Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP NÂNG CAO HỨNG THÚ CHO TRẺ mẫu GIÁO 5 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG NGHE dân CA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
‫٭٭٭٭٭٭‬

NGUYỄN PHƯƠNG LINH

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HỨNG THÚ
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG NGHE DÂN CA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, năm 2016

1

1



DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
ĐBBB
GD

3

: Đồng bằng Bắc Bộ
: Giáo dục

GDMN

: Giáo dục mầm non



GVMN

: Giáo viên mầm non

GDAN

: Giáo dục âm nhạc

ĐC

: Đối chứng

TN

: Thực nghiệm

TC

: Tiêu chí

TC1

: Tiêu chí 1

TC2

: Tiêu chí 2

TC3


: Tiêu chí 3

TC4

: Tiêu chí 4

GV

: Giáo viên

MG

: Mẫu giáo

MN

: Mầm non

MGL

: Mẫu giáo lớn

TB

: Trung bình

STT

:Số thứ tự


TV

: Ti vi

SL

: Số lượng



: Tổng điểm


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý báu
của các tập thể và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sỹ Lê Thu Trang, người đã tận tâm
hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể Khoa Giáo Dục Mầm Non, Trường Đại Học Sư
Phạm Hà nội là cơ sở đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt 4 năm học tập,
nghiên cứu và hoàn thành khóa luận
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu và tập thể giáo viên trường mầm non Thị
Trấn Lâm – Nam Định đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực nghiệm đề tài.
Xin biết ơn gia đình đã luôn là điểm tựa vững chắc để tôi có được công trình này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Phương Linh


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật gắn bó mật thiết với cuộc sống con
người từ lúc lọt lòng mẹ tới lúc giã từ cõi đời. Đối với trẻ thơ, âm nhạc là
nguồn sữa nuôi dưỡng thế giới tinh thần và có vai trò quan trọng trong giáo
dục trẻ ở trường mầm non. Với trẻ thơ, thế giới xung quanh chứa đựng vô
vàn điều mới lạ, hấp dẫn. Ngay trong những sự kiện tưởng như rất bình
4


thường, ở trẻ lại phát hiện ra những điều lí thú. Cuộc sống tinh thần trong thế
giới cái đẹp khơi dậy ở trẻ nhu cầu muốn làm cho mình trở nên đẹp, nhu cầu
khám phá cái đẹp xung quanh.
Hoạt động âm nhạc là một nhu cầu của cuộc sống. Đặc biệt, đối với trẻ
mầm non, những giai điệu mượt mà hay vui tươi của âm nhạc làm cho tâm hồn
ngây thơ, trong trẻo của trẻ được đầy thêm tình yêu với thế giới xung quanh.
Qua đó, giúp trẻ phát triển toàn diện nhân cách . Để giáo dục cho trẻ có tâm hồn
dân tộc, giáo dục nghệ thuật cổ truyền trong đó có dân ca là rất quan trọng.
Những cái hay, cái đẹp, những nét đặc sắc của dân tộc phải được đến sớm với
tuổi thơ.Bằng ngôn ngữ đặc thù riêng của mình là những âm thanh biểu cảm,
dân ca không chỉ mang lại những cảm xúc, những xúc động mạnh mẽ, niềm vui
sướng trong đời sống tinh thần của trẻ mà còn giúp trẻ mở rộng thêm tầm hiểu
biết về thế giới, về con người.
Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc với nền văn hóa lâu đời, do vậy dân
ca Việt Nam bao gồm nhiều vùng miền, nhiều thể loại vô cùng phong phú: dân
ca Quan họ Bắc Ninh, hát Ví, hát Dặm (Nghệ An), hát Xoan (Phú Thọ), hát
Trống quân ở nhiều làng quê Bắc Bộ, hát Dô (Hà Tây), hò Huế, lý Huế ở
Trung Bộ, Nam Bộ có các điệu Lý, điệu Hò… dân ca của các dân tộc miền núi

phía Bắc, đồng bào Thái, H’mông, Mường, dân ca các dân tộc Tây nguyên…
đều có những nét riêng, mang bản sắc riêng. Những âm điệu tiết tấu, đặc
trưng của dân ca phần lớn bắt nguồn từ những câu ca dao khúc chiết, loại
thơ vần như lục bát hay những câu đồng dao đơn giản được bổ sung qua
nhiều giai đoạn rồi trở nên những thể loại hát dân gian khác nhau của từng
địa phương, từng vùng đất nước.
Hiện nay ở nước ta, giáo dục âm nhạc trong đó có giáo dục dân ca được
chú trọng trong các trường mầm non. Trẻ được hát một số bài dân ca phù hợp
lứa tuổi, được nghe dân ca và được vận động theo các bài được nghe được hát
tuy nhiên mức độ trẻ được nghe chưa nhiều và trẻ không được hứng thú lắm.
Bên cạnh đó, trẻ được tiếp cận nhiều xu hướng âm nhạc khác nhau như là hip
5


hop, rock… hay các bài hát tiếng anh cho trẻ hơn nên dân ca rất dễ bị mai một.
Vì vậy việc giữ gìn bản sắc dân tộc là vấn đề rất được quan tâm hiện nay.
Bản thân tôi đang sinh sống và học tập tại thủ đô Hà Nội và tôi rất
mong muốn cho trẻ tiến gần hơn tới âm nhạc dân gian nói chung và dân ca
Bắc Bộ nói riêng để giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhiều câu ca dao là những câu
nói về quan hệ giữa anh em, bạn bè; ca ngợi tình yêu lao động, trân trọng
những giá trị của sự lao động. Ví dụ khi nghe bài hát “cò lả”, trẻ có thể liên
tưởng đến những cánh đồng lúa chín trải dài bất tận, những cánh cò bay lả
rập rờn, bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng…
Chính vì vậy, xuất phát từ những lí do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài:

2.

“Một số biện pháp nâng cao hứng thú cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi


trong hoạt động nghe dân ca”
Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nâng cao hứng thú cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động nghe dân ca nhằm góp phần hình thành ở
trẻ sự yêu thích nghe nhạc nói riêng, yêu thích nghe nhạc dân ca nói chung.

3.
3.1.
3.2.

4.

Từ đó hình thành ở trẻ tình yêu văn hóa – nghệ thuât của quê hương mình.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy trẻ 5-6 tuổi nghe nhạc ở trường mầm non.
Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp nâng cao hứng thú cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong
hoạt động nghe dân ca.
Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được một số biện pháp nâng cao hứng thú cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trong hoạt động nghe dân ca thì sẽ kích thích hứng thú nghe nhạc dân
ca cho trẻ, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục âm nhạc, hình thành nhân cách
toàn diện cho trẻ mầm non, hình thành tình yêu đối với nền văn hoá truyền

5.
5.1.
5.2.

thống.

Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn dạy trẻ MG 5-6 tuổi nghe nhạc.
Thực trạng việc dạy nghe dân ca cho trẻ MG 5-6 tuổi ở trường mầm non.

6


5.3.

Xây dựng một số biện pháp kích thích sự hứng thú cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi

5.4.

nghe dân ca Bắc Bộ.
Tiến hành các thực nghiệm nhằm kiểm chứng hiệu quả, tính khả thi của các
6.

6.1.

biện pháp đã đề ra.
Các phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc sách, báo, tài liệu có liên quan đến đề tài, từ đó nghiên cứu, phân

-

tích, tông hợp, hệ thống hóa để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Dự giờ một số hoạt động âm nhạc của trẻ MG 5-6 tuổi


-

ở trường mầm non.
Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu điều tra giáo viên nhằm tìm hiểu cách

6.2.

tổ chức và mức độ nhận thức của giáo viên trong việc cho trẻ mẫu giáo 5-6
-

tuổi nghe dân ca miền Bắc và các phương pháp họ sử dụng.
Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với giáo viên để thấy được các biện pháp
mà giáo viên thường sử dụng và tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng của giáo viên
và trẻ để tìm ra các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động nghe nhạc

-

cách phù hợp.
Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng

7.

tính khả thi, tính hiệu quả của các biện pháp.
Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Về thể loại nhạc dân ca sẽ được lựa chọn và sử dụng: Dân ca Bắc Bộ.
- Địa điểm nghiên cứu:
+Trường mầm non xã Yên Ninh
+Trường mầm non Thị Trấn Lâm
+ Trường mầm non Vinschool Nguyễn Chí Thanh

8. Cấu trúc khóa luận
Phần 1: Phần mở đầu
Phần 2: Phần nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
7


Chương 2: Thực trạng về mức độ hứng thú của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động
nghe dân ca
Chương 3: Đề xuất một số biện phấp nâng cao hứng thú cho trẻ 5-6 tuổi trong
hoạt động nghe dân ca
Phần 3: Kết luận và kiến nghị sư phạm
Phụ lục
Tài liệu tham khảo

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Sơ lược vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghe nhạc là một bộ phận quan trọng xuyên xuốt quá trình giáo dục âm

1.1.

nhạc cho mọi lứa tuổi đặc biệt là trẻ mầm non. Chính vì thế vấn đề dạy trẻ nghe
nhạc luôn được các nhà giáo dục, các nhà khoa học nghiên cứu và quan tâm.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước đề cập đến vai trò của việc
cho trẻ nghe nhạc và đã đi sau vào nghiên cứu dạy trẻ nghe nhạc như thế nào thì


mới mang lại hiệu quả cao:
“ Nghệ thuật âm nhạc với trẻ mầm non” của tác giả Hoàng Văn Yến.


8




“ Âm nhạc và phương pháp giáo dục âm nhạc cho lứa tuổi mẫu giáo” của trung
tâm nghiên cứu đào tạo bồi dưỡng giáo viên mầm non ( hệ trung học) – tác giả




Hoàng Thông.
“ Nghiên cứu âm nhạc dành cho tuổi mẫu giáo” của tác giả Phạm Thị Hòa.
Trong giáo trình “ Giáo dục âm nhạc - Tập 2 ” của tác giả Phạm Thị Hòa đã
giới thiệu và hướng dẫn cho giáo viên các phương pháp để giáo dục âm nhạc
ch trẻ ở trường Mầm non
Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp cũng
nghiên cứu về vấn đề nghe nhạc như:



Luận văn tốt nghiệp đại học “Một số biện pháp nâng cao tính tích cực của trẻ
5-6 tuổi trong hoạt động múa thông qua âm nhạc dân gian ” của tác giả
Nguyễn Thị Vân đã xây dựng một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo lớn tích cực



thực hiện một số động tác múa với âm nhạc dân gian.
“Nâng cao một số biện pháp dạy hát cho trẻ mẫu giáo lớn” của tác giả Thái Thị




Hằng.
“Một số biện pháp hướng dẫn trẻ mẫu giáo lớn thể hiện tác phẩm âm nhạc mang
tính chất hành khúc” của tác giả Lê Tuấn Đức.
Các đề tài trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của hoạt động
nghe nhạc, thể hiện tác phẩm ở một số thể loại nhạc như hành khúc, nhạc cổ
điển…, hay đề tài của tác giả Nguyễn Thị Vân cũng đã đi vào khai thác âm
nhạc dân gian tuy nhiên chưa đi sâu về vấn đề cho trẻ nghe nhạc.
Tôi nhận thấy âm nhạc dân gian hay là các bài hát dân ca có giá trị tư
tưởng, nhân văn rất lớn nhưng trẻ lại không được tiếp xúc nhiều. Chính vì thế
tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và đề xuất “Một sô biện pháp nâng cao hứng thú
cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động nghe dân ca”

1.2.
1.2.1.

Một số vấn đề lí luận về dân ca Việt Nam
Dân ca
Để có một khái niệm chuẩn về dân ca thật không đơn giản. Người Đức
gọi dân ca là volkslied (tạm dịch là: bài ca của nhân dân), người Pháp gọi là
chanson populaire (tạm dịch là: bài ca phổ cập trong quần chúng), người Anh
gọi dân ca là folk song (tạm dịch là bài ca mang tính dân tộc). Ngay cả trong các
9


tài liệu Việt Nam về dân ca hay công trình Nghiên cứu của Gs. TS Vũ Ngọc
Khánh “Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam” cũng không có khái niệm cụ thể
hay một định nghĩa công thức về dân ca như các định nghĩa về những phạm trù

khác.
Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền, qua việc truyền khẩu,
truyền ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp
phần sáng tạo của mình vào tác phẩm trong quá trình biểu diễn. Do vậy họ gần
như là “đồng tác giả” với những người sáng tác mà người sáng tác ban đầu
không rõ là ai. Một bài dân ca thường tồn tại với một bản coi như bản gốc, gọi là
lòng bản và nhiều bản được ứng tấu thêm hay sửa đổi gọi là dị bản. Những bài
dân ca được nhiều người yêu thích sẽ được truyền bá đi khắp nơi. Hiện nay các
nhạc sĩ đã sáng tác thêm những lời ca mới dựa trên các làn điệu đã có tạo nên sự
đa dạng và phong phú cho dân ca . Các dịp biểu diễn thường là lễ hội, hát làng
nghề ngoài ra thường ngày cũng được hát lên trong lao động để động viên nhau,
hay trong tình yêu đôi lứa, trong tình cảm giữa người và người. Tuy nhiên mỗi
tỉnh thành, dân ca Việt Nam lại có phát âm, giọng nói và các từ khác nhau nên
cũng có thể phân theo tỉnh cho dễ gọi vì nó cũng có tính chung của miền Bắc,
miền Trung và miền Nam ( Trích Wikipedia).
Theo GS.TS Trần Quang Hải làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên
cứu khoa học về Sơ lược về dân ca Việt Nam: “Dân ca là những bài hát, khúc
ca được sáng tác và lưu truyền trong dân gian mà không thuộc về riêng một
tác giả nào. Đầu tiên bài hát có thể do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua
nhiều người từ đời này qua đời khác và được phổ biến ở từng vùng, từng dân
tộc… Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng bền vững
với thời gian”.
Để tiện cho việc nghiên cứu, ta có thể hiểu khái niệm về dân ca tạm thời
như sau: Dân ca là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác được lưu
1.2.2.

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Dân ca Bắc Bộ
10



Dân ca Bắc Bộ là những bài hát cổ truyền do nhân dân miền Bắc sáng tác, được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ngày nay, khi khảo sát một bài dân ca được phổ biến ở một vùng nào đó, muốn
biết được xuất xứ của chúng, người ta thường dựa vào một vài đặc điểm có
trong đó ví dụ như tiếng địa phương, những địa danh. Đây là cách dễ nhận biết
nhất để nhận ra xuất xứ của một bài dân ca.
Nói chung trong các bài dân ca miền Bắc thường có những từ đệm như: “rằng,
thì, chứ...” và các dấu giọng như: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng được dệt bới những
nốt nhạc sao cho việc phát âm được rõ nét. Một số phụ âm được phát âm một
cách đặc thù như: “r, d, gi” hay “s và x” phát âm giống nhau, không phân biệt
nặng nhẹ.
1.2.3 Những đặc điểm của dân ca


Dân ca những bài ca, bài hát của dân chúng

Dân chúng ở đây đa số nhân dân lao động, những người có cuộc đời lam lũ, vất
vả với những công việc chân tay, những công việc ngoài đồng áng… Họ là
những người nông dân hay công nhân, họ là những người ít học hay mù chữ. Họ
là những con người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã
hội. Tuy nhiên họ là những con người có tâm hồn thật sự thoải mái, tâm hồn gần
gũi với thiên nhiên với nề nếp thôn làng. Do đó, ở mọi nơi mọi chỗ, khi làm việc
cũng như khi nghỉ ngơi, lúc chung vui cũng như lúc thanh vắng cô đơn, họ đều
ca hát. Hát ca là một nhu cầu cần thiết trong cuộc sống của họ. Họ mượn lời ca
tiếng hát để nói lên niềm vui, nỗi buồn của mình. Do đó, mỗi nơi đều có những
bài hát khác nhau, tùy theo hoàn cảnh sống, tùy theo phong tục tập quán của
từng vùng miền. Có những bài hát đơn sơ, dễ hát, dễ nhớ nên nhiều người thuộc.
Có những bài hát lại có những cung điệu cung khó hơn, hoặc không thích hợp
với khả năng, trình độ của đa số quần chúng thì chỉ có nghệ nhận mới hát được.

Vì thế đã nảy sinh ra biết bao nhiêu bài dân ca với đầy đủ mầu sắc. Và chính đó

11


là kho tằng quý giá của dân tộc mà ta gọi là “dân ca”. Dân ca là lời ca tiếng hát ở
đầu môi chót lưỡi của người dân với nếp sống bình dị, hiền hòa, đơn sơ.


Dân ca là những bài ca giản dị

Đa số những bài dân ca là những bài ca giản dị, hát mà không cần đến nhạc
khi phụ họa hay giữ nhịp một cách khắt khe, đôi khi cón được một nhạc khí đơn
sơ cho có màu mè, chứ không cần đến một dàn nhạc năm bảy thứ nhạc khí hòa
đệm như những loại nhạc chuyên nghiệp nhạc lễ, nhạc sân khấu…. Đây là
những bài ca không chuyên, tùy khả năng của người hát, lại có khi tùy hứng
khởi, không cần đến cao độ chính xác.


Dân ca là những bài ca truyền khẩu

Dân ca xuất hiện từ rất sớm, dù không được ghi lại bằng giấy trắng mực đen
nhưng dân ca có thể tự tồn tại vì được khắc ghi vào long người dân, và truyền lại
cho đời sau nhờ “ truyền miệng” rất độc đóa và hữu hiệu.
Những câu hát hay thường được người nghe cố gắng học thuộc long, cố nhớ
để có dịp hát lên cho mọi người nghe hay thưởng thức, tỉ tê một mình theo điệu
hát. Và cứ thế, dân ca đã trải qua biết bao thời, biết bao thế hệ. Đây là con
đường sinh tồn duy nhất của dân ca.
Ngày nay, chúng ta có được những bảo vật quý giá “ bài dân ca được kí âm” là
nhờ những sáng kiến ghi chép những bài hát trong dân chúng của khoa văn minh

học, nhân chủng học và âm nhạc học gợi ra.


Dân ca là những bài hát không rõ tác giả

Những bài hát dân ca hiện có chúng ta khó có thể biết ai là tác giả. Nếu có
cũng chỉ biết được tên người sưu tầm haowcj tên người hát, người ký âm lại mà
thôi. Đối với những bài hát dân ca cải biên thì có tên tác giả của nó. Những bài
hát dân ca này cũng được gọt giũa và ký âm theo cốt cách của những bài dân ca
truyền khẩu từ xa xưa của dân tộc. Điều này cũng không làm cho chúng ta phải
ngạc nhiên vì dân ca vốn có từ rất lâu đời, lại không được ghi chép bằng văn bản

12


để lưu lại hậu thế, thì dù có tên tác giả, cũng đương nhiên có thể bị thất lạc và
quên lãng.


Dân ca là những bài ca không biết thời gian ra đời

Dân ca là tác phẩm mà người ta không thể phẩm định “tuổi tác” của nó được.
Vì trước hết, người ta không biết ai là người sáng tác nó, sáng tác vào thời nào?
Kế đó, dân ca chỉ là những âm thanh được truyền lại và sự hiện diện của nó rất
vô hình khi ẩn hiện qua bia miệng mà thôi. Dân ca là những đứa con sinh ra
trong “ mai danh ẩn tích” mà cho dù các tài liệu lịch sử có trong lời ca cũng khó
có thể chứng minh được tuổi thọ của nó. Vì đôi khi nhạc và lời ca được sáng tác
riêng biệt và không cùng một lúc. Tuy nhiên, đối với một số bài ca, người ta
cũng có thể ước định một cách mơ hồ, thời gian xuất hiện của nó mà khó có thể
định một cách chính xác được.

1.2.4. Chức năng của dân ca trong tác phẩm âm nhạc dành cho trẻ mầm non


Chức năng giáo dục
Dân ca giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trân trọng giá trị nghệ thuật

của con người ở mỗi vùng quê. Dân ca giáo dục tình cảm và thẩm mĩ cho trẻ. Đó
là những điều hay lẽ phải, cách ứng xử giao tiếp với ông bà, cha mẹ, thầy cô
giáo, bạn bè và những người xung quanh. Ngoài ra còn là nền tảng phát triển
đạo đức, những bài hát có ca từ dễ thuộc, giai điệu mềm mại, trữ tình có
ảnh hưởng nhất định tới trẻ tạo những cảm xúc tương ứng. Những bài dân ca có
giai điệu nhẹ nhàng bay bổng cũng tạo cho trẻ biết cách diễn đạt ngôn ngữ hơn còn
những bài có tiết tấu sinh động, rộn ràng, lời ca rắn rỏi, mạnh mẽ sẽ tạo cho trẻ phát
huy những tình cảm thẩm mĩ và lành mạnh.
Âm nhạc nói chung và dân ca nói riêng tác động tới con người từ khi mới
sinh ra với tiếng ru của mẹ cho đến khi từ giã cõi đời. Tuy không trực tiếp nuôi
dưỡng con người như cơm ăn nước uống hàng ngày nhưng âm nhạc lại làm cho
con người ta thêm yêu cuộc sống và nhận thức được cuộc sống. Nhờ ngôn ngữ
biểu cảm đặc biệt của âm thanh mà con người từ khắp mọi phương trời không
cùng ngôn ngữ, không chung phong tục tập quán nhưng lại có thể hiểu thêm
13


được văn hóa của nhau. Sự gắn kết bằng cảm xúc đã trở thành phương tiện giao
tiếp hết sức nhạy cảm mà không cần dùng đến ngôn ngữ.


Chức năng lao động
Dân ca là một thể loại ca hát dân gian, chủ yếu bắt nguồn từ môi trường


nông ngư nghiệp ở các vùng nông thôn. Cũng có thể bắt nguồn từ một cá nhân
có năng khiếu dệt nhạc vào một bài ca dao (thơ dân gian). Từ môi trường nông
ngư nghiệp đó, dân ca có nhiều chức năng trong các hoạt động của cuộc sống.
Chức năng hỗ trợ các thao tác lao động trên cạn như: ru em, xay lúa, giã gạo, tát
nước, kéo gỗ…, trên sông nước thì có hò chèo thuyền, kéo lưới… làm bớt đi sự
căng thẳng mệt mỏi trong quá trình lao động, đồng thời khiến cho tinh thần của
người lao động hưng phấn hơn, giúp cho quá trình lao động được năng xuất hơn,
đạt kết quả cao hơn.


Chức năng sinh hoạt
Được sản sinh trong môi trường diễn xướng, qua những buổi lao động

sinh hoạt cộng đồng trên đồng ruộng, bãi lúa, ven sông, những buổi hội làng,
tính ngẫu hứng đầy thẩm mỹ của dân ca thực sự chỉ được thể hiện trọn vẹn khi
đưa vào môi trường diễn xướng dân ca. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày,
ngoài lao động người dân còn tổ chức hội hè đình đám trong, những lúc nông
nhàn. Có thể thấy rõ chức năng sinh hoạt trong các thể loại hát Ví, hát Quan họ,
Trống quân, Giặm, hát Lý, hát Đúm…
Ví dụ: hát Trống quân phổ biến ở Bắc bộ thường được tổ chức vào những
tuần tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức hát thi vào những
ngày hội. Trong những ngày mùa, người thợ gặt ở nơi khác đến thường tổ chức
hát với trai hoặc với gái trong làng hay giữa họ với nhau vào buổi tối lúc nghỉ
việc.
Còn những điệu Ví, Giặm chủ yếu là các cuộc hát đối đáp trong các sự
kiện sinh hoạt cộng đồng với quy mô và không gian đa dạng. Hát Giặm có thể
kể đầu đuôi một câu chuyện na ná như vè nhưng chủ yếu là sinh hoạt văn hóa
cộng đồng.
14





Chức năng nghi lễ
Dân ca nghi lễ thường gắn liền với lễ hội. Để phục vụ cho nghi thức lễ

hội, nhiều địa phương đã sáng tạo nên những điệu hát múa cho phù hợp như hát
Chầu văn, hát Cửa đình (cửa đền) đây là hình thức hát ca trù phục vụ cho nghi lễ
thờ phụng thánh thần ở các đình hay đền làng sở tại. Có thể nói hát cửa đình là
hình thái được ưa chuộng nhất trong xã hội thời phong kiến do các tập tục tế lễ
thánh thần là một nhu cầu quan trọng không thể thiếu trong đời sống của các
cộng đồng cư dân nông nghiệp. Trải qua thời gian thứ âm nhạc trong nghi thức,
nghi lễ đó đã dần nâng tầm nghệ thuật. Nhà Nghiên cứu âm nhạc dân tộc Bùi
Trọng Hiền ở bài Không gian Văn hóa - Các chức năng văn hóa xã hội và
những hình thức biểu hiện của nghệ thuật ca trù - Phần III có viết “Đứng về mặt
chức năng xã hội, các hình thức nghi lễ này mang tính thực hành xã hội chứ
không phục vụ nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật đơn thuần”.


Chức năng nghệ thuật
Trên thực tế các chức năng đều chứa đựng yếu tố nghệ thuật. Tuy nhiên,

trải qua thời gian với sự sàng lọc tinh hoa của dân tộc, một số thể loại dân ca đã
phát triển vượt ra khỏi khuôn khổ đất nước Việt Nam ta như Hò Huế, Ca trù,
Quan họ Bắc Ninh, thể loại sân khấu Tuồng, Chèo, cải lương để đến với thế giới
và được bạn bè quốc tế yêu thích. Ngoài ra cũng đã có những điệu dân ca đã
được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại như: dân
ca Ví giặm của tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Dân ca Quan họ của Bắc Ninh…
Có thể nói, âm nhạc nói chung và dân ca nói riêng tác động tới con người
từ khi mới sinh ra với tiếng ru của mẹ cho đến khi từ giã cõi đời. Tuy không trực

tiếp nuôi dưỡng con người như cơm ăn nước uống hàng ngày nhưng âm nhạc lại
làm cho con người ta thêm yêu cuộc sống và nhận thức được cuộc sống. Nhờ
ngôn ngữ biểu cảm đặc biệt của âm thanh mà con người từ khắp mọi phương
trời không cùng ngôn ngữ, không chung phong tục tập quán nhưng lại có thể
hiểu thêm được văn hóa của nhau. Sự gắn kết bằng cảm xúc đã trở thành
phương tiện giao tiếp hết sức nhạy cảm mà không cần dùng đến ngôn ngữ.\
15


Một số khái niệm cơ bản
1.3.1 Biện pháp
1.3

Theo từ điển Tiếng Việt, 1977, Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội: “Biện pháp là cách hành động lựa chọn sao cho phù hợp với
mục đích. ”
Theo từ điển Giáo dục học, Nhà xuất bản Từ điền bách khoa, trang 26:
“Biện pháp là cách tác động có định hướng, có chủ đích phù hợp với đối tượng
giáo dục”.
Biện pháp là một trong những thành tố của quá trình giáo dục, có quan hệ
mật thiết và có tính biện chứng với các thành tố khác, đặc biệt là với phương
pháp học. Theo từ điển Tiếng Việt – Việt ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên
(2004) : “ Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Theo từ điển Tâm lí học: “Biện pháp là cách thức tiến hành, giải quyết
một vấn đề cụ thể”.
Các nhà giáo dục học khẳng định: Biện pháp giáo dục là các tác động
riêng biệt của GV trong mỗi phương pháp giáo dục cụ thể.
Biện pháp nâng cao hứng thú cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động
nghe dân ca là cách làm, cách giải quyết vấn đề về cho trẻ nghe dân ca. Từ đó
đưa ra một số biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hứng thú trong hoạt động nghe

dân ca cho trẻ MG 5-6 tuổi.
1.3.2 Nghe nhạc
Khái niệm nghe nhạc (nghe âm nhạc) ở nước ta được đề cập tới trong một
số công trình, tác phẩm.
Nghe các bài hát, bản nhạc (gọi là nghe nhạc) vốn dĩ từ trước đến nay đã
được coi là một hoạt động đọc lấp, là một phần không thể thiếu của một tiết hoạt
động giáo dục âm nhạc Mầm non. Tuy nhiên, để tổ chức một tiết dạy trẻ nghe
nhạc là hoạt động chủ đạo thì lại là khá mới mẻ và khiến không ít giáo viên còn
lúng túng khi triển khai nội dung này
Tiến sĩ Ngô Thị Nam có nhận định: “Nghe nhạc là mức độ phát triển cao
của tai nghe con người. Tai nghe âm nhạc có sự phân biệt rất rõ rệt với tai nghe
16


bình thường. Người ta có thể nghe rất thính: nghe thấy mọi tiếng động, tiếng nói
nhưng chưa chắc đã nghe được và phân biệt được âm thanh âm nhạc với cùng
mức độ. Người có tai nghe âm nhạc là người có khả năng phân biệt được phẩm
chất âm thanh có tính nhạc như: cao độ, trường đọ, cường độ, âm sắc, các mối
quan hệ của các phương tiện diễn tả ngôn ngữ âm nhạc.” {25, tr.110}
Thông qua trích dẫn trên, chúng tôi xin được đưa ra khái niệm về nghe âm
nhạc như sau:
Nghe âm nhạc (nghe nhạc, nghe hát) là khả năng phân biệt được cao độ,
trường độ, âm sắc, các mối quan hệ của những phương tiện diễn tả âm nhạc.
Qua đó, giúp trẻ làm quen với tác phẩm âm nhạc, có cảm nhận ban đầu về âm
thanh, giai điệu, sắc thái tình cảm, nội dung, tính chất của tác phẩm âm nhạc,
nhằm góp phần hình thành thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc.
Hoạt động nghe nhạc của trẻ 5-6 tuổi ở trường Mầm non
1.4.1 Các phương pháp dạy trẻ nghe nhạc
1.4


Phương pháp dạy trẻ nghe nhạc nằm trong hệ thống giáo dục âm nhạc cho
nên cũng bao gồm: mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và sự
chỉ đạo quá trình giáo dục dạy học. Do vậy, kết quả của việc thực hiện nhiệm vụ
giáo dục âm nhạc, cụ thể là dạy trẻ nghe nhạc phụ thuộc trực tiếp vào trình độ sử
dụng phương pháp với ý nghĩa toàn bộ chuyển đổi nội dung tới đối tượng nhằm
đạt được mục đích, yêu cầu đã xác định gồm các biện pháp, thủ thuật dạy theo
một chương trình thích hợp.
Dạy trẻ nghe nhạc gồm ba phương pháp chính:
- Phương pháp nghe trực tiếp
Trẻ được nghe cô đàn hát trực tiếp sẽ gây ấn tượng mạnh mẽ nhất, lôi cuốn nhất.
khi nghe trực tiếp, trẻ được quan sát cách thể hiện sinh động của cô, trẻ rất thích
được “ xem” cô hát. Vì vậy, khi hát cho tất cả các chấu nghe, cô giáo sẽ chú ý
sắp xếp để cho tất cả các cháu được trông rõ cô, “xem cô hát” với các phương
tiện trực quan. Nghe trực tiếp là phương pháp trực quan truyền cảm đòi hỏi giáo
17


viên cần phải hát thật chính xác, tự nhiên, diễn cảm, thể hiện đúng phong cách
tác phẩm.
- Phương pháp nghe qua phương tiện
Là giáo viên đàn giai điệu bài hát, nghe đài, băng đĩa, video… Nghe qua phương
tiện sẽ mở rộng phạm vi trực quan cho trẻ: trẻ làm quen với lối trình diễn dàn
dựng công phu, hài hòa giữa hát và nhạc, âm sắc các nhạc cụ và cách hòa tấu.
khi nghe qua phương tiện, giáo viên nên kết hợp cho trẻ xem tranh, các con rối,
động tác múa minh họa nội dung âm nhạc. Biện pháp này giúp trẻ tích lũy các
ấn tượng âm nhạc, dễ dàng ghi nhớ tác phẩm.
Việc lựa chọn và sử dụng phương pháp gồm hai giai đoạn, đó là nắm chắc
nội dung dạy, xác định yêu cầu cụ thể cần đạt và lựa chọn trình tự cũng như biện
pháp, thủ thuật dạy cụ thể.
1.4.2 Các hình thức dạy trẻ 5-6 tuổi nghe nhạc

Để việc cho trẻ nghe đạt hiệu quả cao cần giáo dục cho trẻ nghe có hệ
thống, liên tục, có mục đích.
Các hình thức dạy trẻ 5-6 tuổi nghe nhạc bao gồm:
- Nghe kết hợp được hiểu là loại tiêt học âm nhạc có hát hoặc vận động là trọng
tâm. Nghe ở đây mang tính chất củng cố bài đã được nghe, hoặc giới thiệu bài
hát sắp nghe. Với bài đã nghe, tập cho trẻ nhận biết qua sự diễn tấu của nhạc cụ,
trao đổi kĩ hơn nội dung âm nhạc. Cũng có thể cho trẻ nghe tiết tấu để đoán nhận
bài hát đã nghe.
- Nghe là tiết trọng tâm: nghe tác phẩm âm nhạc đòi hỏi sự tích cực của trẻ về sự
chú ý thính giác và tri giác, suy nghĩ và tưởng tượng, gợi lên ở trẻ sự đồng cảm
với hình tượng nghệ thuật, sự phản ánh các ấn tượng thu được vào trong lời nói
1.4.3 Các bước tiến hành dạy trẻ nghe nhạc
Dạy trẻ nghe nhạc gồm ba bước:
Bước 1: Giới thiệu tác phẩm

18


Tùy vào nội dung, hình thức âm nhạc sẽ cho trẻ nghe có thể lựa chọn các
phương pháp, biện pháp sau:
- Giáo viên dùng lời giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm, tác giả, trích đoạn
tác phẩm.
- Giáo viên dùng lời hấp dẫn, sinh động để giới thiệu qua về hình tượng
âm nhạc, tính chất hoặc sắc thái tình cảm trong tác phẩm.
- Có thể trò chuyện với trẻ về nội dung tác phẩm dựa trên sự thống nhất
giữa âm nhạc và lời ca trong bài hát trẻ sắp nghe.
- Có thể dùng thơ, dùng tranh, dùng đồ chơi minh họa để dẫn dắt trẻ tới
tác phầm.
Bước 2: Cho trẻ nghe nhạc
- Giáo viên cần hát thật diễn cảm. Có thể diễn tả tình cảm kết hợp cử chỉ,

điệu bộ, nét mặt phù hợp.
- Giáo viên có thể vừa đàn, vừa hát cho trẻ nghe.
- Có thể mời người khác hát cho trẻ nghe ví dụ một cô giáo khác trong
trường hay phụ huynh, người thân của trẻ.
- Có thể cho trẻ nghe tác phẩm qua băng nhạc, xem các video, clip ca sĩ
hát
- Có thể cô hát và gõ dụng cụ âm nhạc theo nhịp bài hát và trẻ múa phụ
họa.
Bước 3: Củng cố ấn tượng và ghi nhớ tác phẩm.
Để đẩy mạnh khả năng cảm thụ âm nhạc và phát triển tai nghe, trí nhớ âm
nhạc của trẻ, các ấn tượng về âm nhạc mà trẻ nhận ra được trong lúc nghe nhạc
cần được củng cố trong các tiết nghe nhạc tiếp theo cũng như ở mọi thời điểm
thích hợp trong đời sống trẻ.
Để khơi sâu cảm xúc của trẻ với tác phẩm âm nhạc và hiểu rõ hơn những
đặc điểm của tác phẩm đã được nghe cô có thể:
- Tiếp tục cho trẻ nghe lại tác phẩm bằng những hình thức biểu diễn khác
nhau: biểu diễn trên đàn, hát bằng một âm “ la”…
19


- Trò chuyện với trẻ để cùng ôn lại tên tác giả, tác phẩm, về hình tượng
âm nhạc, tính chất, giai điệu, tiết tấu âm nhạc… của tác gải đã được nghe.
- Dùng biện pháp so sánh, câu hỏi giúp trẻ nhớ lại nội dung âm nhạc, khái
niệm về các phương pháp diễn tả âm nhạc.
- Kiểm tra trí nhớ âm nhạc của trẻ bằng biện pháp sinh động: đố trẻ nhận
ra tác phẩm đã biết chỉ qua phần tiết tấu hoặc riêng phần giai điệu. Cho trẻ nhắc
lại một nét giai điệu hoặc tiết tấu nào đó trong tác phẩm đã được nghe.
Như vậy, với từng tác phẩm khác nhau, nội dung, hình thức nghe nhạc
trong từng tiết học khác nhau cho phù hợp với nhóm trẻ và đạt yêu cầu đề ra.
Tuy nhiên, hiệu quả của tiết dạy nghe nhạc phụ thuộc không ít vào sự chuẩn bị

chu đáo của giáo viên.
1.5

Vai trò của nghe nhạc đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ

5-6 tuổi
1.5.1 Nghe nhạc là phương tiện giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ là giáo dục cho trẻ nhận biết cái đẹp, hiểu được
cái đẹp, cảm thụ được cái đẹp và biết tạo ra cái đẹp. Các bộ môn nghệ thuật
trong đó có âm nhạc được coi là một trong những phương tiện hiệu quả nhất để
giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Được nghe nhạc là một nhu cầu không thể thiếu đối với trẻ mẫu giáo. Bản
thân âm nhạc có sức truyền cảm rất mạnh mẽ, nó có khả năng tác động đến ọi
đối tượng con người, Với trẻ thơ, âm nhạc là thế giới kỳ điệu đầy màu sắc, thông
qua đường nét giai điệu, tiết tấu, âm sắc, nhịp độ… đã tác động đến tâm hồn
ngây thơ trong sáng của trẻ, mở rộng tầm hiểu biết, làm phong phú kinh nghiệm
sống cho trẻ, mang lại cho trẻ những cảm xúc và sự xúc động do các hiện tượng,
sự vật của cuộc sống thực mang lại.
Quan hệ thẩm mỹ với âm nhạc là sự phản ánh âm nhạc trong ý thức của
trẻ, sự hình thành những quan hệ giữa trẻ với âm nhạc. Đó là một tập hợp những
mối liên hệ có lựa chon của riêng trẻ với các tác phẩm âm nhạc và các dạng hoạt
động âm nhạc như hát, nghe, vận động theo nhạc, trò chơi âm nhạc. Thường
20


xuyên được tiếp xúc với âm nhạc trẻ sẽ phát triển được khả năng cảm thụ cái
hay, cái đẹp, hoạt động độc lập và sáng tạo trong khi tiếp xúc với các dạng hoạt
động âm nhạc khác nhau.
Để thực hiện được chức năng giáo dục thẩm mỹ trong hoạt động nghe
nhạc trước hết cần phát triển ở trẻ những khả năng về âm nhạc. Đó là khả năng

trải nghiệm những xúc động trong quá trình cảm thụ và thể hiện âm nhạc, trên
cơ sở đó trẻ sẽ dần nảy sinh tình yêu với âm nhạc, hứng thú và nhu cầu hoạt
động âm nhạc. Từ sự chăm chú lắng nghe, trẻ biết so sánh và nhận xét một cách
đơn giản các phương tiện diễn tả cơ bản của âm nhạc. Phương tiện diễn tả cơ
bản ở đây là: âm thanh cao thấp, to nhỏ, âm sắc giọng hát, nhạc cụ, tốc độ nhanh
chậm của tiết tấu, nhịp điệu, sự dàn trải ngân nga, êm dịu hay gấp khúc quãng
nhảy của đường nét, giai điệu. Đó chính là cơ sở để hình thành thị hiếu âm nhạc.
1.5.2 Nghe nhạc là phương tiện hình thành phẩm chất đạo đức cho trẻ
Không chỉ là phương tiện giáo dục thẩm mỹ, âm nhạc còn là phương tiện
giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ. Đôi khi tác động của các bài hát còn mạnh
hơn cả những lời khuyên hay sự ra lệnh nghiêm khắc.
Các tác phẩm âm nhạc ca ngợi thiên nhiên, đất nước, con ngừoi… gợi lên
ở trẻ tình yêu Thủ đô, yêu quê hương, yêu Tổ quốc, biết ơn các anh hùng dân
tộc, kính trọng lãnh tụ, yêu thương cha mẹ,cô giáo, bạn bè…
Những lời ca truyền thống sẽ mang lại cho trẻ cảm xúc mạnh mẽ về khí
thế hào hùng của dân tộc, giáo dục lòng biết ơn những người đã hiến dâng cả
tuổi thanh xuân của mình vì độc lập, tự do cho tổ quốc. Trẻ có thể thấy được
hình ảnh của chú bộ đội hiện lên thật giản dị mà cũng thật đẹp qua bài “ Mùa áo
chú bộ đội” của nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý, trẻ như cảm nhận được vẻ đẹp thân
thương mà rất đỗi gần gũi của các anh bộ đội cụ Hồ.
Ngoài ra khi cho trẻ làm quen với một số bài hát ru, bài hát dân ca của các
dân tộc không những giúp trẻ mở mang hiểu biết về các dân tộc mà con giáo dục
trẻ thái độ, tình cảm yêu mến, đoàn kết các dân tộc, thái độ sống khiêm tốn, hòa
nhập trong cộng đồng.
21


Các tiết học âm nhạc ở trường mầm non bao giờ cũng được tiến hành với
từng nhóm trẻ theo độ tuổi. Trong khi được cùng nhau thưởng thức các tác phẩm
âm nhạc cùng với những cảm xúc sẽ tạo cho trẻ sự thoải mái, tự tin, mạnh dạn

hơn trong mọi hoạt động và hòa nhập với cộng đồng. Giữa trẻ với nhau cũng
xuất hiện sự cảm thông, quan tâm hơn đến nhau. Hơn nữa, hoạt động nghe nhạc
còn ảnh hưởng tốt đến hành vi văn hóa của trẻ: Nội dung các bài hát khác nhau
giúp trẻ có hành vi đúng đắn, phù hợp, sự thay đổi luân phiên các hoạt động
( hát, nghe, vận động) tạo cho trẻ có tính kỷ luật, chấp hành trật tự nhất định,
tính tổ chức… nó đòi hỏi ở trẻ sự chú ý, độ nhanh nhạy, giáo dục trẻ biết kiềm
chế, dần điều khiển vận động cho phù hợp với âm nhạc.
Như vậy, hoạt động nghe nhạc đã tạo ra những điều kiện cần thiết đối với
sự hình thành những phẩm chất đọa đức nhân cách của trẻ, đặt những cơ sở ban
đầu cho văn hóa chung của người công dân tương lai.
1.5.3 Nghe nhạc là phương tiện thúc đẩy sự phát triển trí tuệ ở trẻ
Các công trình nghiên cứu khoa học cho thấy: cảm thụ âm nhạc gắn bó
chặt chẽ với sự phát triển trí tuệ, nó đòi hỏi trẻ phải chú ý, quan sát nhạy bén.
Trẻ biết tập trung nghe nhạc, so sánh các âm thanh tiến hành cao thấp, mạnh
nhẹ, nhanh chậm khác nhau, làm quen với ý nghĩa biểu cảm của các âm thanh,
ghi nhớ các đặc điểm, tính chất các hình tượng âm thanh.
Những thử nghiệm ban đầu thử đánh giá cái đẹp trong âm nhạc đòi hỏi trí
tuệ phải hoạt động tích cực. Đó chính là sự hoạt động của ba hình thức tư duy
( khoa học tâm lý đã nghiên cứu ở trẻ): tư duy trực quan hành động, tư duy trực
quan hình tượng và tư duy trực quan trừu tượng.Cả ba hình thức này có liên
quan mật thiết với nhau giúp trẻ không chỉ nhận biết mà còn phải tìm thấy sự
giống và khác nhau giữa các tác phẩm âm nhạc và trẻ có thể tự sắp xếp chúng
thành từng nhóm, từng thể loại qua giai điệu, tiết tấu của mỗi tác phẩm.
Thông qua những tác phẩm âm nhạc có nội dung phản ánh những hiện
tượng của cuộc sống xung quanh mà trang bị cho trẻ nhận biết về xã hội, thiên

22


nhiên, phong tục tập quán và truyền thống dân tộc. Hình thành ở trẻ những biểu

tượng sáng tạo, làm thức dậy ước mơ và tưởng tượng của trẻ.
Giông như các hoạt động âm nhạc khác, hoạt động nghe nhạc của trẻ
được tổ chức với yêu cầu ngày một nâng cao và phức tạp hơn, đòi hỏi trẻ phải
tích cực tư duy, tưởng tượng, sáng tạo.
1.5.4 Nghe nhạc là phương tiện góp phần phát triển thể chất cho trẻ
Trong quá trình hoàn thiện cơ thể của trẻ, nghe nhạc đóng góp một phần
quan trọng. Trước hết, nghe nhạc được coi là khả năng tốt nhất để phát triển tai
nghe nhạc cho trẻ (ear-music). Trong quá trình nghe nhạc, khi trẻ được rèn luyện
chú ý đến âm nhạc, nhận biết sự chuyển động của âm thanh, giai điệu, tiết tấu,
cường động, âm sắc, nhịp độ… trẻ được luyện tập thường xuyên để phân biết
được các chi tiết âm nhạc, xác định những hình thức cấu trúc âm nhạc đơn giản
như: tiết nhạc, câu nhạc, đoạn nhạc, nhận biết thể loại âm nhạc của tác phẩm,
hiểu được phong cách âm nhạc của tác phẩm, tác giả… từ đó mà tai nghe âm
nhạc hợi ra những phản ứng gắn với sự thay đổi nhịp tim mạch, sự trao đổi
máu…
Trong tiết học vận động theo nhạc, việc nghe nhạc không chỉ giúp trẻ tập
phối hợp các động tác, đi lại vững vàng, chạy được nghẹ nhàng theo giai điệu,
theo nhịp của bài hát mà tất cả những vận động của tay, chân, lưng, đầu, vai,
toàn thân… cũng là nhờ có sự phụ họa của âm nhạc, sự chú ý lắng nghe âm nhạc
nên vận động mới trở nên chính xác, nhịp nhàng hơn. Cường độ, nhịp độ của tác
phẩm âm nhạc đòi hỏi trẻ phải tập trung lắng nghe nhận biết sự thay đổi của âm
nhạc để thay đổi tốc đọ của vận động, biên độ của vận động. Sự thay đổi tính
chất âm nhạc ở các câu, đoạn cũng kéo theo mức độ căng thẳng, sự thay đổi
hướng và đội hình của vận động. Vận động theo nhạc tạo cho trẻ sự hoạt bát,
nhanh nhẹn, có tư thế đẹp, duyên dáng.
Như vậy, hoạt động nghe nhạc ở trường mầm non đã tạo điều kiện phát
triển chung cho nhân cách trẻ. Sự nhạy cảm và tai nghe âm nhạc phát triển trong
những mức độ phù hợp sẽ giúp trẻ hưởng ứng với những tình cảm và hành vi tốt
23



đẹp, đẩy mạnh hoạt động trí tuệ, thường xuyên hoàn thiện mọi vận động thể chất
cho trẻ.
1.5.5 Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5-6 tuổi có liên quan đến khả năng nghe nhạc
1.5.6 Đặc điểm tâm lý
Các nhà tâm lí học cho rằng, sự nhạy cảm và nghe ở trẻ phát triển từ rất
sớm. Đây cũng là thời điểm mạnh mẽ tình cảm thẩm mỹ dễ rung động trước cái
đẹp. Hướng phát triển tình cảm của trẻ ngày càng phong phú bền vững và sâu
sắc hơn chính vì thế trẻ cảm nhận âm nhạc cũng sâu sắc hơn.
Nghiên cứu về tri giác của trẻ về âm nhạc cho thấy: Độ tinh về ngôn ngữ
thấp hơn độ tinh về âm nhạc. Nghĩa là trẻ có khả năng phân biệt tốt hơn những
khác biệt về cao độ của âm thanh so với khả năng phân biệt các âm của ngôn
ngữ, nó giúp cho trẻ ghi nhớ âm nhạc tốt hơn, lâu hơn. Do ở trẻ mẫu giáo tính
hình tượng phát triển mạnh nên những thuộc tính cụ thể, cảm tính sinh động của
âm thanh có tác động mạnh mẽ lên giác quan và ghi dấu ấn đậm trong tâm trí
trẻ.
Trẻ 5-6 tuổi trí nhớ có chủ định phát triển mạnh mẽ, chỉ cần sử dụng câu
hỏi, gợi ý, hướng dẫn, tổ chức phù hợp là trẻ có thể tiếp thu vấn đề nhanh chóng.
Âm nhạc cũng thông qua các hình thức, phương pháp đó nên trẻ cũng rấ dễ tiếp
thu tri thức âm nhạc. Trẻ không thuộc bái hát, giai điệu một cách máy móc và
bắt chước nữa.
Chú ý của trẻ mang màu sắc xúc cảm và có liên quan đến hứng thú, trẻ
bộc lộ trực tiếp rõ ràng qua nét mặt và ánh mắt trước đối tượng mà chúng thích.
Nắm bắt đặc điểm này, chúng ta có thể tổ chức các hoạt động vui vẻ, sôi nổi để
gây sự chú ý và hứng thú cho trẻ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục âm nhạc.
Trong trò chơi tự do và sáng tạo, trẻ chú ý lâu hơn, điều này phù hợp với tính
chất hoạt động đặc thù của âm nhạc: vui vẻ thoải mái, tự nhiên bộc lộ cảm
xúc…
Những nét tâm lí đặc trưng của tuổi mẫu giáo là tiền đề cho việc tiếp thu,
giáo dục âm nhạc. Âm nhạc đã đem lại cho trẻ một thế giới âm thanh nhiều màu

24


sắc, gợi cho trẻ sự thú vị, hấp dẫn và sự hài hòa tinh tế, tạo điều kiện cho trẻ thể
hiện chính bản thân mình.
1.5.7 Đặc điểm sinh lý
Hoạt động âm nhạc là hoạt động đòi hỏi có sự tham gia tổng hợp của các
quá trình tâm sinh lý, trong đó quá trình sinh lí giữ vai trò khá quan trọng quyết
định hiệu quả của hoạt động âm nhạc.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, các chức năng của hệ cơ quan trong cơ thể được
hoàn thiện dần đặc biệt là chức năng phối hợp các động tác. Hoạt động âm nhạc
thường tổ chức dưới dạng động nên đồi hỏi sự linh hoạt của các bộ phận trong
cơ thể phối hợp một cách nhịp nhành với nhau thống nhất tong một thể trọn vẹn.
Ngay cả khỉ nghe nhạc trẻ cũng biểu hiện cảm xúc của mình bằng cử chỉ, điệu
bộ… cho đến trò chơi âm nhạc trẻ thực sự được hòa mình vào không khí sôi nổi,
vui vẻ, cơ thể được hoạt động tích cực và nhịp nhàng.
Giai đoạn này, các cơ quan trong cơ thể đã phát triển hoàn chỉnh trong đó
có cơ quan thính giác. Trẻ phản ứng nhanh nhạy với âm thanh. Ngay từ 6-7
tháng, trẻ đã có khả năng phản ững với âm thanh bằng cách vận động toàn thân.
Lúc sơ sinh phản ứng với âm thanh qua cử động chớp mắt, rùng mình… Trẻ có
thể nghe thấy âm thanh mà người lớn không nghe thấy. Chính điều này giúp trẻ
tiếp nhận âm thanh một cách nhẹ nhàng tự nhiên. Càng lớn, khả năng phẩn ứng
với âm thanh càng tăng. Trẻ đi vào cảm nhận tính chất âm nhạc của tác phẩm, đi
sâu vào tìm hiểu tính hình tượng trong các tác phẩm âm nhạc, nó giúp cho trẻ
cảm nhận tác phẩm sâu sắc hơn, tinh tế hơn.
Cùng với sự phát triển của hệ vận động, hệ thần kinh của trẻ cúng phát
triển. Khả năng tập trung chú ý của trẻ tăng lên 15-20 phút. Điều này làm tăng
khả năng nghe nhạc của trẻ, thời gian chú ý nghe dài hơn và liền mạch hơn. Bên
cạnh đó việc phát triển trí tuệ tạo điều kiện cho việc nghe nhạc của trẻ có chiều
sâu, có sự tư duy, phân tích, nâng cao hiệu quả nghe nhạc lên rất nhiều.

Cấu tạo cơ quan phát âm của trẻ có sự khác biệt với người lớn: khe âm
thanh và thanh đới ngắn nên giọng trẻ thường là giọng thanh. Giọng thanh giúp
25


×