LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan: Chuyên đề tốt nghiệp “Thực trạng và giải pháp nâng cao
hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ qua nghiệp vụ thị trường mở của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam” là công trình nghiên cứu riêng của em.
Các số liệu trong chuyên đề được sử dụng trung thực. Các số liệu có nguồn
trích dẫn, kết quả trong chuyên đề là trung thực và chưa từng công bố trong các
công trình nghiên cứu khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2016
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Trọng Thắng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
các thầy giáo, cô giáo trường Học viện Ngân hàng trong suốt quá trình học tập tại
trường khóa LTĐH 12 đã giúp em có được những kiến thức về chuyên ngành học
của mình.
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Cơ chế tác động của NVTTM tới dự trữ ngân hàng...............................16
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của NVTTM qua lãi suất...............................................18
Sơ đồ 2.1. Tổ chức nghiệp vụ thị trường mở.............................................................29
BẢNG
Bảng 2.1. Danh mục giấy tờ có giá.................Error: Reference source not found
Bảng 2.2. Số lượng thành viên tham gia NVTTM............................................... 34
Bảng 2.3. Số lượng các phiên giao dịch NVTTM................................................ 35
Bảng 2.4. Phương thức đấu thầu trên TTM........................................................ 35
Bảng 2.5. Số lượng các phiên giao dịch và định kì giao dịch trên TTM............36
Bảng 2.6. Doanh số giao dịch trên NVTTM qua các năm 2011 - 2015..............37
Bảng 2.7. Lãi suất trúng thầu trên NVTTM từ 2011 - 2015.............................. 39
BIỂU
Biểu đồ 2.1. Phương thức đấu thầu trên thị trường mở giai đoạn 2011-2015...36
Biểu đồ 2.2. Doanh số giao dịch trên NVTTM qua các năm 2011 - 2015..........38
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Nguyên nghĩa
AD
Tổng cầu của nền kinh tế
CPI
Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK
Chính sách tài khoá
CSTT
Chính sách tiền tệ
DTBB
Dự trữ bắt buộc
GDP
Tống sản phẩm quốc dân
GNP
Tổng sản phẩm quốc nội
GTCG
Giấy tờ có giá
HTXTD
Hợp tác xã tín dụng
KBNN
Kho bạc nhà nước
M1, M2, M3
Lượng tiền cung ứng M1, M2, M3
NHLD
NHNN
NHTM
NHTW
Ngân hàng liên doanh
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng trung ương
NVTTM
Nghiệp vụ thị trường mở
QTDND
Quỹ tín dụng nhân dân
SWAP
Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ
TCTD
Tổ chức tín dụng
TPCP
Trái phiếu Chính phủ
TTTT
Thị trường tiền tệ
USD
Đồng đô la Mỹ
VND
Đồng Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng
trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ sử dụng
một tập hợp các công cụ như công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ của nền
kinh tế nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế và duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý. Trong các công cụ, ở các nước
có nền kinh tế thị trường, nghiệp vụ thị trường mở được coi là quan trọng nhất.
Với mục tiêu theo đuổi mức tăng trưởng cao, bền vững, đồng thời phải bảo
đảm được giá trị đồng nội tệ. Nghiệp vụ thị trường mở đã được Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chính thức hoạt động vào ngày 12/7/2000. Gần 15 năm hoạt động,
nghiệp vụ thị trường mở đã thể hiện được vai trò là công cụ điều tiết, kiểm soát
cung tiền cho nền kinh tế, đảm bảo thực hiện mục tiêu Chính sách tiền tệ trong từng
thời kỳ. Tuy nhiên, cũng như các công cụ chính sách tiền tệ khác của Ngân hàng
Nhà nước, nghiệp vụ thị trường mở vẫn còn những hạn chế nhất định về số lượng
các tổ chức tín dụng, khối lượng giao dịch, hàng hoá giao dịch, các quy định về quy
trình, xử lý thông tin còn chưa hoàn thiện... Điều này cho thấy, việc sử dụng công
cụ nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam có hiệu quả chưa cao. Từ thực tiễn đó, em
đã chọn đề tài:
" Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền
tệ qua nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ".
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về hiệu quả (hiệu lực) hoạt động nghiệp
vụ thị trường mở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả (hiệu lực) hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả (hiệu lực) hoạt động nghiệp
vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiệp vụ thị trường mở, thực trạng hoạt động của
1
nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiệp vụ thị trường mở, hoạt động của nghiệp vụ
thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam từ năm 2011 đến 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện chuyên đề, các phương pháp nghiên cứu đã được
sử dụng là phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh ... Ngoài ra, trong luận văn còn
sử dụng một số biểu, bảng để minh hoạ.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động thị trường mở
của Ngân hàng Trung ương.
- Phân tích và cụ thể hoá mối quan hệ của hoạt động thị trường mở với các
hoạt động khác của Ngân hàng Trung ương. Do đó, khẳng định vai trò của hoạt
động thị trường mở đối với hoạt động quản lý tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
- Phân tích một cách có hệ thống và khoa học thực trạng hoạt động nghiệp
vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua trên cơ sở có sự
kết hợp giữa phân tích định tính và định lượng, tìm ra những nguyên nhân cơ bản
giải thích cho những hạn chế tác động đến hiệu lực của hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Trên cơ sở xu hướng hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói
chung và hoạt động nghiệp vụ thị trường mở nói riêng, lựa chọn những mục tiêu cụ
thể cho việc đổi mới hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam trong những năm tiếp theo.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan hữu quan hỗ trợ và tạo điều kiện
để có thể áp dụng và thực hiện thành công các giải pháp đổi mới hoạt động nghiệp
vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
6. Tên và kết cấu của chuyên đề:
Tên chuyên đề: "Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành
2
chính sách tiền tệ qua nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam".
Kết cấu:
- Phần mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận về nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở trong điều
hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu lực hoạt động nghiệp vụ thị trường
mở trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
Các quốc gia khác nhau tồn tại, phát triển và theo đuổi những mục đích
khác nhau. Mỗi mục đích theo đuổi, đi cùng nó là hàng loạt các chính sách nhằm
hướng tới. Thông qua việc điều hành các chính sách này để tác động đến các mục
tiêu kinh tế, xã hội. Với mục tiêu kinh tế xác định, chính sách tiền tệ là một trong
những chính sách đó.
1.1.1. Khái quát về chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận trong tổng thể chính sách kinh tế
- xã hội, một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ, do Ngân hàng Trung
ương (NHTW) thực thi, nhằm tới các mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, ổn định thị
trường tài chính, ổn định và tăng trưởng kinh tế. CSTT thực hiện quá trình kiểm
soát tiền tệ, điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng thêm cho nền kinh tế trong một
thời gian nhất định và điều chỉnh cả khối lượng tiền có sẵn trong lưu thông. Chính
sách tiền tệ mở rộng sẽ tăng cung ứng tiền trên thị trường tiền tệ, khuyến khích đầu
tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm, chống suy thoái kinh tế. Ngược lại,
chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ giảm cung ứng tiền trên thị trường tiền tệ, hạn chế đầu
tư, hạn chế sự phát triển quá đà của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
“ CSTT là một chính sách kinh tế vĩ mô trong đó NHTW sử dụng các công
cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế nhằm
đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và
duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý.” «3»
CSTT theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền cung
ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm
phát (nếu có) nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô. Dù quan niệm CSTT theo nghĩa nào, CSTT đều nhằm mục tiêu ổn
định giá trị tiền tệ, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế.
1.1.2. Mục tiêu và các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
trung ương
4
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn và điều kiện thực
tiễn của nền kinh tế, NHTW sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết
lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu xác định. Việc sử dụng công cụ
nào của CSTT hoàn toàn phụ thuộc vào những mục tiêu khác nhau.
1.1.2.1. Các mục tiêu
Có nhiều mục tiêu đề ra khi thực hiện chính sách tiền tệ. Các mục tiêu đó
về cơ bản bao gồm mục tiêu cuối cùng và mục tiêu điều hành.
a. Mục tiêu tổng quát (mục tiêu cuối cùng)
Mục tiêu CSTT hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng tiền
cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần
tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ mô trên, một số
nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế phát
triển đặc thù quốc gia. Điều này buộc NHTW phải có sự lựa chọn và ưu tiên cho
những mục tiêu quan trọng trong từng thời kỳ mặc dù mục tiêu ổn định giá cả luôn
là mục tiêu dài hạn của NHTW.
b. Mục tiêu điều hành
Các mục tiêu chính sách trên chỉ là mục tiêu cuối cùng mà các CSTT nhắm
tới. Đây là các mục tiêu mang tính định tính nên để tạo điều kiện thuận lợi trong
quá trình điều hành CSTT, các NHTW đều xây dựng hệ thống mục tiêu điều hành
mang tính định lượng cụ thể hơn.
Mục tiêu điều hành là các biến số tiền tệ có tác động mạnh theo một chiều
nhất định đến mục tiêu cuối cùng (mục tiêu chính sách) của CSTT. NHTW các
nước đều lựa chọn các mục tiêu điều hành của CSTT. Mục tiêu điều hành của
CSTT bao gồm mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.
- Mục tiêu trung gian
NHTW không thể sử dụng các công cụ CSTT tác động trực tiếp và ngay lập
tức đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. Ảnh hướng của CSTT chỉ xuất hiện
sau một thời gian nhất định. Để khắc phục hạn chế này, NHTW của tất cả các nước
thường xác định các chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng.
Tiêu chuẩn của chỉ tiêu trung gian: (1) Có thể đo lường được một cách
chính xác và nhanh chóng, bởi vì các chỉ tiêu này chỉ có ích khi nó phản ánh được
tình trạng của CSTT nhanh hơn mục tiêu cuối cùng; (2) Có thể kiểm soát được để
5
có thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của CSTT; (3) Có mối
liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng.
Cả tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn trên,
nhưng NHTW không thể chọn cả hai chỉ tiêu trên làm mục tiêu trung gian mà chỉ có
thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó.
- Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh
của công cụ CSTT đồng thời có mối quan hệ chi phối tới các mục tiêu trung gian.
Việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thích hợp làm mục tiêu hoạt động có ý nghĩa quan
trọng quyết định hiệu quả tác động của CSTT. Hệ thống chỉ tiêu này vừa đóng vai
trò phản ánh tình trạng CSTT đồng thời phản ánh dấu hiệu về định hướng CSTT
của NHTW.
Các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu làm mục tiêu hoạt động cũng tương tự như
tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian, bao gồm: (1) Phải đo lường được nhằm
tránh những suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu của CSTT; (2) Phải có
mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của CSTT; (3) Phải có mối quan
hệ chặt chẽ và ổn định với mục tiêu trung gian được lựa chọn. Căn cứ vào tiêu
chuẩn trên, các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động của NHTW
bao gồm: lãi suất liên ngân hàng và dự trữ ngân hàng.
1.1.2.2. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương.
Hệ thống các công cụ CSTT được chia thành các công cụ trực tiếp và các
công cụ gián tiếp.
a, Công cụ trực tiếp:
- Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp trực tiếp của
NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng
cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo tính tăng trưởng của tổng phương tiện thanh toán
theo mục tiêu đề ra.
Hạn mức tín dụng là hạn mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các ngân hàng
phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Ưu điểm của công cụ này là có thể
khống chế và lượng hoá mức tín dụng trong nền kinh tế một cách khá chính xác, từ
đó có thể tính toán và đưa ra quyết định chuẩn xác trong việc kiểm soát lượng tiền
6
cung ứng và tạo điều kiện tốt cho việc thực hiện CSTT.
- Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng ngoại
tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung - cầu
ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh
doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và hết sức mạnh mẽ đến sản
xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc
tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Công cụ tỷ giá hối đoái sử dụng một loạt
các phương pháp điều hành tỷ giá: chính sách hối đoái; quỹ dự trữ bình quân hối
đoái; phá giá tiền tệ; nâng giá tiền tệ; chính sách lãi suất chiết khấu. Do có nhiều
nhược điểm cho nên các nước phát triển ngày nay thường theo đuổi một chính sách
tỷ giá thả nổi. Đó là việc tỷ giá được phản ảnh theo biến động của thị trường và
hoàn toàn khách quan. Tuy nhiên, việc thả nổi hoàn toàn tỷ giá nhiều khi gây khó
khăn trong việc điều hành CSTT. Vì vậy, theo đuổi chế độ tỷ giá nào là dựa trên
thực trạng kinh tế mỗi nước và hoàn cảnh quốc tế trong từng giai đoạn.
- Công cụ lãi suất
Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính
sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị
trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Cơ chế này được thực hiện
theo nguyên tắc: trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi
suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng
từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho
vay cụ thể theo từng kỳ hạn.
b, Công cụ gián tiếp:
- Công cụ chính sách tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi
cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng,
mặt khác, tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực
thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác
7
nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn được thực
hiện dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc gia này, công cụ này
được gọi là tái chiết khấu. Với công cụ này NHTW sẽ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất
tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ
là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông.
Khi NHTW thấy rằng cần tăng thêm tiền cho lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái
cấp vốn xuống. Điều này sẽ khuyến khích các NHTM đến NHTW để vay vì giá cả
tín dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại, khi
NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên.
Công cụ này thường được ưu tiên sử dụng khi NHTW đang theo đuổi một
CSTT mở rộng nhằm bổ sung thêm tiền cho phát triển kinh tế một cách nhanh
chóng, và đây cũng chính là ưu điểm của công cụ này. Do đó, công cụ này cũng có
những nhược điểm của nó, đó chính là việc cấp vốn một cách thiếu công bằng hay
thậm chí một cách quá dễ dãi trong khi theo đuổi mục tiêu CSTT mở rộng. Đương
nhiên, các Ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN) và các NHTM, tổ chức tín
dụng (TCTD) có quan hệ thân thiết nhất sẽ là những đối tượng được ưu tiên đầu
tiên, điều này tạo ra sự lệch lạc về lãi suất, và gây nhiều hiệu ứng bất cập khác.
- Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ
có giá (GTCG) chủ yếu là ngắn hạn (như Tín phiếu kho bạc, Trái phiếu kho bạc,
Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung cầu
về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM, từ đó tác động
đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối
lượng tiền tệ, cụ thể: bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có
thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền
tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh
khoản của các ngân hàng thương mại.
NVTTM là một trong những kênh vô cùng quan trọng để NHTW đưa tiền
vào lưu thông hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về qua nghiệp vụ mua hay bán các
GTCG. Qua nghiệp vụ này NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các NHTM, tác
động đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này và từ đó làm tăng hay giảm
8
lượng tiền cung ứng. Bên cạnh đó, NVTTM còn có tác động qua lãi suất, đó là ảnh
hưởng gián tiếp. Một mặt, NVTTM tác động trực tiếp tới giá của GTCG giao dich,
điều này làm thay đổi lợi tức của chúng; mặt khác, NVTTM làm thay đổi cung cầu
vốn của NHTW, và điều này cũng làm lãi suất thay đổi.
Ưu điểm của NVTTM là sự linh hoạt và rất tiện lợi, nó có thể điều tiết một
lượng tiền lớn hay nhỏ tuỳ ý, hoàn toàn tôn trọng các quy luật giá cả. Bên cạnh đó,
NVTTM rất dễ đảo lộn, một quyết định không hợp lý có thể được sửa sai tức thì
thông qua việc mua, bán GTCG có thể ngay trong ngày. Tuy nhiên, nó cũng có
những nhược điểm của nó, đó là do NVTTM hoạt động theo quy luật thị trường cho
nên không thể áp đặt các quy định hành chính trong việc mua bán GTCG vì mục
tiêu của CSTT. Không mang tính ép buộc cho nên NVTTM chỉ tồn tại, phát triển
khi các đối tác tìm thấy được lợi ích từ việc tham gia NVTTM.
- Công cụ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các Ngân hàng Thương Mại phải duy trì trên
một tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Trung Ương. Mức dự trữ bắt buộc phụ thuộc
vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc và số dư tiền gửi huy động của Ngân hàng Thương Mại.
Thông qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động đến khối lượng
và giá cả tín dụng của các ngân hàng thương mại từ đó tác động đến khả năng cung
ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM. Về số lượng: tăng hay giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay phong toả, cũng tức là thắt chặt hay
nới lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM. Về chi phí: giảm hay tăng dự trữ bắt
buộc (dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi, nếu có thì thường là rất thấp) sẽ làm
giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các NHTM. Tăng hay giảm số lượng tín dụng
kép: do tăng, giảm chi phí; tăng giảm lãi suất cho vay, dẫn đến giảm hoặc tăng dung
lượng tín dụng.
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) do NHTW quyết định tuỳ
thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế. Đây cũng là nhược điểm của công cụ
này. Vì mang tính hành chính bắt buộc, nên DTBB thường mang lại những phản
ứng phụ cho nền kinh tế, đó là các phản ứng tức thời của hệ thống ngân hàng
(HTNH) trong việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng.
1.2. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ TRONG ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG.
9
1.2.1 Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế phát triển áp dụng
từ những năm đầu của thế kỷ 20. Với những ưu điểm vượt trội, cho đến nay, nó đã
trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hòa lưu thông tiền tệ tại nhiều quốc
gia.
1.2.1.1 Khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở.
“ Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation - NVTTM) là nghiệp
vụ Ngân hàng Trung Ương (NHTW) thực hiện việc mua vào hoặc bán ra các giấy
tờ có giá nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung
ứng và lãi suất ngắn hạn.”
1.2.1.2. Hàng hoá và chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở
1.2.1.2.1 Hàng hóa giao dịch.
a, Tín phiếu ngân hàng nhà nước:
Tín phiếu ngân hàng nhà nước là một loại giấy tờ có giá với thời hạn ngắn
(dưới 1 năm) do ngân hàng nhà nước phát hành nhằm mục đích huy động vốn nhàn
rồi trong nhân dân với hai mục đích cơ bản. Thứ nhất là huy động được nguồn vốn
lớn nhàn rổi trong nhân dân để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia. Thứ
hai là rút bớt các lượng tiền tệ lưu thông trong thị trường kiềm chế lạm phát nhằm
bình ổn giá trị đồng tiền nội tệ.
Người mua tín phiếu ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ, sau khi đến kỳ hạn
người người mua sẽ được hoàn trả lại cả vốn và lãi và được bảo đảm quyền lợi theo
quy định của pháp luật ngân hàng.
b, Trái phiếu chính phủ:
Là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm
hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.
Trái phiếu chính phủ bao gồm: Tín phiếu Kho bạc; Trái phiếu Kho bạc; Trái phiếu
công trình Trung ương; Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu Chính phủ do
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ Hỗ trợ phát triển) được Thủ
tướng Chính phủ chỉ định phát hành.
c, Trái phiếu chính quyền địa phương
Thường do chính quyền địa phương lớn phát hành trái phiếu nhằm mục
đích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương
10
theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; Đầu tư vào các dự án có khả năng
hoàn vốn tại địa phương.
d, Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh
Do Chính phủ phát hành nhằm mục đích đầu tư cho các chương trình, dự án
được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư, bao gồm
cả phương án tái cơ cấu nợ của các chương trình dự án; Chương trình, dự án ứng
dụng công nghệ cao, dự án trong lĩnh vực năng lượng, khai thác, chế biến khoáng
sản hoặc sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ
quyết định phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chương
trình tín dụng có mục tiêu của nhà nước do Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân
hàng Chính sách Xã hội hoặc tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện theo quyết định
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
e, Các loại giấy tờ có giá khác:
- Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các định chế tài
chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng
trong một thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước.
Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn (cũng có trường hợp
thời hạn lên tới 3-5 năm). Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn
bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài
sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì
phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là đảm
bảo cho sức sống của nó, và do đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho
nghiệp vụ thị trường mở.
- Thương phiếu
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất
định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu
cầu vốn ngắn hạn.
Luật và pháp lệnh thương phiếu ở các nước đảm bảo tính chất an toàn cho
công cụ này bằng các quy định về điều kiện được phép phát hành thương phiếu.
Vì vậy, việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự
11
trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM.
1.2.1.2.2 Các chủ thể tham gia thị trường mở
Về nguyên tắc. Ai cũng có thể là đối tác tham gia NVTTM của NHTW.
Chính vì vây, ở Hoa Kỳ người ta gọi công cụ này là nghiệp vụ thị trường tự do. Tuy
nhiên, tuỳ từng quốc gia mà các chủ thể tham gia NVTTM có thể khác nhau. Thông
thường các chủ thể tham gia NVTTM gồm:
a. Ngân hàng trung ương
Ngân hàng Trung ương tham gia NVTTM với tư cách là người tổ chức,
điều hành đồng thời là người mua hoặc người bán trên thị trường.
Nếu NHTW quyết định tham gia thị trường với tư cách là người mua thì tất
cả các chủ thể còn lại muốn tham gia chỉ được tham gia với tư cách là người bán và
ngược lại. NHTW cũng là người có quyền quyết định chủng loại hàng hóa mua bán,
khối lượng hàng hoá mua bán, phương thức giao dịch, thời gian tiến hành mua bán,
phương thức thanh toán,... trong từng phiên giao dịch mà tất cả các chủ thể khác
phải thực hiện nếu muốn tham gia.
b. Các đối tác của ngân hàng trung ương
- Các ngân hàng thương mại
Đối với tất cả các nước có sử dụng NVTTM, NHTM là một chủ thể quan
trọng nhất tham gia giao dịch với NHTW và thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu
các thành viên tham gia.
NHTM là trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của bất kỳ một nền kinh
tế nào. Thông qua giao dịch với NHTW, NHTM có thể tìm kiếm được lợi nhuận
cũng như có thể đáp ứng được nhu cầu thanh toán của mình. Về phía NHTW, thông
qua các giao dịch với hệ thống NHTM để nhằm điều tiết lượng tiền cung ứng.
- Các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng
Các công ty tài chính thường có khối lượng lớn các chứng khoán và họ lại
thường xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao
nhất và gánh chịu rủi ro thấp nhất.
- Các hãng kinh doanh
Chủ thể này thường nắm trong tay một khối lượng giấy tờ báo giá như:
thương phiếu, tín phiếu Ngân hàng nhà nước, trái phiếu chính phủ,... Họ tham gia
mua bán với NHTW để tìm kiếm lợi nhuận hoặc để đáp ứng nhu cầu vốn của họ.
12
- Các cá nhân và hộ gia đình
Chủ thể này thường nắm giữ một khối lượng chứng khoán để hưởng lãi.
Tuy nhiên, do dự đoán có sự thay đổi về lãi suất hoặc nhằm phòng tránh rủi ro hoặc
chuyển đổi cơ cấu đầu tư chứng khoán,.... họ có thể giao dịch với NHTW.
- Các nhà giao dịch chuyên nghiệp
Các nhà giao dịch chuyên nghiệp (Dealers) tham gia NVTTM với tư cách là
người trung gian giữa NHTW với các chủ thể khác là chủ yếu, thông qua đó họ sẽ
được hưởng lệ phí giao dịch. Các Dealer thường là các công ty chứng khoán.
1.2.1.3. Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
1.2.1.3.1 Các nghiệp vụ thị trường mở
a. Nghiệp vụ giao dịch chứng từ có giá
- Giao dịch không hoàn lại (mua bán hẳn):
Giao dịch không hoàn lại (mua bán hẳn) là các giao dịch mua bán GTCG
của NHTW theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Theo
phương thức này, quyền sở hữu của GTCG là đối tượng giao dịch được chuyển
sang cho NHTW hoặc ngược lại cho các thành viên tham gia giao dịch. Do vậy tác
động của giao dịch này đối với dự trữ ngân hàng thường là dài hạn.
- Giao dịch có hoàn lại ( mua bán có kì hạn):
Phương thức giao dịch này thường được sử dụng cho biện pháp giao dịch
tạm thời thông qua các hợp đồng mua lại (Repos) hoặc hợp đồng mua lại đảo ngược
(Reverse Repos).
Repos được sử dụng khi NHTW thực hiện mua GTCG với thoả thuận là sau
thời gian ngắn trong tương lai người bán sẽ mua lại các GTCG đó.
b. Phát hành chứng chỉ nợ của NHTW
NHTW sử dụng việc phát hành chứng chỉ nợ của NHTW để thực hiện giao
dịch bên cạnh việc giao dịch các loại GTCG khác. Công thức được thiết lập như
sau:
FV
P=
1+
ixT
365
13
Trong đó, P: giá phát hành; FV: mệnh giá; i: lãi suất (% năm); T: thời hạn
của chứng chỉ nợ.
Qua việc phát hành này, NHTW có thể điều chỉnh lượng tiền cung ứng đang
dư thừa trong nền kinh tế trong các tình huống các GTCG khác được thực hiện giao
dịch nhưng chưa phát huy hết tác dụng. Các chứng chỉ nợ được phát hành dưới hình
thức chiết khấu. Chênh lệch giữa giá phát hành và mệnh giá là lãi suất phát sinh trên
giá phát hành, lãi suất áp dụng đối với chứng chỉ nợ là lãi suất đơn, tính theo ngày
thực tế với số ngày trong năm là 365 ngày.
c. Giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Tương tự như giao dịch có hoàn lại, giao dịch hoán đổi ngoại tệ bao gồm hai
giao dịch đồng thời là giao dịch giao ngay và giao dịch có kỳ hạn giữa đồng nội tệ
và đồng ngoại tệ được chọn để giao dịch. Bằng cách đó, NHTW có thể ảnh hưởng
đến lượng tiền cung ứng trong khoảng thời gian cần thiết tùy thuộc vào thời hạn
hợp đồng kỳ hạn. Theo nguyên tắc của nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ trên thị trường
ngoại hối, trong mỗi giao dịch hoán đổi ngoại tệ, NHTW và các đối tác thỏa thuận
các điểm swap để xác định tỷ giá có kỳ hạn từ tỷ giá giao ngay.
d. Giao dịch hoán đổi chứng khoán đến hạn
Giao dịch hoán đổi chứng khoán đến hạn được thực hiện khi NHTW hoán
đổi các chứng khoán chính phủ do NHTW sở hữu đã đến hạn, những chứng khoán
Chính phủ mới phát hành. Nếu giá trị các chứng khoán Chính phủ đến hạn lớn hơn
giá trị các chứng khoán mới thay thế thì dự trữ của hệ thống NHTW giảm xuống
khi giá trị các chứng khoán mới thay thế lớn hơn lượng chứng khoán đến hạn.
1.2.1.3.2 Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.
Hoạt động của NVTTM thường được thực hiện thông qua phương thức
giao dịch song phương hoặc thông qua đấu thầu.
a. Giao dịch song phương
Là giao dịch được thực hiện trực tiếp giữa NHTW với một hoặc một số đối
tác được NHTW lựa chọn mà không qua đấu thầu. Các giao dịch này thường không
được thông báo trước ra công chúng về loại hàng hoá mua bán, về số lượng mua
bán cũng như thời gian thực hiện giao dịch.
Giao dịch song phương có thể được thực hiện theo hai phương pháp:
+ NHTW giao dịch trực tiếp với đối tác được lựa chọn
14
+ NHTW đóng vai trò như những thành viên tham gia trên thị trường chứng
khoán để thực hiện các giao dịch trực tiếp trên thị trường này.
b. Giao dịch theo phương thức đấu thầu
Có 2 phương thức đấu thầu là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất:
- Đấu thầu khối lượng
NHTW niêm yết trước mức lãi suất. Các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ việc
đăng ký số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất niêm yết. Việc phân bổ thầu được
tiến hành thực hiện như sau: trước hết toàn bộ số lượng đăng ký dự thầu cộng lại
với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng số lượng được phân
phối thì toàn bộ các đơn dự thầu đều được phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu
tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn số lượng được phân phối thì các đơn đặt thầu sẽ
được phân phối theo hệ số quy định
- Đấu thầu lãi suất
Các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền ứng với mỗi mức lãi suất
do tự mình lựa chọn.
Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các số lượng đặt thầu
được sắp xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần, và được phân phối theo các mức
lãi suất từ cao xuống thấp.
Gọi:
A : Số lượng GTCG cần mua
r s : Mức lãi suất thứ s được đăng ký
a(rs)i: Số lượng tiền đặt thầu với mức lãi suất rs của thành viên thứ i
A(rs): Tổng số tiền đặt thầu với mức lãi suất rs của tất cả các tổ chức
rm : Mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
K(rm): Tỷ lệ % trúng thầu được phân phối tại mức lãi suất cuối cùng
T(rm)i: Khối lượng trúng thầu của tổ chức i tại mức lãi suất cuối cùng
Ti: Tổng số trúng thầu được phân phối cho tổ chức i
Đối với đấu thầu để cung ứng khả năng thanh toán thì: r1 ≥ rs≥ rm
Tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng:
m −1
A K(rm)
∑A(rs )
s =1
=
A(rm)
Số lượng trúng thầu được phân phối cho tổ chức i tại mức lãi suất rm:
15
T(rm)i = K(rm) * a(rm)i
Tổng số trúng thầu được phân phối cho tổ chức i là:
m −1
Ti =
∑ a(rs ) i + T(rm)i
s =1
Đối với đấu thầu để thu hút dự trữ về (tức NHTW thực hiện nghiệp vụ bán)
thì các quy trình diễn ra theo chiều hướng ngược lại.
Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo kiểu Hoa
Kỳ và đấu thầu theo kiểu Hà Lan. Theo phương thức của Hoa Kỳ, lãi suất trúng
thầu là tất cả các mức lãi suất đăng ký từ cao đến thấp (trường hợp NHTW mua
GTCG) hoặc là tất cả các mức lãi suất từ thấp đến cao (trường hợp NHTW bán
GTCG) mà tại đó quyết định được khối lượng trúng thầu không vượt quá khối
lượng GTCG mà NHTW cần mua hoặc cần bán. Theo phương thức Hà Lan, tất cả
lượng đặt thầu được xác định tại mức lãi suất đăng ký thấp nhất (trường hợp NHTW
mua GTCG) hoặc là lãi suất đăng ký cao nhất (trường hợp NHTW bán GTCG) mà
tại đó quyết định được khối lượng trúng thầu không vượt quá khối lượng GTCG mà
NHTW cần mua hoặc cần bán.
1.2.2 Cơ chế tác động nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền
tệ.
- Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng:
Việc mua, bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác
động ngay lập tức đến dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của
các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là các đối tác tham gia NVTTM) và tiền
gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác).
Sơ đồ 1.1: Cơ chế tác động của NVTTM tới dự trữ ngân hàng
NHTW
bán
(mua)
GTCG
Dự trữ
NH
giảm
(tăng)
Dự trữ
để mở
rộng
cho
vay
giảm
(tăng)
Khối
lượng
tín
dụng
giảm
(tăng)
Lượng
tiền
cung
ứng
giảm
(tăng)
Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân
16
hàng tại NHTW sẽ giảm tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra,
trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ
làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ
thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự
giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân
hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi
NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân
hàng tăng lên.
Tác động này có thể xem xét qua công thức sau:
MB = C + R
M = m x MB
Trong đó:
M: Lượng tiền cung ứng
MB: Cơ số tiền tệ
C: Đồng tiền lưu hành
R: Dự trữ trong hệ thống ngân hàng
m: Số nhân tiền
Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ mua, bán trên thị trường mở nó
sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng,
từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
- Tác động qua lãi suất:
Hoạt động mua, bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh
hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung
cầu vốn của NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu
tiền của NHTW thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền tệ thay đổi. Mức lãi
suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động hoán đổi
lãi suất sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài
chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu (AD) của nền kinh tế
và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.
17
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của NVTTM qua lãi suất
Cung
GTCG tăng
(giảm)
Giá GTCG
giảm (tăng)
Lãi suất thị
trường tăng
(giảm)
NHTW bán
(mua)
GTCG
Dự trữ NH
giảm (tăng)
Đầu tư
giảm (tăng)
Cung của
quỹ c/vay
giảm (tăng)
Lãi suất
ngắn hạn
tăng (giảm)
Lãi suất thị
trường tăng
(giảm)
Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung
cầu về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá GTCG thay đổi, tỷ lệ
sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn
trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác
động trở lại lãi suất thị trường, AD và sản lượng.
Khi NHTW bán GTCG sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng. Điều
này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm lãi suất
ngắn hạn có xu thế tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị trường. Bên
cạnh đó khi NHTW thực hiện bán GTCG trên thị trường mở sẽ làm tăng cung
GTCG trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh
hưởng tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển
dịch vốn đầu tư sang GTCG. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn
đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động
đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm.
1.2.3 Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
Là một trong những công cụ của CSTT, NVTTM hoạt động cũng theo quy
luật thị trường, tức là tính chất tự nguyện và theo các nguyên tắc thị trường. Chính
vì lý do đó, NVTTM thực sự linh hoạt, sự vận hành của thị trường mở phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố xuất phát từ bản thân NHTW và từ các yếu tố khác tác động
18
đến nó; tức là muốn nói đến yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan tác động tới nó.
1.2.3.1 Nhân tố chủ quan
Sự vận hành của NVTTM với nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo nhu cầu vốn
khả dụng cho nền kinh tế nhằm hỗ trợ mục tiêu của CSTT quốc gia. Đứng trên giác
độ NHTW, các nhân tố nội tại thuộc NHTW có ảnh hưởng quan trọng khi vận hành
NVTTM đều được xếp vào nhân tố chủ quan, bao gồm: vấn đề dự báo vốn khả
dụng của NHTW và Các quy định về NVTTM.
1.2.3.1.1 Vấn đề dự báo vốn khả dụng của Ngân hàng trung ương
Với vai trò tổ chức, xây dựng và điều hành các hoạt động NVTTM, trên cơ
sở dự báo các diễn biến tiền tệ, tình hình vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng.
NHTW quyết định thời điểm, khối lượng chào mua/bán GTCG, thời hạn và phương
thức giao dịch NVTTM nhằm điều tiết thị trường tiền tệ theo mục tiêu đã xác định.
Khi dự báo vốn khả dụng dư thừa trong ngắn hạn, NHTW sẽ thực hiện các
phiên chào bán GTCG nhằm thu hút vốn khả dụng dư thừa của hệ thống ngân hàng,
tức là NHTW thực hiện "hút" tiền trong lưu thông về. Trường hợp dự báo vốn khả
dụng thiếu hụt thì NHTW sẽ thực hiện việc chào mua GTCG để cung ứng vốn cho
hệ thông ngân hàng, nói cách khác, NHTW thực hiện việc "bơm" tiền vào lưu
thông. Vì vậy, việc quyết định giao dịch NVTTM phụ thuộc rất nhiều vào độ chính
xác của việc dự báo vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng. Nếu dự báo sai hoặc
ngược chiều thì doanh số giao dịch NVTTM sẽ rất thấp hoặc không có đối tác nào
tham gia giao dịch NVTTM.
1.2.3.1.2 Quy định về nghiệp vụ thị trường mở
Hầu hết nghiệp vụ thị trường mở ở tất cả các nước đều rất đa dạng về hình
thức giao dịch, hàng hoá giao dịch, tần suất giao dịch, đối tác giao dịch, kỳ hạn giao
dịch trừ một số quốc gia mới đưa vào vận hành.
Hiện nay, NVTTM thường được NHTW thực hiện dưới các hình thức chủ
yếu: NHTW mua hẳn hoặc bán hẳn GTCG, NHTW mua hoặc bán có kỳ hạn các
GTCG, NHTW phát hành tín phiếu, cầm cố các chứng chỉ tiền gửi, cho vay không
có bảo đảm hoặc hoán đổi ngoại tệ. Việc quyết định sử dụng các hình thức nào phụ
thuộc vào thực tế diến biến thị trường, sự phát triển của NHTW và hệ thống ngân
hàng tài chính.
Một quy định nữa của NHTW cũng tác động đến sự vận hành NVTTM là
19
quy định về đối tác tham gia thị trường.
1.2.3.2 Nhân tố khách quan
Bên cạnh các yếu tố mang tính chủ quan thuộc về NHTW, các yếu tố khách
quan bên ngoài gây ảnh hưởng đến NVTTM bao gồm: tính chuyển đổi của đồng
tiền quốc gia và sự phát triển của thị trường tiền tệ quốc gia.
1.2.3.2.4 Tính chuyển đổi của đồng tiền quốc gia
Yếu tố tiếp theo có ảnh hưởng mạnh tới hiệu quả sử dụng NVTTM, đó là
sức mạnh của đồng tiền quốc gia đó. Tại các nước phát triển, nơi mà đồng nội tệ có
tính chuyển đổi cao, NVTTM được sử dụng rất hiệu quả. Một phần bắt nguồn từ
việc, khi thực hiện nghiệp vụ bán ra GTCG trên NVTTM, NHNN thu về một khối
lượng tiền tương ứng. Nếu đồng nội tệ nước đó có giá, tức có tính chuyển đổi cao,
khối lượng tiền đó sẽ được di chuyển sang các quốc gia khác đầu tư, tìm kiếm cơ
hội sinh lời.
1.2.3.2.5 Sự phát triển của thị trường tiền tệ quốc gia
Để tham gia thị trường mở, nhất là khi cần bổ sung nguồn vốn, các ngân
hàng phải nắm giữ một khối lượng hàng hoá nhất định cả về khối lượng và chủng
loại phù hợp với điều kiện và nhu cầu giao dịch của NHTW, từ đó các ngân hàng
mới có thể tham gia giao dịch NVTTM. Khi thực hiện giao dịch NVTTM, NHTW
thường yêu cầu sử dụng các GTCG có độ rủi ro rất thấp và tính thanh khoản cao.
Chính vì vậy, các GTCG do Bộ Tài chính hay chính NHTW phát hành thường được
NHTW ưu tiên chấp thuận. Các GTCG này thường được nắm giữ bởi các ngân
hàng có tiềm lực tài chính mạnh, quy mô lớn hoặc nguồn vốn dồi dào. Bên cạnh đó,
NHTW cũng chấp thuận các GTCG khác như: GTCG do chính phủ các nước phát
triển phát hành, GTCG do chính quyền địa phương phát hành hoặc GTCG do các tổ
chức tín dụng, tài chính có độ tin cậy cao phát hành. Chính vì vậy, danh mục GTCG
được chấp thuận sử dụng trong giao dịch NVTTM càng đa dạng thì các ngân hàng
càng có thêm sự lựa chọn trong cơ cấu đầu tư GTCG nhằm đảm bảo tính thanh
khoản và khả năng sinh lợi. Điều này xuất phát từ việc thị trường tiền tệ của nước
đó có phát triển hay không.
20