Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

KHẢ NĂNG kết hợp của PHÓ từ với vị từ TRONG TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.94 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
======

TRẦN THANH HUYỀN

KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA PHÓ TỪ VỚI VỊ
TỪ TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 40

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Kim Phượng

Hà Nội, 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Kim Phượng –
người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình tôi trong suốt quá trình hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong Hội đồng
khoa học bảo vệ luận văn đã góp ý, bổ sung cho luận văn được hoàn thiện.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong bộ môn
Ngôn ngữ, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lý Sau đại học –
trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã ủng hộ, động
viên, khích lệ để tôi hoàn thành luận văn.



Hà Nội, tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn

Trần Thanh Huyền

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Các tiền phó từ tiếng Việt

25

Bảng 2.2: Khả năng kết hợp của phó từ thời gian với vị từ hành động

27

Bảng 2.3: Khả năng kết hợp của phó từ tiếp diễn, đồng nhất với vị từ
hành động
Bảng 2.4: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với vị từ hành

động
Bảng 2.5: Khả năng kết hợp của phó từ khẳng định, phủ định với vị
từ hành động

29
30
31

Bảng 2.6: Khả năng kết hợp của phó từ tần số với vị từ hành động

33

Bảng 2.7: Khả năng kết hợp của phó từ mức độ với vị từ hành động

36

Bảng 2.8: Khả năng kết hợp của phó từ thời gian với vị từ quá trình
Bảng 2.9: Khả năng kết hợp của phó từ tiếp diễn đồng nhất với vị từ
quá trình
Bảng 2.10: Khả năng kết hợp của phó từ khẳng định/ phủ định với vị
từ quá trình

37
38
39

Bảng 2.11: Khả năng kết hợp của phó từ tần số với vị từ quá trình

40


Bảng 2.12: Khả năng kết hợp của phó từ mức độ với vị từ quá trình

41

Bảng 2.13: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với vị từ quá
trình

41

Bảng 2.14: Phân loại vị từ trạng thái

43

Bảng 2.15: Khả năng kết hợp của phó từ thời gian với vị từ trạng thái

44

Bảng 2.16: Khả năng kết hợp của phó từ tiếp diễn đồng nhất với vị từ
trạng thái

4

45


Bảng 2.17: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với các vị từ
trạng thái
Bảng 2.18: Khả năng kết hợp của phó từ mức độ với các vị từ trạng
thái
Bảng 2.19: Khả năng kết hợp của phó từ khẳng định hoặc phủ định

với các vị từ trạng thái
Bảng 2.20: Khả năng kết hợp của phó từ tần số với các vị từ trạng
thái
Bảng 2.21: Khả năng kết hợp của phó từ phối hợp với các vị từ trạng
thái
Bảng 2.22: Khả năng kết hợp của phó từ cách thức với các vị từ trạng
thái
Bảng 2.23: Khả năng kết hợp của phó từ tự lực với các vị từ trạng
thái
Bảng 2.24: Khả năng kết hợp của phó từ thời gian với vị từ tư thế
Bảng 2.25: Khả năng kết hợp của phó từ tiếp diễn đồng nhất với vị từ
tư thế
Bảng 2.26: Khả năng kết hợp của phó từ tần số với vị từ tư thế
Bảng 2.27: Khả năng kết hợp của phó từ khẳng định hoặc phủ định
với vị từ tư thế

46
47
48
48
49
50
51
52
53
53
54

Bảng 2.28: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với vị từ tư thế


55

Bảng 2.29: Khả năng kết hợp của phó từ tự lực với vị từ tư thế

56

Bảng 2.30: Khả năng kết hợp của phó từ phối hợp với vị từ tư thế

56

Bảng 2.31: Khả năng kết hợp của phó từ cách thức với vị từ tư thế

56

Bảng 2.32: Khả năng kết hợp của phó từ mức độ với vị từ tư thế
Bảng 2.33: Khả năng kết hợp của tiền phó từ tiếng Việt với 4 nhóm
vị từ.
5

57

57


Bảng 3.1: Các hậu phó từ tiếng Việt

60

Bảng 3.2: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với vị từ hành
động

Bảng 3.3: Khả năng kết hợp của phó từ kết quả với vị từ hành động
Bảng 3.4: Khả năng kết hợp của phó từ kết thúc hoặc hoàn thành với
vị từ hành động

60
61
63

Bảng 3.5: Khả năng kết hợp của phó từ cách thức với vị từ hành động

64

Bảng 3.6: Khả năng kết hợp của phó từ mức độ với vị từ hành động

65

Bảng 3.7: Khả năng kết hợp của phó từ kết thúc hoặc hoàn thành
với vị từ quá trình

65

Bảng 3.8: Khả năng kết hợp của phó từ kết quả với vị từ quá trình

66

Bảng 3.9: Khả năng kết hợp của phó từ cách thức với vị từ quá trình

67

Bảng 3.10: Khả năng kết hợp của phó từ mức độ với vị từ quá trình


68

Bảng 3.11: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với vị từ quá
trình
Bảng 3.12: Khả năng kết hợp của phó từ mức độ với vị từ trạng thái
Bảng 3.13: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với các vị từ
trạng thái
Bảng 3.14: Khả năng kết hợp của phó từ kết thúc hoặc hoàn thành
với các vị từ trạng thái
Bảng 3.15: Khả năng kết hợp của phó từ kết quả với các vị từ trạng
thái
Bảng 3.16: Khả năng kết hợp của phó từ phối hợp với các vị từ trạng
thái
Bảng 3.17: Khả năng kết hợp của phó từ kết quả với các vị từ trạng
thái
Bảng 3.18: Khả năng kết hợp của phó từ cách thức với các vị từ trạng
thái
6

68
69
70
70
71
72
72
73



Bảng 3.19: Khả năng kết hợp của phó từ mức độ với các vị từ tư thế
Bảng 3.20: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với các vị từ tư
thế
Bảng 3.21: Khả năng kết hợp của phó từ kết thúc/hoàn thành với các
vị từ tư thế
Bảng 3.22: Khả năng kết hợp của phó từ kết quả với các vị từ tư thế
Bảng 3.23: Khả năng kết hợp của phó từ mệnh lệnh với các vị từ tư
thế
Bảng 3.24: Khả năng kết hợp của phó từ tương hỗ với vị từ tư thế
Bảng 3.25: Khả năng kết hợp của phó từ cách thức với các vị từ tư
thế
Bảng 3.26: Khả năng kết hợp của hậu phó từ tiếng Việt với 4 nhóm vị
từ

7

74
74
75
75
76
76
77
78


PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. Lí do chọn đề tài
a, Trong tiếng Việt, để phân định các từ loại, các nhà ngôn ngữ học đều
có xu hướng căn cứ vào ba tiêu chuẩn, đó là: ý nghĩa ngữ pháp khái quát, khả

năng kết hợp và chức vụ cú pháp của từ. Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu
một tiêu chuẩn nào đó để phân định từ loại tiếng Việt thì thực sự chưa có công
trình cụ thể nào.
Trong ba tiêu chuẩn trên, khả năng kết hợp là một tiêu chuẩn vô cùng
quan trọng. Vì khi xác định một từ là động từ, tính từ hay một từ loại nào đó,
thì khả năng kết hợp là tiêu chuẩn dễ nhận biết và dễ áp dụng nhất. Có thể
hiểu một cách đơn giản rằng: Hai yếu tố ngôn ngữ chỉ có thể kết hợp được với
nhau khi giữa chúng có sự thống nhất về phương diện ngữ nghĩa; nếu giữa hai
yếu tố có một khía cạnh ngữ nghĩa nào đó không thống nhất hay mâu thuẫn
nhau thì chúng không thể kết hợp với nhau được.
b, Phó từ là một từ loại nằm trong hệ thống phụ từ tiếng Việt. Phó từ có
tần số xuất hiện khá cao trong tiếng Việt. Chúng có khả năng hoạt động rất
linh hoạt, đồng thời mối quan hệ giữa các phó từ với vị từ trong tiếng Việt
cũng khá phong phú và thú vị.
Trong Việt ngữ học đã có nhiều công trình nghiên cứu riêng về phó từ
hoặc vị từ. Tuy nhiên, từ trước đến nay, vẫn chưa có một công trình khoa học
riêng biệt nào miêu tả, lí giải chuyên sâu, chi tiết và đầy đủ về khả năng kết
hợp giữa phó từ với vị từ mà chỉ đi vào một khía cạnh riêng lẻ nào đó. Cho
nên điều này còn khá mới mẻ đối với những người đi sau muốn tìm hiểu một
cách thấu đáo.
Khi nói về khả năng kết hợp của phó từ với vị từ hay ngược lại (vị từ với
phó từ), các nhà ngôn ngữ học thường cho rằng vị từ có khả năng kết hợp với
phó từ. Tuy nhiên, không phải tất cả các vị từ đều có khả năng kết hợp với tất

8


cả các phó từ. Có những phó từ chỉ kết hợp được với vị từ này mà không thể
kết hợp được với vị từ kia.
Ví dụ: Chúng ta chỉ có thể nói Anh hãy đứng lên mà không thể nói Anh

rất đứng lên, chỉ có thể nói Nước đã chảy rồi mà không thể nói Nước đã chảy
xong, chỉ có thể nói Nó tự mặc lấy quần áo mà không thể nói Nó tự buồn,…
Qua đó, chúng tôi nhận thấy việc giải thích khả năng kết hợp của phó từ với
vị từ trong tiếng Việt (tại sao kết hợp được với nhau, tại sao không kết hợp
được…) là một nội dung chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện.
Vì những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Khả năng kết
hợp của phó từ với vị từ trong tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
của mình.
0.2. Lịch sử vấn đề
Phó từ tiếng Việt đã được nhiều nhà ngữ pháp nghiên cứu từ rất lâu. Hầu
hết các công trình ngữ pháp tiếng Việt đều có đề cập đến lớp từ này. Trong
“Hư từ trong tiếng Việt hiện đại” (1988), Nguyễn Anh Quế đã khái quát: “Phó
từ là một từ loại hết sức phức tạp cả về ý nghĩa lẫn về chức năng”.
Do tính phức tạp của phó từ cho nên các nhà Việt ngữ đã có khá nhiều ý
kiến khác nhau về tên gọi của chúng. Sử dụng tên gọi “trạng từ” chúng ta có
thể kể đến tác giả Trần Trọng Kim; sử dụng tên gọi “phó từ” có các đại diện
tiêu biểu: Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Anh Quế; tên gọi
“phụ từ” với đại diện Lê Biên hay “tiểu từ” với đại diện Hoàng Tuệ.
Chúng tôi theo quan điểm gọi những từ phụ trợ cho vị từ là phó từ, và
xếp chúng vào phạm vi của hư từ.
Ví dụ: thường, quá, hãy, .v.v…
+ Nó thường không nghe lời người lớn.
+ Cậu hãy đứng đấy cho tôi!

9


+ Cái váy này đẹp quá!
Khi nghiên cứu về phó từ tiếng Việt, các tác giả đều cho rằng trong kết
hợp với thực từ, phó từ không có khả năng làm trung tâm ngữ nghĩa hay ngữ

pháp và không có khả năng làm thành phần chính trong câu. Chúng xuất hiện
phổ biến ở vị trí thành tố phụ trong kết cấu động ngữ và trong cấu tạo thành
phần câu.
Các nhóm phó từ thường gặp trong tiếng Việt hiện đại được khá nhiều
nhà Việt ngữ nghiên cứu, có thể kể tới như: nhóm phó từ thời gian, nhóm phó
từ chỉ tiếp diễn - đồng nhất, nhóm phó từ phủ định - khẳng định, nhóm phó từ
chỉ tần số, nhóm phó từ chỉ mức độ,.v.v…
Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu về phó từ tiếng Việt mới
dừng lại ở việc miêu tả và phân loại phó từ, chưa đi sâu vào nghiên cứu khả
năng kết hợp của phó từ với vị từ trong tiếng Việt.
Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung trong Ngữ pháp tiếng Việt (tập 1,
2006) dựa vào tiêu chí ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ cú
pháp để phân định vốn từ tiếng Việt thành hai nhóm. Nhóm I gồm danh từ,
động từ, tính từ, số từ, đại từ. Nhóm II gồm phụ từ (định từ, phó từ), kết từ,
tiểu từ (trợ từ, tình thái từ). Theo tác giả, phó từ cũng như các hư từ thuộc
nhóm II là lớp từ không có khả năng làm thành tố chính trong tổ chức đoản
ngữ và làm thành phần câu, chuyên dùng làm thành tố phụ đi kèm thực từ,
hoặc dùng để liên kết từ trong câu. Và khi nghiên cứu về phó từ, tác giả mới
chỉ quan tâm tới việc phân loại và miêu tả từng nhóm cụ thể.
Tác giả Lê Biên trong công trình nghiên cứu “Từ loại tiếng Việt hiện
đại” (1996) cũng đã chia vốn từ tiếng Việt thành hai mảng lớn là thực từ và
hư từ. Theo tác giả, thực từ gồm danh từ, động từ, tính từ, số từ; hư từ gồm
phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ (trợ từ, tiểu từ tình thái), thán từ. Trong đó, tác

10


giả đã đề cập đến khả năng kết hợp của những từ trong nội bộ một số nhóm
phụ từ nhưng mới dừng lại ở việc nêu ra mà chưa đi vào chi tiết.
Đinh Văn Đức trong “Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại I&II” (2015) căn

cứ vào tập hợp tiêu chuẩn về ý nghĩa, khả năng kết hợp, chức vụ cú pháp
để làm căn cứ phân loại. Tác giả chia từ loại tiếng Việt thành ba tập hợp cơ
bản, đó là: các thực từ, các hư từ, các tình thái từ. Theo tác giả, thực từ
gồm danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ; hư từ gồm từ phụ và từ nối;
tình thái từ gồm tiểu từ và trợ từ. Theo Đinh Văn Đức, phó từ nằm trong hệ
thống từ phụ thuộc phạm vi hư từ hay hư từ từ pháp. Và tác giả cũng chưa
phân tích cụ thể về khả năng kết hợp của phó từ với vị từ tiếng Việt trong
công trình nghiên cứu của mình.
Trong cuốn “Đại cương ngôn ngữ học” (tập 1, 2001), Đỗ Hữu Châu và
Bùi Minh Toán cũng đã đề cập tới các nhóm phó từ nhưng chỉ là những nhận
xét khái quát về các hư từ tình thái.
Tiếp đó là các công trình nghiên cứu về một số nhóm phó từ cụ thể như:
Khóa luận Nhóm phụ từ có ý nghĩa đồng nhất (2003) của Bùi Thị Trúc
Quỳnh; Hoạt động ngữ pháp – ngữ nghĩa của hai từ có và không trong
tiếng Việt (2008) của Hoàng Thị Bốn; Tìm hiểu nhóm từ chỉ sự tiếp diễn
đồng nhất (cũng, còn, lại, vẫn, cứ, đều) trên ba bình diện kết học, nghĩa
học, dụng học (2013) của Nguyễn Thị Vân Anh; Luận án Đồng nghĩa của
hư từ tiếng Việt (2012) của Bùi Thanh Hoa; Luận văn Từ có và còn trong
tiếng Việt trên ba bình diện: kết học, nghĩa học, dụng học (2014) của
Nguyễn Thị Huế. Các công trình đã có những bước đầu nghiên cứu khái
quát về nhóm từ, tìm hiểu vai trò, hoạt động ngữ pháp - ngữ nghĩa, sự kết
hợp của các phó từ nhưng chưa có sự chuyên sâu về khả năng kết hợp của
toàn bộ phó từ với vị từ tiếng Việt.

11


Trên cơ sở điểm qua các công trình nghiên cứu về một số nhóm phó từ
tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy các tác giả thường chỉ tập trung vào mặt từ
loại, miêu tả từng từ hoặc nhóm từ mà chưa có sự tổng kết về khả năng kết

hợp của phó từ tiếng Việt trên ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ
dụng. Dựa trên những nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học, chúng tôi tiến
hành khảo sát, tìm hiểu về khả năng kết hợp của phó từ với vị từ trong tiếng
Việt, với mong muốn có được cái nhìn toàn diện hơn về chúng.
0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
0.3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc làm rõ khả năng kết hợp giữa phó từ với vị từ trên các bình diện
ngữ pháp và ngữ nghĩa, luận văn đưa ra cái nhìn bao quát về hoạt động kết
hợp của phó từ tiếng Việt. Từ đó giúp cho việc hiểu phó từ tiếng Việt sâu sắc
và toàn diện hơn, và thông qua đó cũng hiểu hơn về vị từ tiếng Việt.
0.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nói trên, chúng tôi đặt ra cho mình những nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Làm rõ khả năng kết hợp của phó từ với các nhóm vị từ tiếng Việt theo
hai vấn đề: các nhóm phó từ kết hợp được với vị từ và các nhóm phó từ không
kết hợp được với vị từ trong tiếng Việt.
- Lí giải vì sao có những nhóm phó từ kết hợp được với vị từ, có những
nhóm không thể kết hợp được, từ đó tìm ra yếu tố chi phối chúng.
0.4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và tư liệu khảo sát
0.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khả năng kết hợp của phó từ với vị từ trong tiếng Việt.
0.4.2. Phạm vi nghiên cứu

12


Luận văn không tập trung vào việc miêu tả riêng rẽ phó từ hay vị từ mà
tập trung xác định và lí giải khả năng kết hợp giữa chúng. Các phó từ sẽ
được phân loại thành 12 nhóm (dựa trên quan điểm của Bùi Minh Toán và
Nguyễn Thị Lương). Còn các vị từ thì được chia làm bốn nhóm (theo lý

thuyết phân loại vị từ của S.C.Dik), đó là vị từ hành động, vị từ quá trình, vị
từ trạng thái và vị từ tư thế.
0.4.3. Tư liệu khảo sát
Tư liệu phục vụ cho đề tài luận văn chủ yếu được lấy từ hai nguồn: (1)
các tác phẩm văn học với các thể loại truyện ngắn, truyện dài… được xuất
bản qua các thời kì khác nhau và (2) lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt
mà chúng tôi quan sát được.
Ngoài ra, luận văn có dựa vào sự giải thích của “Từ điển giải thích hư từ
tiếng Việt” [26], “Từ điển tiếng Việt” [23] như một cơ sở tham chiếu để phân
tích, lí giải khả năng năng kết hợp của phó từ với vị từ trong tiếng Việt.
0.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp và thủ
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này dùng để miêu tả chi tiết hoạt
động ngữ pháp, ngữ nghĩa của đối tượng nghiên cứu trong những vai trò, vị trí
hay ngữ cảnh cụ thể.
- Thủ pháp thống kê, phân loại: Thủ pháp này được sử dụng để khảo sát,
thu thập nguồn ngữ liệu, từ đó tiến hành phân loại, đánh giá tần số xuất hiện
của chúng và đưa ra kết luận.
0.6. Đóng góp của luận văn
0.6.1. Về mặt lí luận

13


Thực hiện đề tài này, luận văn góp phần hoàn thiện lí thuyết về khả năng
kết hợp của phó từ tiếng Việt. Khả năng kết hợp là vấn đề thuộc lĩnh vực
ngữ pháp nhưng việc lí giải nó (kết hợp được hay không) lại thuộc địa hạt ngữ
nghĩa. Hy vọng việc phối hợp hai bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa sẽ góp
phần làm sáng tỏ đặc điểm của phó từ và vị từ tiếng Việt.

0.6.2. Về mặt thực tiễn
Kết luận của luận văn có thể đáp ứng được một phần nhu cầu tìm hiểu
về phó từ tiếng Việt của những người quan tâm. Đồng thời, có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo và áp dụng vào việc dạy và học từ loại, dạy và học câu
tiếng Việt trong nhà trường phổ thông hiện nay.
0.7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nguồn ngữ liệu, tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Khả năng kết hợp của các tiền phó từ tiếng Việt với vị từ
Chương 3: Khả năng kết hợp của các hậu phó từ tiếng Việt với vị từ
Sở dĩ có sự phân chia như vậy là vì những vấn đề về lý thuyết làm cơ sở
cho việc nghiên cứu luận văn được chúng tôi trình bày riêng trong một
chương, và được sắp xếp ở vị trí đầu tiên. Vì số lượng phó từ là tương đối lớn
nên chúng tôi sẽ phân thành hai loại, phó từ đứng trước vị từ (tiền phó từ) và
phó từ đứng sau vị từ (hậu phó từ). Mỗi loại phó từ trong sự kết hợp với vị từ
sẽ được nghiên cứu trong một chương riêng (chương 2 và 3).

14


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày ba vấn đề cơ bản làm cơ sở để
tiến hành nghiên cứu các chương đi sau. Đó là (1) Khả năng kết hợp của từ,
(2) Khái quát về phó từ tiếng Việt và (3) Khái quát về vị từ tiếng Việt.
1.1. Khả năng kết hợp của từ
Khả năng kết hợp của một từ là năng lực tiềm tàng của từ đó, xuất
hiện trong một tổ hợp từ có nghĩa, với tư cách một yếu tố thường trực trong tổ
hợp từ đó.

Xét khả năng kết hợp của một từ là xét xem:
(a) Từ đó có khả năng làm thành tố chính hay thành tố phụ trong một
cụm từ chính phụ,
(b) Từ đó có khả năng kết hợp với những từ nào.
Ví dụ, thực từ có khả năng làm thành tố chính trong cụm từ chính phụ,
còn hư từ thì không; danh từ có khả năng kết hợp với phụ từ những, các…,
động từ và tính từ thì không…
Trong luận văn này, chúng tôi chỉ xem xét khả năng kết hợp của từ ở nội
dung thứ hai, tức là xét xem từ đó có khả năng kết hợp với những từ nào. Bởi nội
dung thứ nhất đã rất rõ ràng: Phó từ không làm thành tố chính trong cụm từ mà
chuyên làm thành tố phụ cho vị từ, nên chúng tôi không đề cập tới nữa.
Trong “Ngữ pháp tiếng Việt - tập 1” (2006), Diệp Quang Ban cũng bàn
về khả năng kết hợp như sau: “Với ý nghĩa khái quát, các từ có thể có khả
năng tham gia vào một kết hợp có nghĩa: ở mỗi vị trí của kết hợp có thể xuất
hiện những từ có khả năng lần lượt thay thế nhau, trong khi đó, ở các vị trí
khác trong kết hợp, các từ còn lại tạo ra bối cảnh cho sự xuất hiện khả năng
thay thế của những từ nói trên. Những từ cùng xuất hiện trong cùng một bối
cảnh, có khả năng thay thế nhau ở cùng một vị trí, có tính chất thường xuyên,
15


được tập hợp vào một lớp từ. Các từ tạo ra bối cảnh thường xuyên cho các từ
có thể thay thế nhau ở vị trí nhất định, được gọi là chứng tố (hay từ chứng).
Khả năng kết hợp của từ trong các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, là sự
phân bố trật tự và việc sử dụng các từ phụ để biểu hiện các ý nghĩa ngữ pháp
bên ngoài từ”.
Ví dụ những từ: nhà, bàn, chim, cát, v.v… có thể xuất hiện và thay thế
nhau trong kết hợp kiểu nhà này, bàn này, chim này, cát này, v.v…, và được
xếp vào lớp danh từ. Chúng không thể xuất hiện và thay thế cho nhau trong
kết hợp kiểu: hãy ăn, hãy mua, ăn xong, mua xong v.v…, vốn là kiểu kết hợp

của lớp động từ. Các từ này, hãy và xong tạo ra bối cảnh ngôn ngữ đối lập và
khả năng kết hợp của hai lớp danh từ và động từ trong tiếng Việt.
Khả năng kết hợp, được hiểu ở ba mức độ như sau:
1, Khả năng kết hợp của từ đang xét với một hay một số hư từ, từ đó
nói được bản tính từ loại của từ đang xét. Những hư từ trong trường hợp này
được gọi là các chứng tố. Và với chứng tố, chúng ta thường chỉ xác định được
ba lớp từ chính trong tiếng Việt là: lớp danh từ, lớp động từ và lớp tính từ. Ví
dụ: những từ có thể đứng trước các chỉ định từ này, nọ thì thuộc lớp danh từ;
những từ có thể đứng sau đang, vẫn ... thì thuộc lớp động từ; những từ đứng
sau rất thường thuộc lớp tính từ.
2, Khả năng kết hợp của từ đang xét được đặt trên cơ sở cách cấu tạo
của cụm từ chính phụ. Với cách này, có thể xác định thêm lớp các phó từ của
động từ (có nét gần gũi với các phụ từ và một số trạng từ adverd của ngôn
ngữ châu Âu).
3, Khả năng kết hợp từ với từ, không chỉ tính đến các yếu tố không nằm
trong cụm từ, thông qua các tiêu chuẩn sau: khả năng làm đầu tố trong cụm từ
chính phụ; khả năng làm yếu tố mở rộng trong cụm từ chính phụ; không tham
gia vào cụm từ chính phụ, chỉ xuất hiện ở bậc câu nhưng có thể có quan hệ
với cụm từ chính phụ trong các trường hợp cụ thể.
16


Có thể nói, đặc trưng về khả năng kết hợp của từ là dấu hiệu chủ yếu về
ngữ pháp, có tác dụng quyết định trong việc phân định các loại từ tiếng Việt
về mặt từ loại.
Trong luận văn, chúng tôi đặt mục đích là khảo sát, tìm hiểu và lí giải
khả năng kết hợp của phó từ với vị từ tiếng Việt, nghĩa là đi phân tích, giải
thích sự thống nhất hay không thống nhất về phương diện ngữ nghĩa giữa hai
tiểu loại từ tiếng Việt này.
1.2. Khái quát về phó từ Tiếng Việt

1.2.1. Khái niệm phó từ
Theo “Ngữ pháp tiếng Việt” (Diệp Quang Ban): “Phó từ là những phụ
từ đi kèm với động từ và tính từ để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp, cách thức,
mức độ hay kết quả của hành động, hoạt động…”. Vẫn theo tác giả này, phó
từ tiếng Việt được hiểu là từ có tính chất hư được dùng để mở rộng động từ,
tính từ, đem lại cho chúng một số nghĩa nào đó (không tính đến những từ ngữ
thuộc bậc câu) [2; 540].
Tóm lại, phó từ tiếng Việt nằm trong hệ thống hư từ, là những từ
chuyên đi kèm theo từ khác để bổ sung ý nghĩa cho từ đó. Hay nói cụ thể hơn,
phó từ là những từ chuyên đi kèm với vị từ để bổ sung các ý nghĩa ngữ
pháp cho vị từ, như ý nghĩa thời gian, mệnh lệnh, cách thức, mức độ hay
kết quả,… của hành động, hoạt động.
Ví dụ: đã, rất, cũng, không còn, lắm, đừng, quá, được...
1.2.2. Phân loại phó từ
Có nhiều cách phân chia phó từ tiếng Việt. Diệp Quang Ban trong cuốn
“Ngữ pháp tiếng Việt - tập 1” (2006) chia phó từ thành 9 nhóm. Tác giả cũng
đã phân loại thành phó từ tình thái (tình thái hóa nghĩa của động từ, tính từ)
và phó từ phi tình thái (không có tác dụng tình thái hóa). [2; 540]

17


Phó từ tình thái diễn đạt nghĩa kinh nghiệm của sự việc nêu lên ở động
từ, tính từ với yếu tố thời gian, hoặc với thái độ của người sử dụng ngôn ngữ.
Phó từ tình thái có thể phân biệt thành hai lớp:
-

Phó từ chỉ nghĩa kinh nghiệm (nghĩa biểu hiện, thuộc về tình thái khách quan)
gồm có: phó từ chỉ tính phân cực (có, không, chẳng), phó từ chỉ tính thời gian
(chỉ thời gian bên ngoài: đã, từng, vừa, mới, hay, hằng, thường…, chỉ thời

gian bên trong: xong, rồi), phó từ chỉ khả năng (có thể, không thể, được), phó
từ chỉ tính đồng nhất, tương tự (đều, cũng), phó từ chỉ sự chung với nhau

(cùng), phó từ chỉ thang độ (rất, hơi, khí/khá).
- Phó từ chỉ nghĩa liên nhân (thuộc về tình thái trách nhiệm) gồm hai lớp nhỏ:
phó từ tình thái liên nhân tham gia kiến trúc thức (ví dụ: hãy, đừng, chớ là phó
từ tạo thức cầu khiến) và phó từ tình thái liên nhân nằm ngoài kiến trúc thức
(được, mất, phải đứng sau động từ tạo thành cặp ý nghĩa đối lập: may mắn –
không may mắn).
Phó từ phi tình thái là những từ mang nghĩa kinh nghiệm, chủ yếu là
phó từ chỉ hướng: ra, vào, lên, xuống… đứng sau động từ, tính từ.
Nguyễn Minh Thuyết coi phó từ có chức năng bổ nghĩa cho thực từ
(động từ, tính từ và cả danh từ) và có ba tiểu loại:
-

Phó danh từ (chuyên làm thành tố phụ trong cụm danh từ) gồm phó danh từ
số lượng: những, các, mỗi, mọi, từng…; phó danh từ đơn vị: cái, chiếc, mớ,

con, nắm, mét…; phó danh từ nhấn mạnh: cái.
- Phó thuật từ (chuyên làm thành tố phụ trong cụm động từ, cụm tính từ: cũng,
vẫn, đã, đang, không, chưa, hay, năng, ít, rồi, xong, hãy, đừng, chớ, hơi, quá,
lắm…)
- Phó số từ (chuyên làm thành tố phụ trong cụm số từ): độ, chừng, khoảng.
Còn Bùi Minh Toán và Nguyễn Thị Lương thì phân chia phó từ thành
12 nhóm. Chúng tôi đi theo quan điểm này. Các nhóm phó từ được phân chia
như sau:
18


(1) Nhóm phó từ thời gian: đã, từng, vừa, mới, sắp, sẽ, đang…

Nhóm này có vị trí đứng trước vị từ, bổ sung ý nghĩa thời gian (tense)
và cả ý nghĩa thể (aspect) cho vị từ. Có thể tạm phân chia phó từ đã, từng,
vừa, mới biểu thị ý nghĩa thời gian quá khứ, đang biểu thị thời gian hiện tại và
sẽ, sắp biểu thị tương lai. Ví dụ:
+ Mọi người đã ngồi đâu vào đấy và lắng chờ. (3, 42)
+ Trời sẽ mưa trong hai ngày tới.
+ Tôi đang phân vân không biết nên nói hay không.
(2) Nhóm phó từ tiếp diễn, đồng nhất: cũng, còn, đều, vẫn, cứ, lại…
Nhóm này bổ sung ý nghĩa về sự tiếp tục, đồng nhất cho vị từ. Ví dụ:
+ Cháu đã hỏi mấy lần rồi, bà cụ đều bảo bác ấy đi vắng. (2, 26)
+ Chúng tôi còn đến đó thêm một lần nữa.
(3) Nhóm phó từ mệnh lệnh: hãy, đừng, chớ (đứng trước vị từ); đi, thôi,
nào… (đứng sau vị từ). Ví dụ:
+ Chớ đi ngày bảy chớ về ngày ba!
+ Chúng ta hẵng (hãy) nghỉ một chút đã!
+ Anh đừng đùa.
(4) Nhóm phó từ mức độ: rất, hơi, khá, quá, lắm, vô cùng…
Các từ rất, khá, khí, hơi đứng trước vị từ, còn lắm thì đi sau. Riêng từ
quá thì có hai khả năng: vừa đứng trước, vừa đứng sau.
Khi quá đứng trước vị từ thì nó dùng để chỉ mức độ nhưng khi đi sau vị
từ, nó còn có nghĩa như một thán từ. Ví dụ:
+ Cái áo này quá chật.
+ Cảnh ở đây đẹp quá!
(5) Nhóm phó từ kết thúc hoặc hoàn thành: xong, rồi
Nhóm này chuyên đứng sau vị từ, biểu thị sự kết thúc hay hoàn thành
của hành động hay trạng thái. Ví dụ:
19


+ Cô ấy đã viết xong luận văn.

+ Anh ta lấy vợ rồi.
(6) Nhóm phó từ khẳng định hoặc phủ định: không, chưa, chẳng, có…
Trong nhóm này, có là phó từ khẳng định; không, chưa, chẳng là phó từ
phủ định. Ví dụ:
+ Bài toán này em chẳng làm được.
+ Tôi không tin vào giọt nước mắt của anh ta.
(7) Nhóm phó từ tần số: hay, thường, luôn, hiếm, ít… gồm những phó
từ chỉ tần số cao (thường, hay, năng, luôn…) bổ sung ý nghĩa về số lần
(nhiều) cho nội dung hoạt động, trạng thái thể hiện ở vị từ; và những phó từ
chỉ tần số thấp (ít, hiếm…) bổ sung ý nghĩa về số lần (ít) cho nội dung hoạt
động, trạng thái thể hiện ở vị từ. Ví dụ:
+ Tôi thường nghĩ về lẽ vô thường và sự vô tri.
+ Cậu ta luôn đi học muộn giờ.
+ Anh ít cười và chẳng mấy khi trò chuyện.
(8) Nhóm phó từ tương hỗ: nhau
Nhóm này chỉ có một từ, đó là từ nhau. Từ này có vị trí đứng sau vị từ
và luôn đòi hỏi phải đi với chủ thể là số nhiều. Ví dụ:
+ Cả nhà vừa dắt díu nhau từ viện về chưa ấm chỗ thì “người ta” đã
đến. (4, 41)
+ Họ tìm thấy nhau ở một nơi không ai ngờ tới.
(9) Nhóm phó từ tự lực: lấy, tự
Nhóm này gồm hai từ, trong đó, tự có vị trí đứng trước vị từ, lấy đứng
sau vị từ. Chúng có thể đồng thời xuất hiện trong một cụm động từ. Ví dụ:
+ Nó tự đóng lấy sách vở.
+ Chúng tôi tự làm điều đó.

20


(10) Nhóm phó từ kết quả: được, mất, ra... Các phó từ này đều đứng

sau vị từ để chỉ kết quả của hoạt động hay hành động. Ví dụ:
+ Suýt nữa tôi quên mất.
+ Tôi nghĩ ra một cách để đuổi khéo nó.
(11) Nhóm phó từ cách thức: ngay, liền, luôn, mãi, hoài, nữa…
Nhóm này có vị trí cơ bản là đứng sau vị từ, bổ sung ý nghĩa về cách
thức xảy ra của hoạt động, trạng thái được nêu ở vị từ. Ví dụ:
+ Học, học nữa, học mãi.
Riêng phó từ liền có hai vị trí: đứng trước và đứng sau. Ví dụ:
+ Khi nhận được câu hỏi, tôi liền trả lời ngay.
+ Chị ấy cho tôi gói bánh. Tôi bóc ra ăn liền.
(12) Nhóm phó từ phối hợp: cùng
Nhóm này chỉ có một từ, đó là từ cùng. Từ này bổ sung ý nghĩa phối
hợp cho vị từ. Ví dụ:
+ Anh ta và tôi cùng đến trường Đại học Sư phạm Hà Nội để tham dự
hội thảo.
1.2.3. Đặc điểm của phó từ
Qua việc tìm hiểu về nhận định của Nguyễn Kim Thản trong “Ngữ
pháp tiếng Việt” (tái bản năm 1997), chúng tôi nhận thấy phó từ có một số đặc
điểm đáng lưu ý như sau:
-

Về ý nghĩa, phó từ không có tác dụng định tên gọi mà chỉ những dấu hiệu

nhất định về ý nghĩa như dấu hiệu trình độ, phạm vi, thời gian…
- Về chức năng cú pháp, phó từ không thể tự mình lập thành câu mà chỉ có
nhiệm vụ phụ trợ cho vị từ, vị ngữ hoặc cả câu chứ không thể làm thành phần
chủ yếu của câu như chủ ngữ, vị ngữ [36, 305].
Do đó, có thể căn cứ vào tác dụng ngữ pháp của phó từ để phân loại
thành: phó từ chỉ phụ trợ cho vị từ, vị ngữ như: cũng, sẽ, rồi, còn nữa, rất, lắm;


21


phó từ thường phụ trợ cho cả câu như: quả nhiên, có lẽ, chắc, bất đắc dĩ, kì thực,
dễ thường, vị tất, bỗng, bỗng chốc, bỗng dưng, thình lình, thường thường…
Các tác giả cuốn sách “Ngữ pháp tiếng Việt” của Ủy ban Khoa học xã
hội gọi phó từ là phụ từ, đó là những từ phụ trợ cho động từ và tính từ. Chúng
là các hư từ biểu thị ý nghĩa ngữ pháp về thời gian (xe sẽ chạy), về thể trạng
(xe đã đến rồi), về mức độ (xe này rất tốt)… Phụ từ “không thể đảm nhận
phần đề, phần thuyết (các thành phần chính của câu) trong nòng cốt. Vai trò
mà nó có thể đảm nhiệm là làm yếu tố cấu tạo của ngữ, nhưng cũng không
làm chính tố, mà chỉ làm phụ tố [42; 70-71].
Tóm lại, từ quan niệm của các tác giả về khái niệm phó từ cũng như
đặc trưng của nó, chúng tôi xác định các tiêu chí nhận diện phó từ như sau:
(1) Về ý nghĩa: Phó từ có tính chất hư, chuyên biểu thị ý nghĩa ngữ
pháp tình thái cho vị từ về mức độ, thời gian, phạm vi, phương thức góp phần
cụ thể hóa nghĩa biểu hiện của vị từ trong câu.
(2) Về quan hệ ngữ pháp: Phó từ giữ vai trò phụ trợ cho vị từ.
(3) Về vị trí so với vị từ: Phó từ có 2 vị trí cơ bản: đứng trước và đứng sau
vị từ. Ngoài ra còn có những phó từ có thể vừa đứng trước, vừa đứng sau vị từ.
- Phó từ đứng trước vị từ:
Những phó từ này thường bổ sung một số ý nghĩa liên quan đến hành
động, trạng thái, đặc điểm, tính chất nêu ở vị từ như: quan hệ thời gian, mức
độ, sự tiếp diễn tương tự, sự phủ định, sự cầu khiến. Ví dụ: đã, sẽ, rất, cũng,
chưa, đừng...
+ Em sẽ viết một câu chuyện hay về cô ấy.
+ Anh đừng khinh em nhé.
+ Trời đã khuya.
- Phó từ đứng sau vị từ:


22


Những phó từ này thường bổ sung một số ý nghĩa liên quan đến hành
động, trạng thái, đặc điểm, tính chất nêu ở vị từ như: mức độ, khả năng, kết
quả và hướng. Ví dụ: lắm, được, quá...
+ Gió mát quá.
+ Tôi lạnh người, chúng tôi cũng chết mất thôi.
- Phó từ có khả năng đứng trước và đứng sau vị từ:
+ Anh ta mất dần kí ức. / Chiều dần buông.
+ Cô ấy quá đẹp. / Cô ấy đẹp quá.
1.3. Vị từ tiếng Việt
1.3.1. Khái niệm vị từ
Trong tiếng Việt, “vị từ” là một thuật ngữ chỉ chung cho hai từ loại
động từ và tính từ. Bởi vì giữa động từ và tính từ gần gũi với nhau về nhiều
phương diện:
1, Về ý nghĩa, có thể quan niệm cả hai từ loại đó đều biểu hiện ý nghĩa
đặc trưng của thực thể, đối lập với danh tử là từ loại biểu hiện thực thể. Ta có
sự lưỡng phân: Thực thể // Đặc trưng của thực thể -> danh từ // động từ và
tính từ.
2, Về khả năng kết hợp trong cụm từ, cả hai (động từ và tính từ) đều
có thể kết hợp với các nhóm phó từ, tuy rằng động từ dễ dàng kết hợp với
các phụ từ chỉ mệnh lệnh (hãy, đừng, chớ) hơn, còn tính từ thì phần nhiều
dễ kết hợp với các phó từ chỉ mức độ (rất, hơi, khí, khá, lắm, cực kỳ, vô
cùng…) hơn.
3, Về khả năng đảm nhiệm các thành phần câu, cả hai từ loại động từ
và tính từ đều có thể đảm nhiệm được chức năng của thành phần câu, đặc biệt
là chức năng vị ngữ, định ngữ, bổ ngữ. Hơn nữa cả hai đều có thể làm vị ngữ
một cách trực tiếp. Ví dụ: So sánh khả năng làm vị ngữ trực tiếp:
+ Con ngựa ấy // đi.

23


+ Con ngựa ấy // đẹp.
Chính vì sự gần gũi giữa động từ và tính từ như vậy nên trong tiếng Việt
hai từ loại này được cho rằng nằm trong một phạm trù từ loại chung là vị từ.
Còn danh từ không thể làm vị ngữ trực tiếp. Danh từ khi làm vị ngữ
phải thông qua từ “là”. Nói cách khác, danh từ làm vị ngữ gián tiếp. Ví dụ:
+ Tôi// là sinh viên.
Theo cách hiểu phổ biến, Nguyễn Thị Quy định nghĩa vị từ như sau:
“vị từ là một từ có chức năng tự mình làm thành một vị ngữ hoặc một trung
tâm ngữ pháp, hay làm hạt nhân ngữ nghĩa của một vị ngữ biểu hiện nội dung
của sự thể”. [32, 35]
Nói cách khác, đó là một phạm trù từ loại bao gồm cả động từ và tính
từ. Chúng tôi quan niệm, trong tiếng Việt nói riêng và trong các ngôn ngữ
thuộc loại hình đơn lập nói chung, động từ và tính từ có thể xếp vào một
phạm trù chung là vị từ. Chúng tôi hoàn toàn tán thành với quan điểm của
Diệp Quang Ban: “Khái niệm vị từ không xóa bỏ hoàn toàn sự đối lập động
từ/tính từ, mà có tác dụng tập hợp chúng theo những đặc trưng chung xét trên
bình diện đối lập với danh từ”. [1, 106]. Vì vậy, lớp từ mà chúng tôi khảo sát
nghiên cứu cùng phó từ tiếng Việt là những vị từ.
Nhìn chung, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, việc phân
định từ loại vị từ (động từ và tính từ) theo những tiêu chí của ngữ pháp chức
năng đã tỏ ra có ưu thế hơn so với ngữ pháp hình thức, tuy mới ở bước thử
nghiệm ban đầu. Điều được khẳng định của ngữ pháp chức năng là dùng lý
thuyết mới để soi rọi một đối tượng vốn đã cũ, vừa có tính kế thừa vừa có tính
cách tân.
1.3.2. Phân loại vị từ
24



Theo Ngữ pháp chức năng, mỗi sự tình (sự thể, sự kiện) trong hiện
thực mà câu phản ánh tạo nên nghĩa miêu tả của câu. Nội dung của mỗi sự
tình đó gồm một cái lõi được biểu hiện bằng một vị từ và các tham tố (tham
thể). Tuyệt đại đa số các vị từ còn được biểu hiện bằng động từ hoặc tính từ,
còn các tham tố thì được biểu hiện bằng các danh từ, cụm danh từ, hoặc đại
từ.
Căn cứ vào nghĩa biểu hiện, người ta chia vị từ thành hai loại: vị từ
biểu thị nội dung sự tình (một hành động, một trạng thái, một tư thế, một quá
trình) và vị từ tình thái biểu thị thái độ của người nói đối với nội dung sự tình
hoặc với tham tố của sự tình. Đặc điểm của vị từ được xem xét ở nghĩa của vị
từ và các tham tố (diễn tố và chu tố) của nó. Diễn tố là tham tố bắt buộc cùng
với vị từ làm thành vị ngữ hạt nhân. Chu tố là tham tố không bắt buộc, bổ
sung cho vị ngữ hạt nhân, là thành phần mở rộng của vị ngữ hạt nhân. Trong
kết hợp cú pháp với vị từ, các tham tố đảm nhận một số vai nghĩa nhất định
(do một ngữ danh từ, một ngữ vị từ, một tiểu cú biểu hiện) như: vai tác thể,
vai hành thể, vai động thể, vai nghiệm thể, vai đương thể, vai tạo thể, vai tiếp
thể, vai mục tiêu, vai mục đích, vai phương thức, vai nội dung…
Ngữ pháp truyền thống vốn xem động từ (verb) và tính từ (adjective)
là những từ loại có khả năng làm vị ngữ (ngữ vị từ) của câu. Tuy nhiên,
theo Ngữ pháp chức năng, những từ tự thân làm ngữ vị từ không phải chỉ
có từ chỉ hành động (động từ), từ chỉ tính chất (tính từ) mà còn có các từ
chỉ trạng thái, tư thế…
Ví dụ: Nước hết rồi. Mưa đã tạnh. Cửa đã mở.
Chính vì vậy, S.C.Dik (1978) đã đưa ra một cách phân loại vị từ căn cứ
vào tính [± động], [± chủ ý], theo đó vị từ có bốn loại: vị từ hành động, vị từ
quá trình, vị từ tư thế, vị từ trạng thái.

25



×