh vực nông nghiệp (NN), công
nghiệp, dịch vụ và các quỹ tín dụng nhân dân với tính chất là một quan hệ
kinh tế, một hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh ở khu vực NT gắn với


4
Chương trình xây dựng NTM dưới góc độ kinh tế chính trị học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu KTTT trong xây dựng NTM bao
gồm các hình thức THT, HTX, liên hiệp HTX hoạt động trong các ngành, lĩnh
vực kinh tế ở nông thôn, chủ yếu tiếp cận về mặt quan hệ kinh tế, hình thức tổ
chức kinh tế và có quan tâm đến quan hệ cộng đồng trong KTTT.
- Về không gian: Nghiên cứu KTTT trước yêu cầu xây dựng NTM trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Phạm vi nghiên cứu kinh nghiệm được xác định ở
các tỉnh trong và ngoài nước mà tỉnh Quảng Ngãi có nhiều điểm tương đồng

mang tính thiết thực.
- Về thời gian: Việc phân tích, đánh giá thực trạng KTTT được xác
định từ sau khi Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 26­NQ/TW ngày
05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
NN, nông dân và NT, trong đó có nhiệm vụ xây dựng NTM, tức là từ năm
2011 đến nay. Các đề xuất về phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển
sẽ đặt trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tác giả luận án dựa trên cơ sở và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong chủ nghĩa Mác - Lênin để
xem xét nguồn gốc, bản chất của KTTT, vai trò và xu hướng phát triển của nó
trong xây dựng NTM trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Các nghiên cứu về đường lối, chính sách và thực tiễn phát triển KTTT
trong xây dựng NTM ở Việt Nam còn dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam và chính


5
sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là từ khi ban hành và thực thi Chương
trình xây dựng NTM.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với chuyên
ngành kinh tế chính trị như phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp lôgic kết hợp với lịch sử… Đồng thời, có sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu như điều tra xã hội học, khảo sát thực
tiễn, phương pháp thu thập xử lý thông tin trên các tài liệu tin cậy đã công bố,
phương pháp thống kê, mô hình hóa và phương pháp so sánh trong quá trình
nghiên cứu, phương pháp chuyên gia.

Ngoài ra, trong luận án, tác giả còn sử dụng có chọn lọc một số kết quả
của các công trình đã được công bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của
Luận án.
5. Những đóng góp về khoa học và giá trị của luận án
- Hệ thống hóa, bổ sung và phát triển cơ sở lý luận về KTTT trong xây
dựng NTM ở Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị.
- Chọn lọc một số bài học kinh nghiệm về phát triển KTTT trong xây
dựng NTM của một số tỉnh trong và ngoài nước để tỉnh Quảng Ngãi có thể
tham khảo.
- Làm rõ thực trạng KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2011-2015, đánh giá các kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực
trạng đó.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát
triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016- 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 11 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

1.1.1. Những nghiên cứu lý luận về kinh tế tập thể trong phát triển
nông thôn
- Cơ sở ra đời và phát triển của KTTT

Khởi xướng cho tư tưởng này là những công bố trong “Social system the Constitution, the law and the charter of a community” (1826) và “A look at
the social” (1824) của Robert Owen. Ông cho rằng, liên minh và hợp tác trong
sản xuất kinh doanh rõ ràng là tăng sức mạnh của cá nhân một nghìn lần và giải
thích tại sao các nguyên tắc hợp tác không nên cung cấp cho những người đàn
ông quyền lực và lợi thế nhiều hơn trong việc xây dựng, bảo quản, phân phối
và hưởng thụ sự giàu có? [135]. Trong “Report to the County of Lanark…”
(1820), Robert Owen chỉ ra vai trò của các HTX (ông gọi là Palanse) trong phát
triển kinh tế và để người lao động thoát khỏi sự bất công và cùng cực do sự bóc
lột của các nhà tư bản. Trong hình thức đó, các thành viên của HTX sẽ có sự
bình đẳng về quyền lợi và tài sản cũng như trao đổi hàng hóa với nhau. Mỗi
người sẽ chỉ trả tiền cho các tài sản mà họ thực tế sử dụng, mà không phải chi
một khoản nghĩa vụ tài chính nào khác [136]. Ông đã trực tiếp thành lập HTX
ở London - HTX của những người lao động trong lĩnh vực lưu thông - vào năm
1821. Đây là hình thức KTTT đầu tiên của nhân loại.
Trong giai đoạn này, ở Pháp cũng có những nghiên cứu của Saintsimon,
Fourier và các nhà nghiên cứu khác như Considerant, Godin, Buchez,
P.J.Benamin, Lamenmais, Cabert, J.Gay, T.Dezamy, Blanc… về KTTT, trong
đó các tác giả đều chứng minh rằng sự ra đời và phát triển của KTTT là cần


7
thiết để tăng sức mạnh của các thành viên khi tham gia và tạo ra cộng đồng
kinh tế phát triển xã hội.
Tác giả Brett Fairbairn trong: “History of Ecological Perspective: Gaia
theory and the problems of cooperatives in Turn-of-the-Century Germany”,
thông qua nghiên cứu lịch sử đã cho thấy những nỗ lực về kinh tế và chính trị
trong lý thuyết và các vấn đề về quá trình hình thành và phát triển các HTX
trong NT ở nước Đức trước năm 1914 dưới góc nhìn sinh thái [114].
“Theory and History of Cooperatives” trong cuốn: “Bibliography of
Cooperatives and Cooperative Development” do PhD, IIRA director and

professor Christopher D. Merrett, tổng thuật về lý thuyết và Lịch sử của HTX.
Có các chuyên đề: “Reviving the cooperative movement. World Marxist
Review” của Abalkin, Leonid (31 June1988) viết về làm sống lại phong trào
HTX, nhìn lại chủ nghĩa Mác thế giới; “History and theories of cooperatives.
In International encyclopedia of civil society” của Altman, Morris (2005) về
lịch sử và lý thuyết của HTX trong bách khoa toàn thư Quốc tế của xã hội dân
sự; “The cooperative organization: Economic, organisational and policy
issues” của Bernardi, Andrea (2007) viết về các tổ chức hợp tác xã, vấn đề
kinh tế, tổ chức và chính sách; “A study of the organizational characteristics
of successful cooperatives” của Carr, Amelia, Amanie Kariyawasam, and
Maureen Casil (2008) trình bày nghiên cứu về các đặc điểm tổ chức thành
công một HTX trong phát triển NT [122].
Dr. Hannes Gebhard trong cuốn: “Co-Operation in Finland” (1916) đã
mô tả tóm tắt và hệ thống hóa những phong trào HTX trong khu vực NT của
Phần Lan đầu thế kỷ XX và cho thấy sức lan tỏa của phong trào này đến các
quần đảo của Anh, nhất là ở Ireland, ở Italia và một số nước khác. Tác giả đã
có những khảo sát bằng con số thống kê về sự phát triển của phong trào hợp
tác hóa. Đây là nghiên cứu có thể cung cấp kinh nghiệm về phát triển KTTT
trong phát triển NT không chỉ đối với Phần Lan mà còn đối với một số nước
Châu Âu khác [120].


8
Cuốn: “A Century of the Philippine Cooperative Movement” của Jorge
V. Sibal (2000) phân tích đánh giá lịch sử một thế kỷ của phong trào hợp tác
xã trong phát triển NT ở Philippines, HTX được xác định là một trong những
trụ cột chính của phong trào xã hội dân sự để phát huy các nỗ lực phát triển
của xã hội. Sự ra đời và phát triển của các HTX là cần thiết cho sự phát triển
kinh tế, xã hội. Tác giả nghiên cứu về lịch sử của phong trào HTX ở
Philippines với 3 giai đoạn: 1895-1941, 1941 -1986 và giai đoạn 1986-2000

để chỉ ra những phát triển của hình thức kinh tế này [126].
“Chapter 2: Co-operation and co-operative movement - a theoretical
frame work” (2011) nhóm nghiên cứu tại Đại học SG (Braxin), một chương
giới thiệu khung lý thuyết về HTX và phong trào HTX, trong đó chỉ ra ý
nghĩa của phong trào, phạm vi hợp tác, mục tiêu của hợp tác, đặc điểm của
một doanh nghiệp HTX, nguyên tắc hợp tác, lợi ích của hợp tác và các phong
trào HTX ở khu vực NT trên thế giới [128].
- Vai trò của KTTT trong phát triển NT
Xuất phát từ nhận thức, HTX là một doanh nghiệp thuộc sở hữu chung
tham gia vào việc sản xuất hoặc phân phối hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ,
hoạt động của các thành viên của mình vì lợi ích chung của họ, thường được
tổ chức bởi người tiêu dùng hoặc người nông dân (Dictionary.com), nhiều
công trình nghiên cứu đã hướng vào phân tích ảnh hưởng của HTX đến phát
triển cộng đồng, đến môi trường sinh thái ở NT, quan hệ giữa HTX với toàn
cầu hóa và tự do hóa thương mại, HTX với người dân thiểu số, với phong trào
xã hội, với phát triển; việc tham gia của người nông dân vào HTX; HTX với
nghiên cứu và phát triển công nghệ, vai trò của HTX đối với sự phát triển của
phụ nữ và HTX và vấn đề dân chủ ở NT [122].
Ahmad Bello Dogarawa trong bài: “The Role of Cooperative Societies
in Economic Development” (2010) xem xét vai trò của các hiệp hội hợp tác
trong phát triển kinh tế NT. Tác giả đã điều tra khảo sát để mô tả những cách


9
thức mà các HTX có thể làm đại lý cho sự phát triển cộng đồng bền vững và
cho thấy trong hơn 160 năm qua, các HTX đã phát huy vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ tạo việc làm, thu nhập và ổn định kinh tế cho người dân,
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Trong quá trình phát triển, các HTX
phải liên tục đạt được hai mục tiêu liên quan: tăng cường khả năng phát triển
và nâng cao khả năng phục vụ các thành viên. HTX vẫn là một doanh nghiệp

hiệu quả kinh tế, sáng tạo và cạnh tranh [111].
Suren Movsisyan, trong cuốn: “The Role of Cooperatives in the
Development of Agriculture in Armenia” (2013), nghiên cứu chứng minh vai
trò tiềm năng của HTX đối với phát triển NN ở Armenia. Tuy nhiên, từ khi
chuyển đổi nền kinh tế, do sự kháng cự tâm lý của nông dân cá thể, những
người không biết gì với những lợi thế được tổ chức trong các HTX và các hạn
chế trong chính sách pháp luật về kinh tế và hỗ trợ của nhà nước, nên thực tế
hoạt động của các HTX đã không được thành công lớn. Tác giả đề xuất các
kiến nghị phát triển HTX của nước này dựa trên các nghiên cứu kinh nghiệm
phát triển HTX trong NT ở các nước châu Âu và châu Á, Liên minh quốc tế
HTX (ICA), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), ICARE, và được dựa trên các
hướng dẫn và khuyến cáo của LHQ [138].
Wayne D.Rasmussen trong cuốn: “Farmers cooperation, and USDA a
history of agricultural cooperative service” (1991) nghiên cứu về lịch sử các
HTX dịch vụ NN ở Mỹ trong 65 năm kể từ khi thông qua Luật HTX tiếp thị
năm 1926. Tác giả cho thấy hình thức HTX là một phần quan trọng trong chính
sách của quốc gia để hỗ trợ các nhà sản xuất NN đối phó với các vấn đề phải
đối mặt trên thị trường. Đây là hình thức tổ chức kinh doanh chính trong nhiều
cộng đồng NT ở nước Mỹ và là tổ chức kinh tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân NT. Từ đó đặt ra vấn đề là làm thế nào để nâng cao vai trò
ngày càng quan trọng của những nông dân độc lập khi họ phải đối mặt với một
thị trường đặc trưng bởi hội nhập quốc tế nhiều hơn? [140].


10
Bên cạnh đó còn có khá nhiều công trình đã công bố bàn về vai trò của
các HTX trong phát triển NT trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường,
tiêu biểu là cuốn: “The role of agricultural cooperatives in enhancing the
efficiency of production” của Avetisyan, T. (2012), tại Đại học NN quốc gia
Armenia nghiên cứu về vai trò của HTX NN trong nâng cao hiệu quả sản xuất ở

Armenia. Cuốn “The role of co-operatives in community economic development”
của Ryan Gibson (2005), đánh giá vai trò của HTX trong phát triển kinh tế cộng
đồng NT ở miền Bắc và Manitoba, Canada [137]; “The role of cooperatives in
achieving the sustainable development goals - the economic dimension” của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO) (2014) nghiên cứu về vai trò của HTX trong thực
hiện các mục tiêu phát triển bền vững, chiều kích kinh tế trong NT ở Nairobi,
Kenya [124]; "The Role of Cooperative Organizations in Rural Community
Development in Nigeria: Prospects and Challenges" của Muhammad Shehu
Hussain (2014)… nghiên cứu về vai trò của Tổ chức HTX trong phát triển cộng
đồng NT ở Nigeria, triển vọng và thách thức, đề xuất giải pháp để cải thiện các
hoạt động của HTX tổ chức tại Nigeria theo hướng cần phải giáo dục cho các
thành viên của tổ chức hợp tác kết quả tối ưu, cần có sự giám sát thích hợp bởi
chính phủ, tổ chức các chương trình xóa mù chữ cho các thành viên ở cơ sở
[131]; “The nature of cooperatives: Roles in economizing transaction cost is a
new dimension for understanding value of co-ops” của Ling, K. Charles (2012),
phân tích về bản chất của HTX và vai trò của nó trong tiết kiệm chi phí giao dịch
coi đây là chiều hướng mới cho sự hiểu biết giá trị của HTX v.v...
- Nguyên tắc và hình thức tổ chức của KTTT trong NT
Về nguyên tắc tổ chức của KTTT trong NT, có cuốn: “Bàn về chế độ
hợp tác” của V.I.Lênin viết vào tháng 1/1923, trong đó đánh giá quan điểm về
HTX của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng và đề xuất phương hướng tổ
chức, quản lý HTX trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga đầu
thế kỷ XX với hình thức nông trang tập thể [52].


11
Nghiên cứu của Đại học SG ở Braxin trong “Chapter 2: Co-operation
and co-operative movement - a theoretical frame work” bàn về HTX và
phong trào HTX - một khuôn khổ lý thuyết, trong đó cho thấy năm 1964 Ủy
ban Liên minh HTX quốc tế (International Cooperative Alliance - ICA) đã

đưa ra những các nguyên tắc cần được coi trọng trong phát triển các hợp tác
xã của tất cả các loại và trong mọi xã hội và hệ thống kinh tế, bao gồm: (i) Tự
nguyện và tự do thành viên; (ii) Quản lý dân chủ; (iii) Thu lãi theo trách
nhiệm hữu hạn về vốn; (iv) Phân phối thặng dư cho các thành viên theo tỷ lệ
giao dịch của họ; (v) Hợp tác giáo dục; và (vi) Hợp tác giữa các HTX. Các
nguyên tắc này đều quan trọng và phải được coi trọng như nhau [128].
Akira Kurimoto trong cuốn: “Agricultural Cooperatives in Japan: An
Institutional Approach” (2004), tiếp cận từ góc độ thể chế để giải thích sự tiến
hóa rất khác nhau giữa các HTX NN ở Nhật Bản. Quá trình phát triển HTX NN
ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX đã chịu ảnh hưởng có tính quyết định bởi sự
tương tác giữa. Đây là giai đoạn chuyển đổi từ chế độ bảo hộ sang mở cửa cạnh
tranh, đặt ra những thách thức đối với HTX. Chính sách của nhà nước có tác
động điều chỉnh hoạt động của HTX trong môi trường mới để phát huy lợi thế
của hình thức tổ chức kinh tế này [110].
Ngoài ra, còn có những nghiên cứu về nguyên tắc phát triển HTX, như
“Co-operative Identity, values & principles” của International Co-operative
Alliance (Quốc tế Hợp tác xã Alliance - 2013); “Legal Reforms Needed for
the Effective Development of Cooperatives in Armenia” của Vardanyan, N.
(2011) nghiên cứu về sự cần thiết phải cải cách pháp luật cho phát triển hiệu
quả của HTX tại Armenia; “Determinants of producers’ participation in
agricultural cooperatives: Evidence from Northern China” của Zheng, Shi,
Zhigang Wang, and Titus Awokuse (2012) về yếu tố quyết định sự tham gia
của nhà sản xuất trong các HTX NN - bằng chứng từ miền Bắc Trung Quốc,
triển vọng kinh tế ứng dụng và chính sách v.v…


12
Về hình thức tổ chức của KTTT trong NT, có các nghiên cứu về các lĩnh
vực HTX như: HTX sản xuất và kinh doanh, HTX chăm sóc và trông trẻ,
HTX giáo dục, tài chính, tín dụng, và Liên hiệp tín dụng, thực phẩm và HTX

NN, HTX quản lý rủi ro bảo hiểm, các HTX tiện ích công cộng (điện, khí đốt,
điện thoại), du lịch, nghệ thuật và HTX thủ công mỹ nghệ. Nghiên cứu các
loại hình HTX, có HTX người tiêu dùng và bán lẻ, HTX tiếp thị, HTX sản
xuất dựa trên sở hữu công cộng ở các nước xã hội chủ nghĩa, HTX sản xuất ở
các nước phát triển, HTX sản xuất ở các nước đang phát triển, HTX của
người lao động v.v… [122]. Bài “Problems and prospects of the cooperative
movement in India under the globalization regime” (2006) của Miss
Banishree Das và các cộng sự nghiên cứu về triển vọng của các HTX ở Ấn
Độ trong quá trình toàn cầu hóa; nó có khả năng và tiềm năng để trung hòa
tác dụng phụ đang nổi lên trong quá trình này [130].
Có những nghiên cứu về cơ cấu quản lý HTX, như: “The Structure of a
Cooperative Organization” (2012) của Gerald Hanks (California) quan tâm
phân tích cấu trúc của một tổ chức HTX nói chung. Khác với doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty có một cơ cấu lãnh đạo phân
cấp, HTX có một cấu trúc dân chủ nhiều hơn. Các thành viên của HTX có thể
biểu quyết về nhiệm vụ, phương pháp kinh doanh của mình và thậm chí cả
cấu trúc hình thức của nó. Có hai loại: cấu trúc HTX tập trung và cấu trúc
HTX công ty con [119]. Giới thiệu của Tạp chí Trường Luật (Ấn Độ) Digital
Repository: “Part II. Legal Aspects of Cooperative Organizational Structure,”
(Spring 1952) các khía cạnh pháp lý của cơ cấu tổ chức HTX [133]. “German
Rural Cooperatives” của PD Dr. Michael Prinz (2014) nghiên cứu về cơ cấu
tổ chức của HTX NT ở Đức. Nó không chỉ là HTX sản xuất của những người
nông dân, mà còn có những HTX tín dụng, HTX cung cấp của người tiêu
dùng, HTX tiếp thị… Những hình thức này có vai trò quan trọng trong phát
triển NT [129].


13
1.1.2. Nghiên cứu kinh nghiệm, quản trị, tổ chức, pháp lý và giải
quyết các mối quan hệ liên quan đến kinh tế tập thể trong nông thôn

- Nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển KTTT
Daman Prakash trong cuốn: “Development of Agricultural Cooperatives Relevance of Japanese Experiences to Developing Countries” (2003), giới thiệu
về kinh nghiệm phát triển HTX NN ở Nhật Bản để các nước đang phát triển
tham khảo. Trong đó, giới thiệu những sáng kiến và cải cách cơ cấu để có thể
chống lại các tác động tiêu cực của cạnh tranh toàn cầu, điều kiện cần thiết cho
sự thành công của HTX NN, rút ra nhiều bài học kinh nghiệm trong thực tiễn
tích lũy lâu dài của phong trào hợp tác hóa NN ở Nhật Bản [116].
Cuốn: “The Agricultural Cooperatives and Farming Reform in Japan”
của Yamashita, Kazuhito (2009), nghiên cứu về ảnh ảnh hưởng chính trị và
vai trò của cộng đồng NT đối với quá trình phát triển HTX NN ở Nhật Bản.
Đó là những quyết định chính phủ thiết lập giá gạo cao thông qua các hệ
thống kiểm soát thực phẩm chủ yếu. Sự nổi lên của các Hiệp hội HTX NN
của Nhật Bản (JA) dưới sự hỗ trợ của chính phủ đối với việc kiểm soát phân
phối và giá cả của các thực phẩm chủ yếu như gạo, lúa mì, lúa mạch khi bán
ra thị trường nước này [142].
Nghiên cứu của FAO (2012), “Enabling rural cooperatives and
producer organizations to thrive as sustainable business enterprises” về HTX
NT, xác định rằng đây là tổ chức sản xuất đóng vai trò rất quan trọng trong
công cuộc xóa đói giảm nghèo, trong việc thúc đẩy sự hòa hợp xã hội và trong
các thành tựu phát triển kinh tế công bằng hơn. Các nghiên cứu tập trung vào
môi trường kinh doanh, khuôn khổ pháp lý, giới thiệu về hệ thống thông tin,
chính sách, có sự tham gia tư vấn, phát triển chương trình nâng cao năng lực
và thông tin, chuẩn mực văn hóa và quy tắc tập quán. Từ đó, đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường năng lực của các HTX NT và tổ chức sản xuất, cũng như
khuyến khích các chính phủ phải thiết lập các chính sách thuận lợi, khuôn khổ


14
pháp lý và quá trình tham gia để thúc đẩy tăng trưởng và tính bền vững của
các HTX ở NT [134].

Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển HTX ở
NT, như: “Agricultural cooperatives and rural livelihoods: Evidence from
Ethiopia” của Getnet, Kindie, and Tsegaye Anullo (2012) viết về HTX NN và
đời sống NT: Bằng chứng từ Ethiopia; “Capital formation in new
cooperatives in China: Policy and practice” của Zhao, Li. (2011) về mô hình
vốn trong HTX mới ở Trung Quốc: Chính sách và thực hành; “Historical
development of agricultural cooperatives in Japan” của Yoshitada Nakaoka Giám đốc Viện phát triển HTX NN châu Á - Nhật Bản (IDACA) Tokyo
(1998), giới thiệu về lịch sử phát triển HTX NN Nhật Bản; “Global Strategy
for Development Cooperation 2013-2015” (2012) của Trung tâm Hợp tác
Thụy Điển (SCC) nghiên cứu về chiến lược toàn cầu về hợp tác phát triển cho
giai đoạn 2013-2015 từ những bài học kinh nghiệm rút ra trong phát triển
HTX ở các nước Mỹ Latinh, Đông và Nam châu Phi, và ở Châu Á; “Factors
for successful development of farmer cooperatives in Northwest China” của
Garnevska, Elena, Guozhong Liu, and Nicola Shadbolt (2011) viết về các yếu
tố để phát triển thành công của HTX nông dân ở Tây Bắc Trung Quốc, trình
bày tại các Hiệp hội thực phẩm quốc tế và quản lý kinh doanh NN, Frankfurt,
Đức; “Difficulties for the development of agricultural cooperatives in Russia:
The case for the Kurgan Region” của Golovina, Svetlana, and Jerker Nilsson
(2009) nghiên cứu về những khó khăn cho sự phát triển của HTX NN ở Nga:
Các trường hợp cho khu vực Kurgan v.v…
- Nghiên cứu về quản trị, tổ chức, pháp lý và các khía cạnh chính trị
liên quan đến kinh tế tập thể trong phát triển nông thôn
Azer Efendiev, Pavel Sorokin trong bài: "Rural Social Organization
and Farmer Cooperatives Development in Russia and other Emerging
Economies: Comparative Analysis" (2013), nghiên cứu về tổ chức xã hội NT


15
và phát triển HTX nông dân ở Nga và các nền kinh tế mới nổi khác: Phân tích
so sánh. Trong đó xác định phát triển HTX nông dân là một hướng quan trọng

của sự phát triển kinh tế NT ở các nước đang phát triển thu hút sự chú ý của
các học giả quốc tế. Nga là mối quan tâm đặc biệt trong vấn đề này bởi vì nó
chiếm phần lớn nhất đất NN trên thế giới mà chưa được đưa vào sản xuất.
Mặc dù hỗ trợ tài chính đáng kể từ chính phủ, việc phát triển HTX nông dân ở
Nga phải đối mặt với nhiều khó khăn. Để hiểu rõ hơn các quan điểm phát
triển HTX nông dân thành công ở Nga, các tác giả tiến hành phân tích thực
nghiệm và so sánh các nền kinh tế mới nổi Ấn Độ, Việt Nam, Trung Quốc và
các nền kinh tế mới nổi khác về khía cạnh ảnh hưởng của tổ chức xã hội NT
đến phát triển HTX nông dân. Từ đó nêu phát hiện: (i) Đặc điểm của tổ chức
xã hội địa phương có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của HTX nông dân; (ii)
Yếu tố truyền thống của tổ chức xã hội NT có thể ảnh hưởng đến sự phát triển
HTX nông dân cả tích cực và tiêu cực; và (iii) Trong điều kiện hiện nay của
sự phát triển tổ chức HTX nông dân có thể cần sự trợ giúp mạnh mẽ và quyết
liệt của chính phủ [112]. Việt Nam có thể tham khảo kết quả nghiên cứu này
trong giải quyết vấn đề KTTT hiện nay.
Bên cạnh đó, còn có khá nhiều công trình nghiên cứu về quản trị, tổ
chức, pháp lý và các khía cạnh chính trị liên quan đến KTTT trong phát triển
NT đã công bố trên diễn đàn quốc tế, như: “Interdependencies, measurement
problems, and efficient governance structure: Cooperatives versus publicly
listed firms” của Feng, Li, and George Hendrikse tại Viện nghiên cứu Quản lý
Erasmus (2011), về vấn đề đo lường, và cơ cấu quản trị hiệu quả: Các HTX so
với các công ty niêm yết công khai; “Enabling policy environments for cooperative development: A comparative experience” của Adeler, Monica Juarez,
Đại học Saskatchewan (2009) về một số kinh nghiệm so sánh về môi trường
chính sách thuận lợi cho phát triển HTX: “The relationship between members’
trust and participation in the governance of cooperatives: The role of


16
organizational commitment” của Barraud-Didiera và các cộng sự (2012) về
mối quan hệ giữa niềm tin của các thành viên và tham gia vào việc quản trị của

HTX, vai trò của tổ chức cam kết; “Agricultural cooperatives an imperative for
the development of social economy? Lessons from rural Albania” của Guri,
Gert (2008) viết về HTX NN là một nhu cầu cho sự phát triển của nền kinh tế
xã hội? Bài học từ NT Albania, Tài liệu trình bày tại Hội nghị nghiên cứu ICA:
"Vai trò của HTX duy trì phát triển và bồi dưỡng trách nhiệm xã hội", Riva del
Garda, Trento, Italy; “Risk management techniques for agricultural
cooperatives: An empirical evaluation” của Manfredo, Mark R., Timothy
Richards, and Scott McDermott (2003) nghiên cứu một đánh giá thực nghiệm về
kỹ thuật quản lý rủi ro cho các HTX NN; “Enhancing co-operative movement to
achieve Malaysia’s development goals” của Othman, Azmah, and Fatimah Kari
(2008) về tăng cường HTX để đạt được mục tiêu phát triển của Malaysia. Tài
liệu trình bày tại Hội nghị nghiên cứu ICA: "Vai trò của HTX duy trì phát triển
và bồi dưỡng trách nhiệm xã hội", Riva del Garda, Trento, Italy v.v…
Còn có một số nghiên cứu về giới liên quan đến KTTT ở NT, như:
“Women’s participation in agricultural cooperatives in Ethiopia” của Woldu
Assefa, Thomas, and Fanaye Tadesse (2012) về phụ nữ trong các HTX NN ở
Ethiopia; “Evaluating credit governance forms: A study of development
banks and cooperatives in meeting the credit needs of rural women” của
Prasad, Bela (1996) nhằm đánh giá các hình thức quản lý tín dụng quan hệ
giữa các ngân hàng phát triển và HTX trong việc đáp ứng nhu cầu tín dụng
của phụ nữ NT…
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1.2.1. Những nghiên cứu về lý luận liên quan đến kinh tế tập thể
Trước hết là tác phẩm “Đường kách mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1927), nêu quan niệm về HTX, lịch sử ra đời và phát triển, mục đích, loại


17

hình HTX (HTX tiền bạc, HTX mua, HTX bán, HTX sinh sản), tổ chức của
các loại HTX, đến cách thức tổ chức HTX, với ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, và
rất ngắn gọn. Tác giả đã phân biệt HTX với Hội buôn…, vai trò của HTX
trong phát triển kinh tế - xã hội, đề xuất nguyên tắc và các hình thức tổ chức
HTX ở Việt Nam trên cơ sở đúc kết từ kinh nghiệm HTX của thế giới điển
hình là Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật [78].
PGS, TS Hoàng Kim Giao trong đề tài: “Kinh tế hợp tác, một số vấn đề
lý luận và thực tiễn”, phân tích một số vấn đề lý luận về kinh tế hợp tác, các
loại hình kinh tế hợp tác, vai trò của nhà nước đối với khu vực kinh tế hợp tác
và nêu kiến nghị phát triển phong trào hợp tác hóa ở nước ta theo mô hình
HTX kiểu mới [31].
PGS, TS Nguyễn Văn Bích, trong đề tài: Đề tài nhánh KHXH 03-03,
“Lý luận, chính sách và giải pháp đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác" (2000),
dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để hệ thống hóa cơ sở lý luận về kinh
tế hợp tác và HTX, tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế hợp tác và HTX ở Việt
Nam tập trung vào giai đoạn từ khi đổi mới đến năm 1999, kiến nghị các quan
điểm, định hướng, giải pháp, chính sách và dự kiến xu thế tiếp tục đổi mới, phát
triển có hiệu quả kinh tế hợp tác và HTX ở Việt Nam trong những năm trước
mắt và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [4].
“Cơ sở khoa học và thực tiễn cho định hướng chiến lược phát triển hợp
tác xã đến năm 2020”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Vụ Hợp tác xã, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì (10/2005); Cục HTX và phát triển NN hợp tác với tổ chức
JICA của Nhật Bản (2007 - 2008), Điều tra về tình hình HTX nông nghiệp
năm 2004 và công bố “Dự án tăng cường chức năng HTX NN, phân tích hoạt
động tiêu thụ sản phẩm của HTX NN điển hình”, Hà Nội.
Cuốn: “Tư tưởng hợp tác xã: kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt
Nam” (2012), tham khảo luật HTX của một số quốc gia, nghiên cứu kinh
nghiệm hoạt động của các HTX trên thế giới để bổ sung, hoàn thiện khung



×