Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo PTNT huyện thanh ba – phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.09 KB, 49 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng
đối với nền kinh tế của mỗi nước. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển khi có một hệ thống
ngân hàng hoạt động lành mạnh, ổn định và ngược lại nếu hệ thống ngân hàng hoạt
động yếu kém trì trệ thì cũng sẽ kéo theo nền kinh tế kém phát triển. Tại các nước
đang phát triển như Việt Nam, NHTM thực sự đóng một vai trò vô cùng quan trọng,
nó giữ cho dòng vốn của nền kinh tế được lưu thông, giúp cho nguồn vốn được sử
dụng hiệu quả. Trong các hoạt động của NHTM thì hoạt động tín dụng là một trong
những hoạt động quan trọng và phức tạp nhất, đồng thời lại hàm chứa nhiều rủi ro nhất
của ngân hàng. Hoạt động tín dụng của NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của mọi
tầng lớp dân cư, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Một trong những
đặc trưng của hoạt động ngân hàng đó là việc phải đối mặt với rủi ro. Rủi ro là một
hiện tượng phổ biến và mang tính tất yếu. Việc chấp nhận và đối diện với rủi ro là một
điều cần thiết, không thể tránh khỏi, vấn đề là phải có các biệp pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro. Trong hoạt động của mình, các NHTM cũng phải đối diện với rất nhiều
rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất... Trong
đó rủi ro tín dụng là loại rủi ro thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Vì vậy, công
tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm. Rủi ro tín
dụng sẽ không phải bài toán đối với một ngân hàng, một quốc gia mà nó là bài toán
chung trên toàn thế giới. Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt như hiện nay, vấn đề tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề rủi ro tín dụng
luôn là vấn đề cấp bách đối với mỗi ngân hàng trên thế giới nói chung và tại Việt Nam
nói riêng. Chính vì vậy tác giả quyết định chọn đề tài: “Giải Pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Thanh Ba – Phú
Thọ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng trong các NHTM, chuyên
đề tiến hành việc phân tích thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT
huyện Thanh Ba – Phú Thọ nhằm tìm ra nguyên nhân của rủi ro tín dụng, cũng như
những mặt làm được và chưa làm được trong công tác phòng ngừa hạn chế rủi ro tín


1


dụng. Qua đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa hạn chế
RRTD tại ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về rủi ro tín dụng và nguyên nhân của rủi ro
tín dụng nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng tại chi
nhánh NHNo & PTNT huyện Thanh Ba – Phú Thọ.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu giữa lý luận và thực trạng rủi ro tín dụng trong
thời gian từ 2012-30/9/2015 tại chi nhánh NHNN&PTNT huyện Thanh Ba – Phú Thọ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thu tập số liệu : Các báo cáo và tài liệu của chi nhánh NHNN&PTNT huyện
Thanh Ba.
Sử dụng các phương pháp như: Phương pháp phân tích, thống kê phân tích,
phương pháp so sánh, tổng hợp các bảng biểu và khái quát hóa, phương pháp luận
khoa học gắn giữa lý thuyết và thực tiễn, các lý thuyết về tiền tệ tín dụng của các nhà
khoa học.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNN&PTNT huyện Thanh
Ba – Phú Thọ.
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh
NHNN&PTNT huyện Thanh Ba – Phú Thọ.
Do thời gian nghiên cứu và nhận thức của bản thân còn hạn chế nên trong
quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót cần hoàn thiện bổ sung. Em rất
mong được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy, cô giáo cùng ban lãnh đạo chi nhánh
NHNN&PTNT huyện Thanh Ba để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên
Trần Thị Thúy Hằng

2


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.1.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng xuất phát từ chữ la tinh “credo” (tin tưởng, tín nhiệm). Trong tiếng
Anh là “credit” trong thực tế tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong
từng bối cảnh cụ thể khác nhau.
Trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu
hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay
sang người đi vay.
Tín dụng nói chung được định nghĩa là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển
nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức giá trị hoặc hiện vật) từ người sở
hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn
hơn giá trị ban đầu.
Nếu xem xét ở một góc độ hẹp hơn, “Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản
(tiền hoặc hàng hóa) giữa ngân hàng và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ
thể khác), trong đó, ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một
thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán”.
Theo luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để
tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản
tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

1.1.2. Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng:
Bản chất của tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử
dụng một lượng tài sản bằng tiền, bằng tài sản hay uy tín với nguyên tắc hoàn trả đầy
đủ dưới các hình thức cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh và các dịch vụ
tài chính khác.
Như vậy từ khái niệm và bản chất ta rút ra được đặc trưng của tín dụng ngân hàng như
sau:

3


Tín dụng phải dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa bên cho vay và bên đi vay. Chỉ
khi nào người cho vay thực sự tin tưởng vào sự sẵn lòng và khả năng trả nợ của người
đi vay, khi đó quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Đây chính là điều kiện tiên quyết
hình thành quan hệ tín dụng. Mặt khác, người vay cũng tin vào hiệu quả của việc sử
dụng đồng vốn đi vay của mình.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng tài sản của ngân hàng cho
người đi vay, trong một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi.
Sau một thời gian như đã thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho
vay một lượng giá trị gồm cả gốc và lãi. Phần chênh lệch này là giá của việc sử dụng
quyền sử dụng vốn của người khác. Do vậy, nó phải đủ lớn để đem lại sự hấp dẫn cho
người chuyển nhượng quyền sử dụng vốn.
Hoạt động tín dụng luôn chứa đựng những rủi ro. Đó là do sự mất cân xứng về
thông tin của khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Rủi ro đó ngoài những
nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng và khách hàng, còn có những
nguyên nhân khách quan như: sự biến động của thị trường, chu kì kinh tế, sự thay đổi
của chính sách, những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch họa…
1.1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân:
Nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại các yếu tố cạnh tranh, các doanh nghiệp
muốn chiếm lĩnh thị trường, nâng cao vị thế cạnh tranh của mình thì không còn con

đường nào khác là phải không ngừng nâng cao quy mô và chất lượng hoạt động kinh
doanh của mình. Để làm được điều đó và sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn thì tín
dụng ngân hàng là lựa chọn tối ưu của các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa nhà đầu tư và
nhà tiết kiệm.
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Để
thực hiện quá trình kinh doanh tín dụng, ngân hàng phải có nguồn vốn và trên cơ sở đó
đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế.
Một mặt, trong nền kinh tế thường xuyên xuất hiện những nguồn vốn bằng tiền tạm
thời chưa sử dụng đặc biệt là tiền tiết kiệm của dân chúng. Mặt khác, có một số doanh
nghiệp, cá nhân lại xuất hiện hiện tượng thiếu vốn tạm thời hoặc là họ có cơ hội đầu tư
nhưng lại không đủ tiền. Sự có mặt của tín dụng ngân hàng được coi là một công cụ để
giải quyết mâu thuẫn trên về cung cầu vốn tiền tệ. Như vậy ngân hàng có vai trò tập
hợp tiền nhàn rỗi trong dân cư và hỗ trợ vốn cho cá hoạt động doanh nghiệp.
4


Thông qua tín dụng ngân hàng, tiền nhàn rỗi phân tán khắp mọi nơi có thể là
của các doanh nghiệp, dân cư sẽ được tập trung lại và đưa vào hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm mục đích sinh lời. Có như vậy, vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
mới có điều kiện mang đầy đủ nội dung kinh tế của phạm trù “tư bản” tức là với một
đồng vốn bỏ ra, khi quay trở lại sẽ lớn hơn giá trị ban đầu.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Các doanh nghiệp ngoài vốn chủ sở hữu, họ có thể tăng cường vốn cho hoạt động sản
xuất của mình bằng phương pháp sau:
Phương pháp tài chính: là phương pháp Nhà nước thường xuyên sử dụng nhằm
cấp phát, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp. Trong phương pháp này tính hoàn trả
không được nhấn mạnh, chính vì vậy tính sinh lời, tính hiệu quả trong hoạt động của
doanh nghiệp bị triệt tiêu.
Phương pháp tín dụng: là phương pháp cấp vốn dưới hình thức cho vay có sự

hoàn trả cả vốn lẫn lãi. Chính vì vậy, tín dụng ngân hàng đã kích thích tăng cường
hạch toán kinh tế của doanh nghiệp tức là các doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng phải
cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng, giảm chi phí sản xuất, từ đó nâng cao lợi nhuận cho các
doanh nghiệp và tăng hiệu quả sử dụng đồng vốn.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình giao lưu kinh tế quốc tế.
Ngày nay trong mối quan hệ kinh tế, sự hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có lợi
giữa các nước trên thế giới và khu vực đang được phát triển rất đa dạng cả về nội dung
và hình thức, cả về chiều rộng và chiều sâu. Đó là nhân tố hết sức quan trọng tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế mỗi nước.
Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa là hai lĩnh
vực hợp tác kinh tế thông dụng. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện
quá trình này. Thế nhưng không một tổ chức kinh tế nào, một cá nhân nào có thể có đủ
vốn. Vì vậy, ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt
động tín dụng ngân hàng sẽ cấp vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu
hàng hóa.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng:
Hoạt động tín dụng đóng vai trò rất quan trọng cho thị trường tài chính ngân
5


hàng phát triển. Tín dụng là một hoạt động chủ yếu của các NHTM, thường chiếm quá
nửa tổng tài sản và tạo ra từ 70% - 90% thu nhập cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động
tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro. Rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro phức tạp nhất, quản lý
và phòng ngừa khó khăn nhất, đòi hỏi NHTM phải có những giải pháp đồng bộ, hữu
hiệu để ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra.
Theo khoản 1 điều 3 TT02/2013/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc
toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.”.
Có thể hiểu: RRTD là khả năng xảy ra tổn thất do khách hàng không trả hoặc
trả không đầy đủ số tiền lãi và gốc phải trả cho ngân hàng theo hợp đồng tín dụng đã
ký. Nó được biểu hiện thông qua việc khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không đầy đủ
hoặc không trả nợ khi đến hạn, gây ra những tổn thất về tài chính và khó khăn trong
hoạt động kinh doanh của NHTM. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro cơ bản nhất của
NHTM. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm
nhiều hoạt động mang chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo lãnh, hoạt
động tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng:
Có rất nhiều cách thức phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu và
mục đích nghiên cứu. Người ta thường chia rủi ro tín dụng thành các loại sau:

6


Sơ đồ 1: Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro
tín dụng

Rủi ro
danh
mục

Rủi ro
giao
dịch

Rủi ro

lựa chọn

Rủi ro
đảm bảo

Rủi ro
nghiệp
vụ

Rủi ro
nội tại

Rủi ro
tập
trung

Rủi ro giao dịch: là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những
sai sót ở các khâu đánh giá, thẩm định và xét duyệt khi cho vay, hoặc phát sinh do
thiếu chặt chẽ ở khâu theo dõi kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, hoặc phát sinh do
sơ hở ở khâu bảo đảm và những cam kết ràng buộc trong hợp đồng tín dụng. Rủi ro
giao dịch bao gồm:
Rủi ro lựa chọn: rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín
dụng, lựa chọn phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định tài trợ của Ngân hàng.
Rủi ro đảm bảo: rủi ro có liên quan đến việc không đảm bảo được các tiêu
chuẩn đảm bảo như mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo, các loại tài sản đảm
bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo, các điều khoản đảm bảo trong hợp đồng...).
Rủi ro nghiệp vụ: rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động
cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các
khoản vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục: rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong

quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng, được phân thành:

7


Rủi ro nội tại: loại rủi ro xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang
tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất
phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của Khách hàng vay vốn.
Rủi ro tập trung: loại rủi ro do NHTM tập trung cho vay quá nhiều vào một số
Khách hàng, một số ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc
cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao. Để hạn chế rủi ro tập trung cần đa dạng hóa
danh mục Khách hàng cho vay, ngành, lĩnh vực đầu tư, loại hình cho vay.
1.2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
Chính sách tín dụng không hợp lý:
Ngân hàng quá đề cao mục tiêu lợi nhuận mà không chú ý đến mục tiêu an toàn
và chất lượng tín dụng từ đó đơn giản hóa việc phân tích đánh giá khách hàng dẫn tới
một chính sách tín dụng không hợp lý, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Vấn đề trong quy trình tín dụng:
Vấn đề trong thẩm định tín dụng: Do việc tìm kiếm thông tin về khách hàng có
nhiều hạn chế vì thế ngân hàng không có đủ các thông tin chính xác để đánh giá khách
hàng, đánh giá chưa chính xác hiệu quả của phương án vay vốn, số tiền vay và thời
gian hoàn trả, nguồn hoàn trả. Vì vậy mà thẩm định chưa hiệu quả, đôi khi việc cấp tín
dụng còn dựa trên cơ sở lòng tin là chính
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay và lỏng lẻo trong công tác kiểm tra
nội bộ các ngân hàng: Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức
cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng
vốn sau khi cho vay. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các
điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng, tìm ra những
cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua

còn có ngân hàng chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần là do yếu tố tâm
lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng. Việc kiểm tra được thực
hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng có lúc, có nơi công việc
kiểm tra nội bộ của ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần
phải được xem như hệ thống “phanh” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc
lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào
8


những ngã rẽ rủi ro luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
Sự hợp tác giữa các ngân hàng còn lỏng lẻo: Kinh doanh ngân hàng là một
nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác là đi vay để cho vay, do vậy
vấn đề rủi ro hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp
tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác này nảy sinh do nhu cầu quản lý
rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tại nhiều ngân hàng.
Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng là một con số cụ thể, có giới
hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin dẫn đến việc nhiều ngân hàng
cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều
cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế
rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ
tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì nguy hiểm khi được bố trí trong
công tác tín dụng.
Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn
Năng lực trả nợ của khách hàng:
Năng lực tài chính của khách hàng: Rủi ro từ phía khách hàng doanh nghiệp
xuất phát từ hệ số khả năng thanh toán, các vòng quay và cơ cấu vốn bất hợp lý, hoặc
có đôi khi các hệ số này chưa phản ánh đầy đủ bản chất mà phải nhìn nhận từ các yếu
tố cấu thành để phát hiện dấu hiệu rủi ro tiềm ẩn. Nhiều DN không đánh giá được hết

những rủi ro khi sử dụng đồng vốn, đánh giá chi phí vốn cũng như khả năng sinh lợi
của đồng vốn
Nguồn trả nợ chủ yếu của nhóm khác hàng cá nhân là từ khoản thu nhập. Vì vậy
nguyên nhân gây ra RRTD cho ngân hàng từ họ do gặp phải một trong các nguyên
nhân sau: Gặp phải một sự cố bất thường trong cuộc sống, công việc thay đổi hoặc mất
việc làm hoặc không hoạch định ngân sách hợp lý.
Năng lực quản lý của khách hàng: Năng lực quản lý của khách hàng thể hiện
ở sự đồng bộ và chuyên nghiệp từ ban lãnh đạo, chính sách của doanh nghiệp và văn
hóa doanh nghiệp. Một số dấu hiệu liên quan đến năng lực quản lý của khách hàng
như có sự thay đổi về cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị, xuất hiện sự bất đồng
9


trong hệ thống điều hành, xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả năng ứng
phó với các thay đổi, thuyên chuyển nhân viên thường xuyên, tranh chấp trong quá
trình quản lý hay quản lý có tính chất gia đình…
Đạo đức và thiện chí trả nợ của khách hàng:
Do khách hàng không muốn hoàn trả nợ vay, sử dụng vốn sai mục đích hoặc kinh
doanh các mặt hàng bị pháp luật cấm. Có thể do doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân
hàng gây tổn hại nghiêm trọng cho ngân hàng.
Nguyên nhân phát sinh do TSĐB:
Khi khách hàng không trả được nợ thì TSĐB là nguồn thu nợ thứ 2 của ngân hàng. Giá
trị thu hồi của TSĐB có thể không bù đắp được thiệt hại của khoản vay trong những
trường hợp như: giá cả tài sản bảo đảm biến động, tính khả mại của tài sản bảo đảm
thấy, có phát sinh tranh chấp về mặt pháp lý trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm vì
một tài sản có thể dùng để bảo đảm cho nhiều khoản vay cùng một lúc.
Nguyên nhân bên ngoài:
Môi trường kinh tế
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới là
nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay.

Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp và công nghiệp phục
vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu) vốn rất nhạy cảm với
rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động
xấu. Những khó khăn do bị khống chế hạn ngạch trong ngành dệt may, hay những vụ
kiện bán phá giá trong ngành thủy sản...làm ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng nói chung. Không
chỉ xuất khẩu, những mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng
sắt thép bị ảnh hưởng rất lớn bởi giá thép thế giới, việc tăng giá phôi thép làm cho một
số các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành
rất lớn trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế cũng dẫn đến những hệ quả tất
yếu làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu
hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt
với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản
10


thân sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi
trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước gặp phải nguy cơ rủi
ro nợ xấu tăng lên do các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn đã bị các ngân hàng
nước ngoài thu hút bằng các sản phẩm, dịch vụ mới với nhiều tiện ích hơn.
Sự tấn công của hàng nhập lậu làm điêu đứng các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn vào các DN này. Sự tràn lan của hàng
nhập lậu tại các thành phố lớn với các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, quần áo,
mỹ phẩm...là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng nhập lậu ở nước ta.
Sự thiếu quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý, công khai đã dẫn đến
khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành. Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn
đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ
rời bỏ những ngành không mang lại lợi nhuận do đó dẫn đến sự chuyển dịch vốn từ
ngành này sang ngành khác. Nếu để sự cạnh tranh phát triển một cách tự phát mà

không có sự điều tiết vĩ mô của Nhà Nước sẽ dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư
ở một số ngành, gây khung hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
Môi trường pháp lý
Những năm gần đây, Chính Phủ đã ban hành nhiều luật và các văn bản hướng
dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Song việc triển khai vào
hoạt động ngân hàng vẫn còn chậm và gặp phải nhiều vướng mắc. Như việc cưỡng chế
tài sản thu hồi nợ, mặc dù các văn bản luật đều có quy định: “Trong trường hợp khách
hàng không trả được nợ, ngân hàng thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ
vay”, nhưng trên thực tế các NHTM chưa làm tốt được điều này, để xử lý hoặc chuyển
tài sản đảm bảo nợ vay thường phải thông qua tòa án xử lý theo con đường tố tụng...
Hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống NHNN cũng cần
phải luôn cải thiện, nâng cao chất lượng và nhất là nắm bắt kịp tốc độ cải tiến công
nghệ mới của các NHTM hiện nay. Việc thanh tra tại chỗ là phương pháp quản lý
nhanh nhất và hiệu quả nhất nhằm phát hiển và xử lý kịp thời những rủi ro trong hoạt
động tín dụng của các NHTM. Nếu thanh tra ngân hàng chỉ hoạt động một cách thụ
động, không cảnh báo và có biện pháp ngăn chặn ngay từ đầu, để khi hậu quả nặng nề
xảy ra rồi mới can thiệp thì RR và nguy cơ đe dọa sự an toàn trong toàn hệ thống là rất
lớn.
11


Hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động tương
đối hiệu quả và đạt được những kết quả bước đầu rất khả quan. Tuy nhiên, đây vẫn
chưa là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập, thông tin cung
cấp còn đơn điệu, thậm chí cập nhật không kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu tra
cứu thông tin của các NHTM.
Các yếu tố thuộc về môi trường như thiên tai, địch họa, hỏa hoạn là những yếu
tố mà ngân hàng không thể kiểm soát được. Những ảnh hưởng của nó có thể gây ra rủi
ro cho hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng.
Tóm lại, RRTD dù xuất phát từ nguyên nhân nào thì cũng đều gây ra những tổn

thất lớn cho ngân hàng. Việc phân tích nguyên nhân gây ra RRTD sẽ giúp ngân hàng
đưa ra được các biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả hơn.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì tín dụng là 1 lĩnh vực gặp
nhiều rủi ro. Trong chương 1 của chuyên đề đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản về
hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Trên cơ
sở đó chuyên đề cũng đã nêu lên một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến rủi ro tín dụng.
Chương 2 sẽ trình bày rõ hơn về thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh
Ba- Phú Thọ.

12


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH
THANH BA – PHÚ THỌ
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH THANH BA – PHÚ
THỌ:
Tình hình về phân loại nhóm nợ tại chi nhánh:
Bảng 1: Cơ cấu các nhóm nợ tại chi nhánh
Năm 2012

Năm 2013

Đơn vị: triệu VNĐ

Năm 2014


30/09/2015

So sánh
2013/2012

So sánh
2014/2013

Nhóm
nợ
Dư nợ

Tỉ lệ
(%)

Dư nợ

Tỉ lệ
(%)

Dư nợ

Tỉ lệ
(%)

Dư nợ

Tỉ lệ
%


tăng (+)
giảm (-)

tăng (+)
giảm (-)

Tổng
dư nợ

418.768,35

100

501.968,50

100

563.825,35

100

470.567

100

83.200,15

61.856,85

Nhóm

1

255.448,69

61,0

335.314,96

66,8

411.028,68

72,9

330.338,03

70,2

79.866,26

75.713,72

Nhóm
2

99.248,10

23,7

111.437,01


22,2

108.254,47

19,2

102.583,61

21,8

12.188,91

-3.182,54

Nhóm
3

26.382,41

6,3

42.165,35

8,4

21.989,19

3,9


18.822,68

4,0

15.782,95

-20.176,17

Nhóm
4

25.544,87

6,1

8.031,50

1,6

16.914,76

3,0

13.646,44

2,9

-17.513,37

8.883,26


Nhóm
5

12.144,28

2,9

5.019,69

1,0

5.638,25

1,0

5.176,24

1,1

-7.124,60

618,57

(Sao kê dư nợ 31/12/2012, 31/12/2013, 31/12/2014, 30/9/2015)
Từ bảng phân loại nhóm nợ ta thấy dư nợ tăng liên tục qua các năm. Năm 2012
đạt 418.768,35 triệu đồng, sang năm 2013 tăng 83.200,15 triệu so với năm 2012
(khoảng 20%). Đến năm 2014 tổng dư nợ tiếp tục tăng 61.856,85 triệu đồng so với
năm 2013 đạt 563.825,35 triệu đồng. Theo số liệu mới nhất tính đến 30/9/2015, tổng
dư nợ tại chi nhánh đạt 470.567 triệu đồng, tăng 15% so với cùng kì năm 2014 (Báo

cáo quý III tại chi nhánh)

13


Việc giá trị tổng dư nợ tăng lên liên tục cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng của chi
nhánh khá tốt, vốn được bơm ra phục vụ cho phát triển kinh tế ở địa phương đều đặn
và liên tục. Do đặc thù kinh tế của vùng chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trồng trọt –
chăn nuôi, vòng quay vốn nhanh. Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT huyện Thanh Ba
chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn và các DN nhỏ và vừa.
Trong đó, nợ nhóm 1 chiếm tỉ trọng lớn nhất và tăng dần qua các năm cả về giá trị
tuyệt đối và tỉ trọng so với tổng dư nợ. Năm 2012 đạt 255.448,69 triệu đồng chiếm
61% tổng dư nợ, đến năm 2014 chiếm gần 73% tổng dư nợ với giá trị là 411.028,68
triệu đồng. Ngày 30/9/2015 nợ nhóm 1 là 330.338,03 triệu đồng. Theo đó NQH và nợ
xấu có sự sụt giảm qua các năm. NQH tập trung chủ yếu là nợ nhóm 2 và nợ nhóm 3.
Nợ nhóm 4 và nhóm 5 chiếm tỉ trọng nhỏ. Các khoản nợ xấu giảm dần cho thấy hiệu
quả tín dụng của Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam chi nhánh huyện Thanh Ba - tỉnh
Phú Thọ ngày càng được nâng cao.
Nguyên nhân chính là do: Nền kinh tế dần phục hồi, các chính sách nhà nước
tạo điều kiện kích cầu tiêu dùng, từ đó việc sản xuất kinh doanh của cá nhân và doanh
nghiệp được cải thiện, giảm tình trạng nợ quá hạn và nợ xấu. Tuy nhiên về giá trị tuyệt
đối nợ quá hạn vẫn cao và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng dư nợ ( trên 27%). Do ngân
hàng lựa chọn khách hàng cho vay chính trong lĩnh vực nông thôn, sản xuất phụ thuộc
nhiều vào thời tiết, trong khi đó công nghệ sản xuất còn lạc hậu chưa đem lại nguồn
thu hoạch lớn, thời tiết bất thường gây mất mùa, nông dân không bán được nông phẩm
không có tiền trả cho ngân hàng. Như vậy, ngân hàng cần chú ý hơn nữa đến những
khoản NQH, khoanh vùng và tìm hiểu nguyên nhân để có những biện pháp thu nợ kịp
thời, tránh xảy ra tình trạng dẫn đến nợ nhóm 5 quá nhiều.
Để có cái nhìn và đánh giá sâu hơn về thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh từ
đó đưa ra các biện pháp và khuyến nghị hợp lý, tác giả xin đi sâu vào phân tích thực

trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh theo các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
2.2.

PHÂN TÍCH RỦI RO TÍN DỤNG THEO NGUYÊN NHÂN TẠI

AGRIBANK CHI NHÁNH THANH BA – PHÚ THỌ:
Việc xảy ra NQH và nợ xấu thường do sự kết hợp, đan xen nguyên nhân từ các
phía bao gồm nguyên nhân từ phía khách hàng, nguyên nhân từ phía Ngân hàng và
nguyên nhân từ môi trường bên ngoài khách quan. Để đạt hiệu quả cao trong việc
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, việc lượng hóa được mức độ ảnh hưởng của
các nguyên nhân đến việc gia tăng nợ quá hạn và nợ xấu là rất cần thiết. Dưới đây là
bảng thống kê nội bộ về mức độ gây ra rủi ro tín dụng theo nhóm nguyên nhân.
Biểu đồ 1: Cơ cấu rủi ro tín dụng theo nguyên nhân tại chi nhánh
14


Đơn vị: triệu VNĐ

(Số liệu thống kê nội bộ chi nhánh 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)
Từ biểu đồ số liệu thống kê tại chi nhánh, ta nhận thấy nguyên nhân gây ra rủi ro tín
dụng tại chi nhánh chủ yếu xuất phát từ khách hàng. Nhóm nguyên nhân này chiếm
phần lớn, có tỷ trọng cao so với nhóm khác (chiếm trên 50% nguyên nhân gây ra nợ
quá hạn).
Nguyên nhân là do khách hàng- chủ thể được cấp tín dụng không đủ khả năng tài
chính và năng lực quản lý, hay do đạo đức kém mà nguồn thông tin cung cấp từ chủ
thể này cho Ngân hàng là gian lận, dẫn đến hậu quả là Ngân hàng gặp khó khăn trong
thẩm định cho vay, giám sát và khó thu hồi nợ đúng hạn khi khách hàng gặp các vấn
đề phát sinh. Tuy nhiên nhóm nguyên nhân này đang có xu hướng giảm do năng lực
tài chính được nâng cao, và khả năng quản lý được chú trọng từ khách hàng.
Tiếp đến là nhóm nguyên nhân từ phía ngân hàng chiếm khoảng 20-25% nguyên nhân

gây ra nợ quá hạn. Nhóm nguyên nhân này đang có xu hướng tăng do tồn tại thiếu xót
trong quy trình tín dụng, trong chính sách tín dụng và do cán bộ tín dụng. Đây là vấn
đề mà bản thân Ngân hàng cần xem xét để giải quyết.
Nhóm nguyên nhân từ TSĐB gây RRTD do khả năng định giá của cán bộ Ngân hàng
còn chưa cao, có thể do đạo đức khách hàng mà Ngân hàng sẽ gặp rủi ro xuất phát từ
TSĐB.
2.2.1. Rủi ro tín dụng theo nguyên nhân khách hàng:
Việc thu hồi nợ khách hàng đầy đủ, đúng hạn phụ thuộc hai yếu tố chính là
năng lực trả nợ của khách hàng và thiện chí trả nợ của họ. Hai yếu tố tác động qua lại
15


lẫn nhau và có ảnh hưởng lớn đến tình trạng nợ quá hạn và nợ xấu tại Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ năng lực trả nợ của khách hàng:
Bảng 2: Cơ cấu rủi ro tín dụng theo nguyên nhân từ năng lực trả nợ
của khách hàng
Đơn vị: %
Năm 2012
Chỉ
tiêu

Năm 2013

30/09/2015

Năm 2014

Năng
lực tài
chính


Năng
lực
quản


Năng
lực tài
chính

Năng
lực
quản


Năng
lực
tài
chính

Năng
lực
quản lý

Năng
lực tài
chính

Năng
lực

quản lý

62,7

37,3

60,5

39,5

58

42

55

45

Tỷ
trọng

(Số liệu thống kê nội bộ chi nhánh 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)
Rủi ro tín dụng xuất phát từ năng lực tài chính của khách hàng:
Rủi ro xuất phát từ năng lực tài chính là rủi ro chủ yếu dẫn đến tình trạng nợ quá hạn
và nợ xấu cho Ngân hàng. Đặc biệt là khách hàng cá nhân với các nhu cầu vay không
lớn nhưng ẩn chứa rất nhiều rủi ro.
Bảng 3: Tình hình rủi ro thực tế xuất phát từ năng lực tài chính của khách hàng:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Khách hàng cá

nhân và hộ sản
xuất
Số vụ việc (vụ
việc)

Năm 2012

Giá trị
Năm 2013

Năm 2014

30/09/2015

101

208

181

155

Số dư nợ quá
hạn (triệu đồng)

42.148,43

36.337,47

31.010,63


Khách hàng
doanh nghiệp
Số vụ việc (vụ
việc)
Số dư nợ quá
hạn (triệu đồng)

4

3

3

2

18.063,61

17.099,99

12.059,69

6.076,84

21.075,2

(Số liệu tổng hợp từ báo cáo chi nhánh 2012, 2013, 2014)

16



Biểu đồ 2: Nợ quá hạn do năng lực tài chính khách hàng tại chi nhánh
Số dư nợ quá hạn từ cho vay khách
hàng cá nhân chiếm khoảng 70%
tổng dư nợ quá hạn và đang có xu
hướng giảm. Dư nợ quá hạn cho vay
khách hàng cá nhân năm 2012 cao
nhất, xảy ra 208 vụ việc.
Đến năm 2013 thì giảm 27 vụ việc và
dư nợ quá hạn giảm đi 5.810,95 triệu
đồng so với năm 2012, năm 2014 dư
nợ quá hạn bởi khách hàng cá nhân
chỉ còn khoảng 31 tỉ đồng. Số liệu dư nợ quá hạn do năng lực tài chính khách hàng
tính đến 30/9/2015 giảm 8% so với cùng kì 2014.
Nguyên nhân: Dư nợ quá hạn từ khách hàng cá nhân và hộ sản xuất cao do dư nợ của
chi nhánh tập trung chủ yếu vào nhóm khách hàng này, đối tượng có đặc điểm kinh
doanh nhỏ lẻ, thông tin đa dạng, phức tạp, khó thu thập, dư nợ của mỗi khoản vay
thấp, cần chi phí quản lý, theo dõi lớn từ Ngân hàng. Nhiều cá nhân do nguồn thu nhập
mất đi hay đột ngột suy giảm, bị mất việc hay chuyển công tác đến vị trí có thu nhập
kém hơn, mắc bệnh hiểm nghèo, qua đời hay gặp một sự cố bất thường trong cuộc
sống, họ cũng không hoạch định, cân đối được số tiền mà họ có dẫn đến thanh toán
chậm hay mất khả năng thanh toán với Ngân hàng. Tuy nhiên dư nợ quá hạn của đối
tượng này có xu hướng giảm xuống đáng kể do Ngân hàng nhận thức được đây là
nhóm khách hàng chủ yếu, có thể gây ra rủi ro lớn nên việc phê duyệt cho vay được
quyết định một cách kĩ lưỡng và chính xác hơn, hạn chế những khách hàng tiềm ẩn
nhiều rủi ro nếu cho vay.
Các hộ sản xuất nhỏ lẻ kinh doanh còn manh mún, chưa có sự đầu tư kĩ lưỡng hiệu quả
và chuyên sâu, hơn nữa kiến thức về lĩnh vực đầu tư sản xuất còn ít nên không tránh
khỏi rủi ro khi vay vốn. Điển hình là trường hợp ông Nguyễn Tiến Vinh sống tại khu 6
xã Hoàng Cương- Thanh Ba. Vay vốn Ngân hàng là 350 triệu đồng vào tháng 5 năm

2014 để nuôi ba ba tại trang trại của nhà. Trước đó ông chỉ nuôi vịt thịt để bán. Do
chưa có nhiều kinh nghiệm về sự sinh trưởng của ba ba, chưa đầu tư đúng mức trong
17


công tác chữa bệnh cho vật nuôi cộng với điều kiện về thời tiết không thuận lợi mà
đàn ba ba do ông Vinh nuôi bị nấm và chết. Số tiền đầu tư nuôi ba ba của ông Vinh
không thu hồi lại được, dẫn đến việc mất khả năng thanh toán với Ngân hàng.
Khách hàng doanh nghiệp của chi nhánh không nhiều nhưng do nhu cầu
vay lớn nên gây ra số dư nợ quá hạn không nhỏ. Năm 2012 dư nợ quá hạn khi cho vay
doanh nghiệp là khoảng 18 tỉ đồng, sang đến năm 2013 giảm hơn 1 tỉ đồng và đến năm
2014 thì dư nợ quá hạn đã giảm sâu hơn khoảng 5 tỉ đồng, chỉ còn khoảng 12 tỉ đồng.
Quý 3/2015 có dư nợ quá hạn do năng lực tài chính doanh nghiệp giảm 11% so với
cùng kì năm 2014.
Nguyên nhân là do doanh nghiệp được hỗ trợ vay vốn sản xuất kinh doanh với lãi suất
ưu đãi, kích thích phát triển bởi các chính sách kích cầu nhằm khôi phục nền kinh tế
sau khủng hoảng, năng lực tài chính cũng từ đó mà được nâng cao, có khả năng và
kinh nghiệm nhiều hơn trong việc khắc phục khó khăn do nền kinh tế biến động.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ năng lực quản lý của khách hàng:
Yếu tố quản lý ảnh hưởng lớn đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp từ đó
tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng. Việc quản lý hiệu quả là cơ sở để chu kì
kinh doanh được chuyển hóa nhanh chóng, đảm bảo vòng quay vốn nhanh, có lãi từ đó
có thu nhập hoàn trả cho chủ nợ và Ngân hàng. Các chốt trong chu kì kinh doanh đều
cần có quyết định và quản lý của ban lãnh đạo: mua máy móc tốt hay không? Sản xuất
có đúng hạn, đúng tiêu chuẩn không? Hàng có bán được không? Việc quản lý không
hiệu quả dẫn đến rủi ro cho doanh nghiệp và Ngân hàng thường xuyên xảy ra.
Bảng 4: Rủi ro tín dụng xuất phát từ năng lực quản lý của khách hàng:
Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu


Giá trị
Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

30/09/2015

Số vụ việc

8

6

5

3

Số dư nợ quá hạn

35.819,92

34.888,92

31.188,86

20.347,71

(Số liệu tổng hợp từ chi nhánh năm 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)

Số dư nợ quá hạn do khả năng quản lý của khách hàng giảm đi, số vụ việc đã giảm.
Từ năm 2012 đến năm 2014, số dư nợ này giảm từ gần 36 tỉ đồng chỉ còn 31 tỉ đồng,
giảm trên 5 tỉ đồng tương đương với 13% so với năm 2012. Tính đến hết quý 3 năm
2015 dư nợ quá hạn do khả năng quản lý của khách hàng giảm 15% so với cùng kì
18


2014.
Nguyên nhân là do sau thời kì trải qua những khó khăn từ những nguyên nhân bên
trong và ngoài doanh nghiệp, lãnh đạo các doanh nghiệp trở nên cẩn trọng trong các
quyết định, nhận thức được tầm quan trọng trong việc đề ra và thực thi các chính sách
điều hành cũng như tuyển chọn nhân lực phù hợp với vị trí công việc. Để đảm bảo chu
kì kinh doanh được thực hiện liên tục không bị dồn ứ ở bất kì công đoạn nào.
Một trường hợp thực tế trong năm 2013, công ty chè xuất khẩu Hoài Trung tại khu 9
xã Chí Tiên- Thanh Ba đã gây ra nợ quá hạn cho chi nhánh với số dư nợ là 5 tỉ đồng,
do tình trạng máy móc không đảm bảo sản xuất hàng hóa chất lượng vì vậy mà đối tác
ở Bỉ của công ty đã không chấp nhận lô hàng chè khô do công ty sản xuất, toàn bộ lô
hàng 8 tấn chè khô không xuất khẩu được, tiêu thụ trong nước số lượng không đáng
kể. Công ty mất nguồn thu. Nguyên nhân là do ban lãnh đạo không nắm được tầm
quan trọng của việc bảo trì và nâng cấp máy móc, cán bộ quản lý lơ là công tác kiểm
tra nên để xảy ra sự việc đáng tiếc.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ thiện chí trả nợ của khách hàng:
Thiện chí trả nợ hay đạo đức khách hàng là một trong hai tiêu chí quan trọng để đánh
giá khách hàng trong quá trình cho vay ngoài tiêu chí năng lực trả nợ. Đạo đức khách
hàng được thể hiện ngay từ khi cung cấp các thông tin tài chính và phi tài chính cho
Ngân hàng, đến quá trình sử dụng vốn đúng mục đích hay không và cuối cùng là thiện
chí trả nợ khi đến hạn thanh toán.
Bảng 5: Rủi ro tín dụng xuất phát từ thiện chí trả nợ của khách hàng
Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu


Giá trị
Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

30/09/2015

Số vụ việc

2

1

1

1

Số dư nợ quá hạn

2.350

570

320

420


(Số liệu thống kê tại chi nhánh 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)
Số vụ việc và dư nợ quá hạn do khách hàng không có thiện chí trả nợ giảm dần: 2012
là 2.350 triệu đồng đến năm 2013 chỉ còn 570 triệu đồng và năm 2014 chỉ còn 320
triệu đồng. Số liệu thống kê này cho thấy chất lượng tín dụng tại chi nhánh được nâng
cao, có sự xem xét và chú ý đến việc chọn lựa khách hàng có thiện chí trả nợ trước khi
cho vay.
19


2.2.2. Rủi ro tín dụng theo nguyên nhân Ngân hàng:
Biểu đồ 3: Cơ cấu rủi ro tín dụng theo nguyên nhân Ngân hàng:
Đơn vị: %

(Số liệu thống kê nội bộ chi nhánh 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)
Rủi ro tín dụng từ nguyên nhân chính sách tín dụng tại Ngân hàng:
Hoạt động tín dụng bao gồm ba hoạt động chính là: quan hệ khách hàng- hoạt
động tìm kiếm, tiếp xúc, chăm sóc và giữ chân khách hàng; quản lý tín dụng- thẩm
định, giám sát và thu nợ khách hàng; và quản lý rủi ro nhằm hạn chế và phòng tránh
rủi ro tín dụng.
Có hai hình thức quản lý tín dụng là: quản lý tập trung trong đó mỗi phòng sẽ chuyên
môn hóa, tập trung chức năng riêng và hình thức quản lý tín dụng phân tán tức là cả ba
hoạt động, chức năng trên đều tập trung vào một cán bộ tín dụng.
Hiện nay hệ thống Ngân hàng Agribank đang áp dụng hình thức quản lý tín dụng phân
tán, tập trung chức năng vào một cán bộ tín dụng. Đây là hình thức hoạt động đơn
giản, thời gian giải quyết nhanh chóng tuy nhiên không có sự chuyên môn hóa cao,
đồng thời tạo nên sự thiếu đồng nhất giữa các bộ phận. Từ đó có thể làm giảm uy tín,
ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động tín dụng, tạo sự cấu kết hay rủi ro đạo đức khi
cán bộ tín dụng có hành vi cấu kết với khách hàng.
Bảng 6: Rủi ro tín dụng xuất phát từ chính sách tín dụng bất hợp
lý của Ngân hàng

Đơn vị: triệu VNĐ
20


Chỉ tiêu
Dư nợ quá

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

30/9/2015

hạn

5.479,37

5.552,90

6.379,26

5.243,49

ước tính
(Số liệu thống kê từ nội bộ chi nhánh 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)
Rủi ro tín dụng xuất phát từ chính sách tín dụng hiện tại của ngân hàng khiến cho nợ
xấu tăng lên. Năm 2013 tăng lên 73,52 triệu so với dư nợ quá hạn năm 2012, đến năm
2014 dư nợ quá hạn do chính sách tín dụng tăng mạnh 826,36 triệu đồng tương đương

tăng gần 15% so với năm 2013. 30/9/2015 chi nhánh thống kê được nợ quá hạn do
chính sách tín dụng bất hợp lý là khoảng 5,2 tỉ đồng.
Nguyên nhân: Do chính sách tín dụng hiện tại chưa thực sự hợp lý, tình trạng cạnh
tranh lớn giữa các ngân hàng thương mại hiện nay và cả sự cạnh tranh giữa các chi
nhánh trong cùng hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp do số lượng chi nhánh dày đặc,
việc chính sách tín dụng quá đề cao mục tiêu lợi nhuận mà không chú ý đến mục tiêu
an toàn và chất lượng tín dụng cùng với sự bất hợp lý trong chính sách quản lý tín
dụng phân tán, từ đó đơn giản hóa việc phân tích đánh giá khách hàng dẫn tới một
chính sách tín dụng không hợp lý, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Rủi ro tín dụng từ quy trình cho vay của Ngân hàng:
Rủi ro tín dụng thường tiềm ẩn lớn ở hai bước thẩm định tín dụng và giám sát thu hồi
nợ trong quy trình tín dụng.
Bảng 7: Rủi ro tín dụng từ quy trình cho vay của Ngân hàng
Đơn vị: triệu VNĐ
Nguyên
nhân

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

30/9/2015

So sánh
2013/2012

So sánh
2014/2013


Thẩm định

6.006,65

6.189,10

4.247,75

3.846,1

182,45

- 1.941,35

Giám sát và
thu nợ

7.341,46

6.979,20

6.371,62

5.781,93

- 362,27

- 607,58


( số liệu thống kê của chi nhánh 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)

21


Biểu đồ 4: Dư nợ quá hạn do quy trình tín dụng
Thẩm định tín dụng có vai trò
rất quan trọng làm hạn chế tình
trạng thông tin không cân xứng
và đánh giá chính xác mức độ
rủi ro của khách hàng. Nếu quá
trình này không được thực hiện
đầy đủ và chính xác, RRTD xảy
ra cho Ngân hàng rất lớn.
Dư nợ quá hạn xuất phát từ thẩm định tín dụng năm 2012 là trên 6 tỉ đồng, chiếm
3,68% tổng dư nợ quá hạn, năm 2013 tăng lên khoảng 6,2 tỉ đồng nhưng đến năm
2014 giảm xuống chỉ còn khoảng 4,2 tỉ đồng.
Nguyên nhân là do năm 2012 và năm 2013, nhu cầu vay vốn của khách hàng khá lớn,
cán bộ Ngân hàng chưa thực hiện nghiêm túc công tác thẩm định, kèm theo đó đạo
đức khách hàng chưa cao, có công ty đã chỉnh sửa số liệu nhằm che dấu tình trạng thật
của công ty nhưng không bị phát hiện.Việc thẩm định chưa có sự kết hợp giữa các
thông tin phi tài chính và tài chính để thấy được những gian lận trong báo cáo của
doanh nghiệp gửi tới Ngân hàng. Năm 2013, tình hình tài chính của công ty may Ngọc
Phúc đi xuống, trong báo cáo tài chính có sự vốn hóa chi phí thông qua việc bán thanh
lý máy móc có giá trị lớn, dòng tiền vào từ hoạt động kinh doanh không còn là chủ lực
nhưng do thẩm định không kĩ lưỡng, chỉ nhìn vào hệ số khả năng thanh toán mà không
xem xét kĩ về dòng tiền hay các nhân tố cấu thành, cán bộ chi nhánh đã phê duyệt cho
vay từ đó làm nợ xấu gia tăng trong năm 2013, dư nợ quá hạn do công ty may Ngọc
Phúc là 2,5 tỉ đồng.
Năm 2014 do phát hiện ra vấn đề trong công tác thẩm định, lãnh đạo chi nhánh đã chỉ

đạo thẩm định kĩ lưỡng năng lực tài chính và năng lực kinh doanh của khách hàng
cũng như uy tín khách hàng và một số yếu tố phi tài chính khác, qua đó mà cùng với
các chính sách khuyến khích cho vay của nhà nước, dư nợ tín dụng tăng trưởng tốt
nhưng nợ xấu do quá trình thẩm định yếu bị giảm đi.
Dư nợ quá hạn do rủi ro từ giám sát tại chi nhánh giảm từ 7,3 tỉ năm 2012 xuống còn
6,9 tỉ vào năm 2013 tương đương với giảm khoảng 5% so với năm 2012. Năm 2014 dư
nợ quá hạn do sai sót trong quá trình giám sát tiếp tục giảm xuống chỉ còn 6,3 tỉ đồng,
giảm trên 600 triệu đồng, tương đương giảm 8,7% so với năm 2013. Dư nợ quá hạn tại
30/9/2015 giảm 5% so với cùng kì năm 2014.
22


Nguyên nhân do: giai đoạn từ 2012 trở về trước, cán bộ Ngân hàng thường không thực
hiện đủ các bước trong quy trình cho vay, đặc biệt là giám sát khách hàng sau vay hầu
hết bị bỏ qua. Dẫn đến việc khách hàng cố ý sử dụng vốn sai mục đích, không phù hợp
với chính sách tín dụng của Ngân hàng mà không bị phát hiện. Hay khách hàng sử
dụng vốn vay nhưng có dấu hiệu kinh doanh thua lỗ không hiệu quả nhưng vì thiếu sự
giám sát của cán bộ Ngân hàng mà khoản vay không được xử lý kịp thời, từ đó dẫn
đến nợ xấu cao. Những năm gần đây, việc giám sát sau vay được đặc biệt chú trọng,
cán bộ tín dụng đã trực tiếp đến cơ sở kiểm tra tình hình hoạt động kinh doanh và mục
đích sử dụng tiền vay đột xuất để nắm bắt tình hình qua đó xử lý kịp thời nhiều trường
hợp, nên nợ quá hạn và nợ xấu do thiếu giám sát giảm mạnh trong 2013 và 2014 và
quý 3/2015.
Rủi ro tín dụng từ cán bộ tín dụng của Ngân hàng:
Bảng 8: Rủi ro tín dụng xuất phát từ nguyên nhân cán bộ tín dụng:
Đơn vị: triệu VNĐ
Nguyên
nhân
Dư nợ quá
hạn

Năng lực
Đạo đức

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

30/9/2015

So sánh
2013/2012

So sánh
2014/2013

17.102,83

20.942,35

21.200,54

17.276,09

3.839,52

258,19

5.130,85


6.701,55

7.420,19

5.627,83

1.570,70

718,64

11.971,98

14.240,80

13.780,35

11.648,26

2.268,81

- 460,45

(Số liệu thống kê tại chi nhánh năm 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)
Biểu đồ 5: Nợ quá hạn do cán bộ tín dụng tại chi nhánh:
Rủi ro tín dụng từ nguyên nhân cán bộ
tín dụng tăng mạnh trong thời gian
2012-2013, tăng lên gần 3,8 tỉ đồng
trong năm 2013. Nguyên nhân là do đạo
đức cán bộ tín dụng làm tăng nợ quá hạn

lên đến trên 2,2 tỉ đồng. Năm 2012 tình
hình kinh tế không khả quan, thu nhập
của khách hàng cá nhân bị ảnh hưởng,
trong khi nhu cầu mua sắm liên tục tăng,
lợi nhuận của doanh nghiệp
bị giảm đi do hàng hóa khó tiêu thụ, phải dự phòng giảm giá hàng tồn kho lớn.
Nhu cầu vay vốn của khách hàng cao. Đạo đức của nhân viên Ngân hàng vô cùng quan
23


trọng. Cùng với chính sách tín dụng phân tán, tập trung quyền hạn vào một cán bộ và
đạo đức không cao, một nhân viên Ngân hàng có thể cấu kết với khách hàng cho vay
khi khách hàng tiềm ẩn nhiều nguy cơ xấu, dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng.
Năm 2014 tăng nhẹ hơn, chỉ tăng 258 triệu đồng so với năm 2013. Ngân hàng đã tập
trung vào việc tuyển dụng và đào tạo cán bộ kĩ lưỡng hơn cả về năng lực và đạo đức
nghề nghiệp. Có khả năng phát hiện những tiềm ẩn rủi ro và gian lận trong các báo cáo
tài chính như việc làm khống quy mô tài sản, tăng thu nhập hay giấu chi phí. Bồi
dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ nhằm tạo môi trường làm việc lành mạnh và
hiệu quả.
2.2.3. Rủi ro tín dụng theo nguyên nhân tài sản bảo đảm:
Bảng 9: Rủi ro tín dụng xuất phát từ nguyên nhân Tài sản bảo đảm:
Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Dư nợ quá
hạn

Năm 2012

Năm 2013


Năm 2014

30/9/2015

19.598,36

24.998,03

24.447,47

18.972,86

So sánh

So sánh

2013/2012

2014/2013

5.399,67

- 550,56

(Số liệu thống kê tại chi nhánh năm 2012, 2013, 2014, 30/9/2015)
Dư nợ quá hạn xuất phát từ nguyên nhân tài sản đảm bảo tăng mạnh trong năm 2013,
mưc tăng lên tới 5,4 tỉ đồng tương đương với 27,55%. Đến năm 2014 mức dư nợ quá
hạn do tài sản bảo đảm được giảm đi hơn 550 triệu đồng chỉ còn khoảng 24,5 tỉ đồng.
Giá trị NQH tại 30/9/2015 do TSĐB giảm 4% so với cùng kì năm 2014.
Nguyên nhân là do cán bộ Ngân hàng trong quá trình thẩm định khách hàng đã quá đề

cao giá trị của TSĐB mà chủ quan xem nhẹ việc thẩm định phương án sử dụng vốn
của khách hàng. Khi TSĐB bị biến động về giá cả hay tranh chấp pháp lý, việc xử lý
nợ quá hạn của Ngân hàng rất bị động và khó thực hiện. Một lý do khác nữa là TSĐB
của Ngân hàng chủ yếu là bất động sản, có tính thanh khoản thấp, khó xử lý ngay khi
khoản vay gặp vấn đề và giá trị thường xuyên biến động.
Điển hình như trường hợp của ông Hoàng Ngọc Quý, thế chấp căn nhà có giá trị
khoảng 9 tỉ đồng theo đánh giá của cán bộ tín dụng chỉ để vay 5 tỉ kinh doanh làm sản
phẩm long nhãn. Căn nhà này có giá trị lớn hơn nhiều so với khoản vay nhưng lại nằm
ở làng quê nghèo tại xã Phương Xá-Thanh Ba. Cán bộ tín dụng chủ quan khi đánh giá
cao giá trị của ngôi nhà mà bỏ qua tính khả thi của phương án và tính thanh khoản của
24


tài sản bảo đảm này. Khi xảy ra sự cố, ngôi nhà không bán được cho người dân xung
quanh vì có giá trị quá cao, Ngân hàng gặp rủi ro không thu hồi được vốn.
2.2.4. Rủi ro tín dụng theo nguyên nhân bên ngoài:
Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến tình hình rủi ro tín dụng nhưng lại rất khó để đo
lường mức độ ảnh hưởng chính xác đến chi nhánh.
Tình hình kinh tế thường xuyên biến động và pháp luật chưa hoàn thiện, chặt chẽ, còn
nhiều kẽ hở là nhân tố gây ra rủi ro cho ngân hàng trong quá trình cho vay khách hàng.
Tại địa bàn hoạt động của chi nhánh có rất nhiều công ty may xuất khẩu, việc gia nhập
TPP có nhiều cạnh tranh khốc liệt, với nguồn nguyên liệu chủ yếu từ Trung Quốc như
hiện nay khó mà cạnh tranh được với các đối thủ khi không được ưu đãi về thuế, việc
kinh doanh có thể gặp khó khăn, dư nợ của họ tại chi nhánh sẽ có nhiều rủi ro.
Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của khách hàng tại địa phương là nông nghiệp, phụ
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, một tác động xấu của thời tiết sẽ có ảnh hưởng lớn
đến hiệu quả nuôi trồng, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cua khách hàng.
Nhận xét về rủi ro tín dụng tại chi nhánh theo nguyên nhân: Từ các phân tích trên ta
nhận thấy, rủi ro tín dụng chủ yếu tại chi nhánh xuất phát từ năng lực tài chính của
khách hàng và năng lực thẩm định, giám sát của Ngân hàng cũng như đạo đức của cán

bộ tín dụng. Năng lực tài chính của khách hàng nhờ tác động tích cực của sự phục hồi
kinh tế và các chính sách có lợi đã được cải thiện đáng kể. Công tác giám sát sau cho
vay cũng được chú trọng và cải thiện, Ngân hàng cần quan tâm sâu hơn nữa trong
bước thẩm định tín dụng và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ cho vay để từ đó giảm
thiểu rủi ro tín dụng từ các nguyên nhân chủ quan có thể khắc phục được.

25


×