Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Đề tài Đặc điểm kết trị của số từ trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.53 KB, 108 trang )



Ƣ



Ƣ

-----o0o-----

UYỄ







A

KẾ

ƢƠ

Ị ỦA Ố Ừ


Chuyên ngành:
Mã số:

U





gôn ngữ học
60.22.02.40

K

A

Người hướng dẫn khoa học:

.

- 2015



ê hị Lan Anh


L I CẢ

Ơ

Luận văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS ê hị Lan Anh. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo
hướng dẫn, người đã có đóng góp to lớn cho sự thành công của luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn khoa Ngữ văn và phòng Sau đại học
trường ĐHSP Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá

trình thực hiện luận văn.
Trong thời gian nghiên cứu, tác giả thường xuyên nhận được sự giúp
đỡ quý báu của các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ – khoa Ngữ văn – trường
ĐHSP Hà Nội.
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới gia đình, bạn
bè đã cổ vũ, động viên và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mai Hương






Ở ẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 10
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phạm vi nguồn ngữ liệu............. 10
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 11
6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 11
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 12
ƢƠ

1: Ơ Ở Ý

UYẾ ............................................................ 13


1.1. Khái quát về từ loại tiếng iệt và số từ tiếng iệt ............................. 13
1.1.1. Từ loại tiếng Việt: khái niệm và tiêu chí phân định ........................... 13
1.1.1.1. Khái niệm từ loại............................................................................ 13
1.1.1.2. Tiêu chí phân định từ loại .............................................................. 13
1.1.2. Quan niệm về số từ ............................................................................. 17
1.1.2.1. Quan niệm coi số từ là một tiểu loại của một số từ loại khác ...... 17
1.1.2.2. Quan niệm coi số từ là một từ loại độc lập với các từ loại khác .. 22
1.1.3. Đặc điểm và phân loại số từ trong tiếng Việt ..................................... 27
1.1.3.1. Ý nghĩa khái quát .......................................................................... 27
1.1.3.2. Khả năng kết hợp .......................................................................... 27
1.1.3.3. Chức vụ cú pháp ........................................................................... 27
1.1.3.4. Các tiểu loại của từ loại số từ........................................................ 28
1.2. Khái quát về kết trị và kết trị của số từ ............................................... 29
1.2.1. Khái niệm kết trị và kết trị của số từ ..................................................... 29
1.2.2. Nguyên tắc và các thủ pháp hình thức trong việc nghiên cứu kết trị của
số từ ................................................................................................................. 32
1.2.2.1. Nguyên tắc ..................................................................................... 32


1.2.2.2. Thủ pháp......................................................................................... 34
1.2.3. Cách xác dịnh kết trị của số từ ............................................................. 35
1.2.4. Phân loại kết trị của số từ ...................................................................... 36
1.2.4.1. Kết trị nội dung và kết trị hình thức ............................................... 36
1.2.4.2. Kết trị cơ sở và kết trị mở rộng ...................................................... 37
Tiểu kết chương 1........................................................................................... 39
ƢƠ

2:








KẾ



ỦA









ƢỢ

Ệ ................................................................................. 40

2.1. Khái quát chung về số từ chỉ số lƣợng trong tiếng iệt ..................... 40
2.1.1. Tổng quan về số từ chỉ số lượng trong tiếng Việt ................................ 40
2.1.2. Một số trường hợp đặc biệt ................................................................... 41
2.1.2.1. Trường hợp từ “một” ..................................................................... 41
2.1.2.2. Trường hợp từ “mấy” ..................................................................... 43
2.1.2.3. Trường hợp “một chút”, “một ít”, “một tí”,“một số”, “một vài” ........ 44
2.1.3. Bảng khảo sát các số từ chỉ số lượng trong tiếng Việt ......................... 49

2.2. ặc điểm kết trị ...................................................................................... 54
2.2.1. Mô hình kết trị chung của số từ chỉ số lượng ....................................... 54
2.2.2. Các kết tố của số từ chỉ số lượng .......................................................... 57
2.2.2.1. Kết tố cơ sở .................................................................................... 57
2.2.2.2. Kết tố mở rộng ............................................................................... 67
2.3. Khả năng hiện thực hóa của các kết tố cơ sở trong câu ..................... 68
2.4. ự chuyển nghĩa và thay đổi kết trị của số từ chỉ số lƣợng ............... 69
Tiểu kết chương 2........................................................................................... 73
ƢƠ

3:






KẾ



ỦA Ố



Ỉ Ố






Ệ ................................................................................. 74

3.1. Khái quát chung về số từ chỉ số thứ tự trong tiếng iệt .................... 74
3.1.1. Quan niệm về số từ chỉ số thứ tự trong tiếng Việt ................................ 74


3.1.2. Bảng khảo sát các số từ chỉ số thứ tự trong tiếng Việt ......................... 77
3.2. ặc điểm kết trị ...................................................................................... 79
3.2.1. Mô hình kết trị chung của số từ chỉ số thứ tự ....................................... 80
3.2.2. Các kết tố của số từ chỉ số thứ tự .......................................................... 81
3.2.2.1. Kết tố cơ sở .................................................................................... 81
3.2.2.2. Kết tố mở rộng ............................................................................... 91
3.3. Khả năng hiện thực hóa của các kết tố cơ sở của số từ chỉ số thứ tự
trong câu......................................................................................................... 93
3.4. o sánh kết trị của số từ chỉ số lƣợng và số từ chỉ số thứ tự trong
tiếng iệt ........................................................................................................ 94
3.4.1. Điểm giống nhau ................................................................................... 94
3.4.2. Điểm khác nhau .................................................................................... 94
Tiểu kết chương 3........................................................................................... 97
KẾ

U
ỆU

.................................................................................................... 98
A

K Ả .......................................................................... 100



Ở ẦU
1. í do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ học chức năng ra đời như một xu hướng phát triển tự
nhiên, đã khắc phục được “hạn chế” của ngôn ngữ học truyền thống và ngữ
pháp học dường như đã tìm thấy cho mình một hướng đi khả dĩ. Đặc biệt, lý
thuyết kết trị của L. Tesnière – một trong những lý thuyết đầu tiên của ngôn
ngữ học theo đường hướng ngôn ngữ học chức năng, ngữ nghĩa - ra đời vào
những năm 50, 60 của thế kỉ trước đã mở ra một hướng nghiên cứu mới về
ngữ pháp. Tiếp cận ngữ pháp theo đường hướng ngữ nghĩa, chức năng nhằm
chống lại ngữ pháp logic truyền thống, trong quan niệm của mình, Tesnière
chủ trương chuyển từ quan điểm coi câu có 2 đỉnh hay nút trung tâm sang
quan điểm coi câu có 1 đỉnh hay nút trung tâm (động từ). Lý thuyết này đã
được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới hưởng ứng mạnh mẽ.
1.2. Hòa chung với đời sống ngôn ngữ học thế giới, ở Việt Nam, lý
thuyết kết trị cũng nhanh chóng được vận dụng và hứa hẹn mở ra hướng
nghiên cứu mới đầy triển vọng về ngữ pháp nói chung và từ loại nói riêng.
Xuất phát điểm của lý thuyết kết trị là vấn đề từ pháp (từ loại), tuy nhiên lý
thuyết kết trị lại tập trung vào việc làm rõ khả năng kết hợp của từ, vì vậy nó
lại liên quan trực tiếp tới cú pháp. Đặc biệt với tiếng Việt, một ngôn ngữ
thuộc loại hình ngôn ngữ không biến hình từ, do từ không biến đổi hình thái
nên đặc điểm từ loại của từ lại bộc lộ chủ yếu trong hoạt động ngữ pháp của
từ: hoạt động cấu tạo cụm từ và cấu tạo câu. Vì vậy, việc nghiên cứu từ loại
tiếng Việt dưới góc nhìn của lý thuyết kết trị là một hướng nghiên cứu có cơ
sở thực tiễn, giúp tìm hiểu cú pháp của từ trong hoạt động cụ thể.
1.3. Từ loại là một vấn đề được nghiên cứu từ rất sớm trong ngữ pháp
học của các ngôn ngữ trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Mặc dù vậy, việc
nghiên cứu chủ yếu tập trung vào ba từ loại cơ bản là danh từ, động từ, tính

1



từ. Từ loại số từ trong tiếng Việt chiếm một vị trí không nhỏ trong đời sống
ngôn ngữ. Tìm hiểu về số từ, đặc biệt là theo lý thuyết kết trị, vẫn còn là một
khoảng trống mà nếu lấp đầy được sẽ giúp nhìn nhận hệ thống từ loại tiếng
Việt một cách toàn diện hơn.
Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi chọn đề tài “Đặc điểm
kết trị của số từ trong tiếng Việt” cho luận văn thạc sĩ của mình. Với đề tài
này, chúng tôi không có tham vọng bao quát được toàn bộ những vấn đề
của số từ, chỉ mong muốn sẽ góp phần làm rõ đặc điểm kết trị của số từ
trong hệ thống ngôn ngữ cũng như trong hoạt động hành chức của chúng,
làm dày thêm những công trình nghiên cứu về từ loại trong tiếng Việt nói
chung và số từ nói riêng.
2.

ịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu về lý thuyết kết trị
2.1.1. Tình hình nghiên cứu kết trị trên thế giới
Thuật ngữ kết trị (tiếng Nga: valentnost, tiếng Pháp: valence) vốn được
dùng trong hóa học để chỉ thuộc tính kết hợp của các nguyên tử với một số
lượng xác định các nguyên tử khác. Thuật ngữ này được dùng rộng rãi trong
ngôn ngữ học từ những năm 50 của thế kỉ XX để chỉ khả năng kết hợp của
các lớp từ hoặc các lớp hạng đơn vị ngôn ngữ nói chung.
Theo cách hiểu hẹp thì kết trị chỉ là thuộc tính kết hợp của động từ hoặc
một số từ loại nhất định. Lý thuyết kết trị (theo nghĩa hẹp) gắn với tên tuổi
của nhà ngôn ngữ học người Pháp L. Tesnière. L. Tesnière quan niệm, kết trị
chỉ là thuộc tính kết hợp của động từ. Trong cuốn “Các yếu tố của cú pháp
cấu trúc”, ông cho rằng: động từ trong vai trò mà ngữ pháp truyền thống gọi
là vị ngữ thực chất là thành tố hạt nhân, là cái nút chính của câu. Với vai trò

hạt nhân, động từ quy định số lượng và đặc tính của các thành tố có quan hệ

2


với nó. Các thành tố này, xét theo mức độ gắn bó với động từ được chia thành
thành tố bắt buộc – tương ứng với chủ ngữ và bổ ngữ truyền thống, và thành
tố tự do – tương ứng với trạng ngữ truyền thống. Những thành tố bắt buộc
được L. Tesnière gọi là diễn tố (actance), còn các thành tố tự do được gọi là
chu tố (circontance).
Vận dụng và kế thừa quan điểm của L. Tesnière, các nhà ngôn ngữ học
khác trên thế giới như: S.D Kasnelson, N.I.Tjapkina, A.M. Mukhin… đã làm
sâu sắc thêm lý thuyết kết trị.
Theo S.D Kasnelson (Liên Xô) thì “kết trị là thuộc tính của các lớp từ
nhất định kết hợp vào mình những từ khác” [dẫn theo 28; tr27]. Như vậy, ông
đã phân biệt kết trị với khả năng tham gia vào các mối quan hệ cú pháp nói
chung. Nghĩa là, mỗi từ về nguyên tắc đều có khả năng kết hợp với những từ
nhất định nào đó nhưng không có nghĩa là tất cả các từ đều có kết trị mà chỉ
có những từ có khả năng tạo ra các “ô trống” đòi hỏi làm đầy trong các phát
ngôn mới có kết trị. Theo đó, kết trị được xác định theo các ô trống bao quanh
từ và về nguyên tắc, không lớn (chẳng hạn, động từ thường không quá bốn vị
trí: chủ thể, đối thể trực tiếp, đối thể gián tiếp của hành động và những yếu tố “bổ
sung” hay bổ ngữ của động từ - là các yếu tố có ý nghĩa phụ thuộc vào ý nghĩa của
động từ). Như vậy, các yếu tố không phụ thuộc vào ý nghĩa của động từ như trạng
ngữ không phải là kết trị của động từ. Ông đặc biệt chú ý đến việc phân biệt kết
trị nội dung với kết trị hình thức, tức là phân biệt giữa kết trị biểu hiện mối
quan hệ ngữ nghĩa và kết trị biểu hiện mối quan hệ hình thức giữa các từ, gắn
với hình thái từ. Như vậy, với S.D Kasnelson, khái niệm các kiểu kết trị đã
được đặc biệt chú ý và những ý kiến của ông về việc phân biệt kết trị nội dung
và kết trị hình thức đã làm sâu sắc thêm lý thuyết kết trị. Từ đó, quan niệm về

kết trị của động từ đã được hiểu một cách chặt chẽ hơn chứ không phải là khả
năng kết hợp cú pháp chung chung.
3


Cũng bàn đến kết trị của động từ, cách hiểu của N.I.Tjapkina có phần
rộng hơn khi cho rằng kết trị của động từ được xác định dựa vào toàn bộ các
mối quan hệ cú pháp có thể có đối với nó. Tức là đồng nhất kết trị với khả
năng của từ tham gia vào các mối quan hệ cú pháp nói chung. Ông tiến hành
phân biệt kết trị chung (được xác định dựa vào toàn bộ các mối quan hệ cú
pháp có thể có đối với động từ) và kết trị hạt nhân (được xác định dựa vào
mối quan hệ của động từ với chủ thể và đối thể của nó) khi bàn đến các kiểu
kết trị của động từ.
Cũng với quan niệm rộng như N.I.Tjapkina, bên cạnh các kết trị bắt
buộc, A.M. Mukhin còn bàn đến các kết trị tự do như kết trị nguyên nhân,
phương tiện, mục đích…
Đến đây, khái niệm kết trị tuy vẫn được xác định trong phạm vi thuộc
tính cú pháp của từ nhưng việc chú ý đến các kết trị tự do và việc đồng nhất
kết trị với khả năng kết hợp của động từ khi tham gia vào các mối quan hệ cú
pháp nói chung của N.I.Tjapkina và A.M. Mukhin đã phản ánh phần nào
khuynh hướng phát triển, mở rộng nội hàm khái niệm kết trị.
Sau này, thuật ngữ kết trị được mở rộng sang cả các cấp độ và bình diện
khác của ngôn ngữ. M.D. Stepanova trong cuốn “Lý thuyết kết trị và việc
phân tích kết trị” đã viết: “Với mục đích tiêu chuẩn hóa về mặt thuật ngữ và
xuất phát từ cách biểu hiện phổ biến nhất trong ngôn ngữ học Xô Viết, trong
công trình này chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ kết trị theo cách hiểu rộng, nghĩa
là kết trị được hiểu là khả năng kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ cùng cấp độ
(chú ý đến toàn bộ các thuộc tính của chúng… kết trị đồng thời vừa là sự kiện
của ngôn ngữ vừa là sự kiện của lời nói” [dẫn theo 28; tr 29]. Theo đó, ngoài
kết trị của từ còn có kết trị của các đơn vị ngôn ngữ thuộc các cấp độ khác

nhau. Chẳng hạn, ngoài kết trị chủ động (kết trị của thành tố chính của mô
hình, có tính lựa chọn chủ động) còn có kết trị bị động (kết trị của thành tố bị

4


phụ thuộc, thành tố được lựa chọn của mô hình), ngoài kết trị cú pháp (kết trị
hình thức) còn có kết trị ngữ nghĩa (kết trị nội dung) và kết trị logic (khả năng
kết hợp từ vựng của từ).
Như vậy, lý thuyết kết trị đã được mở rộng từ phạm vi nghiên cứu
động từ sang các cấp độ khác của ngôn ngữ, từ bình diện cú pháp sang bình
diện logic- ngữ nghĩa. Ngữ pháp Cách (vai nghĩa) của Fillmore và lý thuyết
vị từ- tham thể sau này chính là một biến thể của lý thuyết kết trị. Nghiên
cứu ngữ pháp theo hướng kết trị là một hướng tiếp cận hấp dẫn của ngôn
ngữ học hiện đại.
2.1.2. Tình hình nghiên cứu kết trị ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nhà ngôn ngữ học đã nhanh chóng vận dụng lý thuyết
kết trị vào việc nghiên cứu cú pháp, từ pháp tiếng Việt.
Cao Xuân Hạo trong “Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng” (1991)
đã giới thiệu khái lược quan điểm của các nhà ngữ pháp chức năng nổi tiếng
như L. Tesnière, C. J. Fillmore, J. Lyons, C. Hagège, M. A. K Halliday và
khẳng định vai trò mở đường sáng lập quan trọng của L. Tesnière. Cao Xuân
Hạo đã vận dụng lý thuyết của các nhà ngôn ngữ trên vào việc phân loại câu
theo nghĩa biểu hiện của khung vị ngữ với năm loại câu cơ bản: câu tồn tại, câu
chỉ hành động, câu chỉ quá trình, câu chỉ trạng thái, câu quan hệ.
“Kết trị của động từ tiếng Việt” của Nguyễn Văn Lộc (2000) là công
trình đầu tiên vận dụng lý thuyết kết trị vào nghiên cứu động từ tiếng Việt.
Tác giả đã đi sâu nghiên cứu kết trị của động từ, tập trung vào hai kiểu kết
tố bắt buộc của động từ: kết tố chủ thể và kết tố đối thể. Không dừng lại ở
việc nghiên cứu thuộc tính kết trị của động từ, công trình còn đề cập đến

vấn đề sự hiện thực hóa kết trị của động từ trong lời nói. Có thể nói, đây là
chuyên luận duy nhất vận dụng trực tiếp và sâu sắc lý thuyết kết trị vào
nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt.

5


Tiếp theo có thể kể đến chuyên luận “Vị từ hành động tiếng Việt và các
tham tố của nó (so sánh với tiếng Nga và tiếng Anh)” của Nguyễn Thị Quy
(1995). Tác giả đã đề cập đến khái niệm diễn trị và phân định vị từ hành động
theo hai tiêu chí: tiêu chí diễn trị và tiêu chí [± tác động], từ đó tìm hiểu một
cách cặn kẽ các tiểu loại của vị từ hành động, cách diễn đạt các vai nghĩa của
khung vị ngữ “hành động” bằng các bổ ngữ của vị từ trong tiếng Việt.
Đặc biệt “Các bài giảng về từ pháp học tiếng Việt (từ loại nhìn từ bình
diện chức năng)” của Đinh Văn Đức (2010) đã bàn đến khái niệm ngữ trị
của L. Tesnière. Từ đó, tác giả chia ra hai loại ngữ trị của các từ loại là: các giá
trị có được do khả năng kết hợp có tính thường xuyên và đặc trưng cho mỗi từ
loại gọi là kết trị; và các giá trị có được từ các sàn diễn của từ ở trong câu gọi là
diễn trị. Theo đó, kết trị thuộc về loại giá trị ngữ pháp thường xuyên, biểu đạt
những giá trị cốt lõi của từ loại; diễn trị là loại giá trị lâm thời, gắn với việc
biểu đạt nội dung mệnh đề. Sự thống nhất giữa diễn trị và kết trị làm thành ngữ
trị của từ loại ấy.
Cho đến nay, tuy chưa được đưa vào giảng dạy ở các trường đại học,
nhưng lý thuyết kết trị đã được quan tâm, là nguồn gợi ý đề tài cho nhiều học
giả yêu thích. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: “So sánh đối
chiếu kết trị của động từ trong hai hệ thống ngôn ngữ Pháp- Việt và những
ứng dụng vào việc giảng dạy tiếng Pháp ngoại ngữ cho người Việt” (Đề tài
khoa học cấp Đại học Quốc gia của Phạm Quang Trường, ĐHQG Hà Nội),
“Phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung tiếng Anh và tiếng Việt” (Luận văn
Thạc sĩ của Hoàng Thu Huyền, 2011, Đại học KHXH & NV), “Nhóm tính từ

chỉ mùi vị trong tiếng Việt: đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị” (Luận văn Thạc sĩ
của Nguyễn Quỳnh Thu, 2013, ĐHSPHN), “Đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị
của vị từ nối kết trong tiếng Việt” (Luận văn Thạc sĩ của Bùi Thị Nga, 2014,
ĐHSPHN), “Đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của nhóm danh từ chỉ sự vật tự

6


nhiên trong thơ Hàn Mặc Tử” (Luận văn Thạc sĩ của Trần Thanh Nga, 2014,
ĐHSPHN), “Nhóm tính từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt: đặc điểm ngữ nghĩa
và kết trị” (Luận văn Thạc sĩ của Trần Ái Chin, 2014, ĐHSPHN).
Như vậy, lý thuyết kết trị đã được ứng dụng vào nghiên cứu cả ở lĩnh
vực cú pháp - chủ yếu ở bình diện nghĩa của câu và lĩnh vực từ pháp – chủ
yếu là các từ loại thực từ như danh từ, động từ, tính từ. Nghiên cứu đặc điểm
kết trị được xem xét trong sự tương tác với bình diện nghĩa… Đây sẽ là
những gợi ý quý báu cho đề tài.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về số từ tiếng Việt
Vấn đề từ loại đã được nghiên cứu từ rất lâu trong Ngôn ngữ học ngoại
quốc (từ thời Platon). Ở Việt Nam, tài liệu cũ nhất nói về từ loại là bài tựa
trong cuốn “Từ điển Việt- Bồ Đào Nha- Latinh” của Alêchxăngđrốt (in ngày
5.2.1651) [theo 25; tr126]. Trong phần ba của bài tựa, tác giả đã nói sơ qua về
ngữ pháp tiếng Việt (tiếng Miền Bắc) và chia từ tiếng Việt ra thành: danh từ,
đại từ, tính từ, động từ và những từ không biến hình.
Từ những năm 70 của thế kỉ XIX trở đi mới có những sách chuyên về
ngữ pháp tiếng Việt và vấn đề từ loại mới được nghiên cứu kĩ lưỡng hơn.
Tuy nhiên, nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt nói chung và từ loại tiếng
Việt nói riêng ở thời kì này chịu ảnh hưởng của ngữ pháp Latinh thời trung
cổ. Tức là, người ta áp dụng máy móc các quy tắc ngữ pháp của tiếng
Latinh vào ngữ pháp của tiếng Việt mà không quan tâm đến đặc điểm loại
hình tiếng Việt, dẫn đến hệ thống từ loại tiếng Việt là một sự mô phỏng

theo hệ thống từ loại châu Âu. Việc này đã tạo nên ngữ pháp duy lí khá phổ
biến trong một thời gian dài.
Trần Trọng Kim (trong cuốn Việt Nam văn phạm- Nxb Tân Việt, Sài
Gòn- 1950) là đại diện tiêu biểu cho ngữ pháp duy lí trong thời kì này, ông
chia từ tiếng Việt ra thành 13 loài (chữ dùng của Trần Trọng Kim): danh tự,

7


mạo tự, loại tự, chỉ định tự, đại danh tự, tĩnh tự, động tự, trạng tự, giới tự, liên
tự, tán thán tự, trợ ngữ tự, tiếng đệm.
Có thể thấy, hệ thống từ loại tiếng Việt ở trên là một sự mô phỏng theo
hệ thống từ loại của châu Âu, số từ dường như “vắng bóng” bởi nó chỉ được
xem là một từ loại “phụ”.
Trừ một số học giả xuất phát từ quan điểm hình thái học phủ nhận sự tồn
tại của phạm trù từ loại trong tiếng Việt (như Lê Quang Trinh, Nguyễn Hiến
Lê), các nhà Việt ngữ học khác đã căn cứ vào đặc điểm loại hình tiếng Việt để
xác lập những tiêu chí khác nhau mà phân định từ loại.
Theo hướng nghiên cứu ngữ pháp, nhìn chung, các nhà ngôn ngữ học
thường chỉ chú ý tới các từ loại tiêu biểu như danh từ, động từ, tính từ. Số từ
mặc dù là thực từ nhưng ít được nghiên cứu sâu, thường chỉ được nhắc đến
như một từ chứng của danh từ. Điều này có thể tìm thấy rất nhiều trong các
công trình ngữ pháp nói chung như: “Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt”
(Nguyễn Kim Thản), “Ngữ pháp tiếng Việt” (Đinh Văn Đức), “Sơ thảo ngữ
pháp Việt Nam” (Lê Văn Lý), “Từ loại tiếng Việt hiện đại” (Lê Biên), “Ngữ
pháp tiếng Việt hiện đại” (Hữu Quỳnh), Ngữ pháp tiếng Việt (bộ mới) (Diệp
Quang Ban), “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt” (Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị
Lương), “Giáo trình ngôn ngữ học” (Nguyễn Thiện Giáp)…
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về số từ trên bình diện ngữ pháp,
xuất hiện một số bài viết nghiên cứu về số từ theo hướng nghĩa học, dụng học

trong những công trình tìm hiểu về ngữ nghĩa của những con số trong các văn bản
cụ thể như của Đỗ Thị Kim Liên: Ngữ nghĩa của kết hợp từ có số từ chỉ lượng
một trong tục ngữ Việt Nam (Tạp chí Ngôn ngữ, số 15, 2002), Ngữ nghĩa của
những con số trong thơ Nguy n ính (Tạp chí Ngôn ngữ, số 7, 2005),…
Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu ngôn ngữ xuất phát từ mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hóa là một hướng nghiên cứu mới và triển vọng trong

8


nhiều năm trở lại đây. Có thể nói mọi sự vật đều được đánh dấu bằng những
con số và mỗi con số đều ngầm ẩn một ý nghĩa, một quan niệm nào đó mà
theo như Jean Chevalier, Alain Gheerbrant trong Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới: “Con số không phải như những kí hiệu mà là những dấu hiệu chỉ
chuyển tới muôn vàn cái được chỉ” [tr23]. Theo đó, tác giả Trần Gia Anh
trong các công trình Con số với ấn tượng dân gian (2003) và iến thức văn
hóa truyền thống - Con số dân gian (2007), đã quan tâm đến giá trị biểu trưng
của con số trong đời sống văn hóa của người Việt. Các tác giả Trần Ngọc
Thêm với Cơ sở văn hóa Việt Nam (1998) và Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam (2001), Trần Quốc Vượng với Cơ sở văn hóa Việt Nam (1997) và Văn
hóa Việt Nam – Tìm t i và suy ng m (2003), Phan Ngọc với ản sắc văn hóa
Việt Nam (1998) và Thử x t văn hóa – văn học b ng ngôn ngữ học (2000),
Nguyễn Đức Tồn với Tìm hiểu đặc trưng văn hóa – dân tộc qua ngôn ngữ và
tư duy ở người Việt (2002),… đã đề cập đến vị trí của con số trong văn học
dân gian, tính biểu trưng của con số trong nghệ thuật ngôn từ của người Việt.
Đặc biệt các tác giả đã hệ thống những quan niệm về con số trong đời sống xã
hội giữa các nền văn hóa khác nhau. Trần Văn Cơ khi giới thiệu một số bức
tranh ngôn ngữ về thế giới đã có những lí giải rất sâu sắc khi đề cập đến con
số với ý niệm “số phận” …
Nghiên cứu ngôn ngữ theo định hướng Ngữ pháp chức năng khá phổ

biến trong những năm gần đây. Có thể kể đến một công trình có liên quan
đến số từ: “Số từ chỉ số lượng trong tiếng Việt trên ba bình diện: kết học,
nghĩa học, dụng học” – Khóa luận tốt nghiệp, Lê Thúy Phương, Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2015. Trong đó, ở bình diện kết học, tác giả đi tìm hiểu đặc
điểm của số từ chỉ số lượng về khả năng kết hợp và chức vụ ngữ pháp. Nói
khác, xem xét đặc điểm ngữ pháp của số từ chỉ số lượng trên bình diện
hình thức của câu.

9


Như vậy, trong thời gian qua, số từ tiếng Việt đã được các nhà Việt ngữ
học quan tâm nghiên cứu trên một số bình diện. Tuy nhiên, tìm hiểu về đặc
điểm kết trị của số từ tiếng Việt vẫn đang là vấn đề còn bỏ ngỏ. Chúng tôi
mong muốn góp thêm một tư liệu nhỏ bé vào mảng nghiên cứu còn khá mới
mẻ và hấp dẫn này.
3.

ục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng đến mục đích: khảo sát và phân
tích, miêu tả đặc điểm kết trị của số từ trong tiếng Việt cả trong hệ thống và
trong hoạt động hành chức. Trên cơ sở đó, chúng tôi bước đầu đi tìm nguyên
nhân của một số kết hợp đặc biệt của số từ trong ngôn ngữ hành chức.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu như trên, luận văn cần thực hiện
các nhiệm vụ sau:
- Xác lập cơ sở lý thuyết về kết trị, về số từ tiếng Việt làm cơ sở cho
việc triển khai, nghiên cứu đề tài.

- Thu thập, khảo sát các ngữ liệu tiếng Việt có chứa số từ.
- Xác lập mô hình kết trị của số từ (số từ chỉ số lượng và số từ chỉ số
thứ tự); Phân tích và miêu tả các kết tố trong mô hình kết trị có chú ý đến sự
thay đổi kết tố khi nghĩa của số từ có sự biến đổi.
- Xem xét khả năng hiện thực hóa các kết tố cơ sở của số từ chỉ số
lượng và số từ chỉ số thứ tự trong câu.
4. ối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phạm vi nguồn ngữ liệu
Về đối tượng nghiên cứu: từ loại số từ trong tiếng Việt.
Về phạm vi nghiên cứu: Ngôn ngữ học hiện đại có thể xem xét số từ
dưới nhiều góc độ, nhiều phương diện khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn
thạc sĩ, chúng tôi giới hạn việc xem xét số từ tiếng Việt ở phương diện đặc

10


điểm kết trị. Ở đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu kết trị của những số từ thuần Việt
(trong đó, số từ đóng vai trò hạt nhân trong cụm từ và trong câu (kiểu câu nêu
đặc trưng); những số từ gốc tiếng Hán và gốc chữ số La Mã không thuộc
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Về phạm vi nguồn ngữ liệu: Nguồn ngữ liệu được sử dụng trong luận
văn chủ yếu được khảo sát từ cuốn Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam của
Vũ Ngọc Phan, Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng
Tám và một số tác phẩm của các tác giả có uy tín như: Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao, Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Nguyễn Nhật Ánh.
5. hƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành sử dụng các phương pháp, thủ pháp
nghiên cứu sau:
5.1. Thủ pháp thống kê, phân loại: tập hợp, phân loại các số từ trong
các ngữ liệu thu thập được, làm cơ sở cho việc xác định chính xác đặc điểm
kết trị của chúng.

5.2. Thủ pháp mô hình hóa: đây là thủ pháp quan trọng trong việc xác
lập mô hình kết trị của số từ trong hệ thống cũng như trong hoạt động.
5.3. Phương pháp phân tích, miêu tả: sau khi đã thống kê, phân loại tư
liệu, việc vận dụng phương pháp phân tích- miêu tả sẽ giúp chúng tôi chỉ ra
một cách cụ thể sự thể hiện đặc điểm kết trị của số từ tiếng Việt. Đồng thời,
phương pháp này còn được dùng trong quá trình giải thích, tường minh hóa
các mô hình kết trị của từ loại trong những trường hợp cụ thể.
6. óng góp của luận văn
6.1. Về mặt lí luận
Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng các lý thuyết ngôn ngữ của các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước vào việc tìm hiểu đặc điểm kết trị của số từ

11


tiếng Việt, luận văn đã góp phần hoàn thiện và bổ sung, làm phong phú
thêm lý thuyết kết trị. Đồng thời, luận văn khẳng định một hướng nghiên
cứu mới và triển vọng về từ loại tiếng Việt dưới góc nhìn ngữ pháp chức
năng, ngữ nghĩa.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu về đặc điểm kết trị của số từ tiếng Việt sẽ giúp cho
người học, người nghiên cứu có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về số từ
tiếng Việt, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu,
giảng dạy từ loại tiếng Việt nói riêng và ngữ pháp tiếng Việt nói chung.
7. ấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được triển
khai thành các chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Đặc điểm kết trị của số từ chỉ số lượng trong tiếng Việt
Chương 3: Đặc điểm kết trị của số từ chỉ số thứ tự trong tiếng Việt


12


ƢƠ

1: Ơ Ở Ý

UYẾ

Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể về đặc điểm kết trị của số từ trong tiếng
Việt, chúng tôi tiến hành xác lập một cơ sở lý thuyết chung về kết trị và về từ
loại số từ tiếng Việt làm căn cứ cho việc triển khai nội dung nghiên cứu.
1.1. Khái quát về từ loại tiếng iệt và số từ tiếng iệt
1.1.1. Từ loại tiếng Việt: khái niệm và tiêu chí phân định
1.1.1.1. hái niệm từ loại
Vốn từ của một ngôn ngữ nhất định có thể được nghiên cứu trên các bình
diện khác nhau như: bình diện ngữ âm, bình diện ngữ nghĩa và bình diện ngữ
pháp. Từ loại là kết quả của việc nghiên cứu vốn từ trên bình diện ngữ pháp.
Dựa trên những đặc điểm ngữ pháp giống nhau người ta có thể quy loại các từ
vào những lớp, những loại từ nhất định gọi là từ loại.
Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại đã chỉ ra rằng: “Chỉ sự
phân loại từ nào nh m mục đích ngữ pháp theo bản chất ngữ pháp của từ mới
được gọi là từ loại” [7; tr8]. Từ đó ông nói rõ hơn: “Từ loại – đó là sự phân
chia vốn từ của một ngôn ngữ cụ thể thành những loại, những hạng dựa trên
những đặc trưng ngữ pháp Sự quy loại một lớp từ nào đó vào một loại từ
nhất định được xác định bởi những đặc trưng về ngữ nghĩa, về hoạt động ngữ
pháp của nó (về hình thái học hoặc về cú pháp học trong việc thực hiện một
chức vụ cú pháp nhất định”. [7; tr8]
1.1.1.2. Tiêu chí phân định từ loại

Việc phân định từ loại là một nhu cầu tất yếu của nhận thức tư duy và là
một yêu cầu khách quan của nghiên cứu ngữ pháp học. Do vậy, từ loại đã
được nghiên cứu rất sớm trong lịch sử ngôn ngữ học và trở thành một vấn đề
cổ truyền bậc nhất của ngữ pháp học truyền thống. Mục đích của việc phân
định từ loại không chỉ nhằm thiết lập được một danh sách các từ loại của một

13


ngôn ngữ cụ thể mà chủ yếu giúp nhận thức được bản chất của từ loại, hiểu
được quy luật hoạt động của chúng, làm cơ sở cho việc áp dụng một cách có
hiệu quả vốn từ vào thực tiễn sử dụng ngôn ngữ.
Vấn đề cốt yếu đầu tiên cần được quan tâm trước khi tiến hành phân
định từ loại đó là xác định được tiêu chí phân loại. Tuy nhiên, xung quanh vấn
đề tiêu chí phân định từ loại tiếng Việt còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Những người chịu ảnh hưởng của ngữ pháp lô gích truyền thống
(Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Lân) chủ trương
phân định từ loại tiếng Việt dựa vào tiêu chuẩn ý nghĩa và phân chia vốn từ
tiếng Việt thành thực từ (biểu hiện ý nghĩa từ vựng) và hư từ (biểu hiện ý
nghĩa ngữ pháp), mỗi nhóm bao gồm nhiểu từ loại khác nhau. Việc phân loại
dựa trên tiêu chí này cũng có những hạn chế nhất định. Bởi vì nếu chỉ căn cứ
vào ý nghĩa ngữ pháp thì sẽ không thấy được sự thống nhất giữa ý nghĩa ngữ
pháp và hình thức ngữ pháp của từ và do đó không có tác dụng tích cực đối
với thực tiễn sử dụng từ vào hoạt động giao tiếp.
Một số tác giả (Phan Khôi, Lê Văn Lý, Nguyễn Tài Cẩn, Lưu Vân Lăng)
lại phân định từ loại dựa vào đặc điểm ngữ pháp của từ, cụ thể là dựa vào
chức vụ cú pháp và/ hoặc khả năng kết hợp. Tuy nhiên, ngôn ngữ tồn tại là để
biểu nghĩa, do vậy, hạ thấp hoặc bỏ qua đặc trưng ngữ nghĩa sẽ dẫn tới hạn
chế nhất định về năng lực giải thích.
Nhiều nhà Việt ngữ học như Nguyễn Kim Thản, Đinh Văn Đức đã tiến

hành phân định từ loại tiếng Việt dựa trên sự kết hợp cả hai tiêu chí: ý nghĩa
ngữ pháp và hình thức ngữ pháp. Đây là cách phân định từ loại khách quan và
rõ ràng, được sự thống nhất cao của các nhà nghiên cứu.
Quan điểm được nhiều nhà nghiên cứu chia sẻ là: coi từ loại là một phạm
trù từ vựng- ngữ pháp, do đó việc phân định từ loại tiếng Việt cần dựa vào cả
tiêu chí hình thức ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp. Các tiêu chí về hình thức

14


ngữ pháp trong nhận diện từ loại tiếng Việt phải chú ý những đặc điểm của
loại hình ngôn ngữ đơn lập (từ tiếng Việt không biến đổi hình thái; trật tự từ
và hư từ là những phương thức chủ yếu để diễn đạt các ý nghĩa và quan hệ
ngữ pháp; và tính phân tiết của âm tiết tiếng Việt). Cụ thể, phân định từ loại
tiếng Việt dựa trên một tập hợp các tiêu chí về ngữ nghĩa và ngữ pháp đó là:
- Ý nghĩa khái quát (ý nghĩa ngữ pháp):
Cơ sở đầu tiên để tập hợp và quy loại hàng loạt từ vào những loại,
những lớp từ, đó chính là ý nghĩa khái quát của từ. Ý nghĩa này là kết quả
của quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá các ý nghĩa cụ thể tồn tại trong
từng từ cụ thể thuộc lớp từ đó. Ý nghĩa khái quát của từ thực chất là một
loại ý nghĩa ngữ pháp chứ không phải là ý nghĩa từ vựng. Bởi vì nếu dựa
vào nghĩa từ vựng cụ thể của từng từ sẽ làm mờ đi sự đồng nhất của các từ
và nổi rõ lên nét nghĩa loại biệt, đối lập giữa các từ. Do đó việc tập hợp và
quy loại từ sẽ vô cùng khó khăn. Tiêu chí ý nghĩa khái quát của từ là một
tiêu chí quan trọng, vì ý nghĩa ngữ pháp khái quát của từ chi phối những
đặc điểm trong hoạt động ngữ pháp của từ.
- Khả năng kết hợp:
Từ tiếng Việt không biến đổi hình thái nên chỉ có thể bộc lộ đặc điểm
ngữ pháp dựa vào khả năng kết hợp với các từ xung quanh. Do đó, cần thiết
phải căn cứ vào khả năng kết hợp của từ với các từ xung quanh để xác định

đặc điểm ngữ pháp, bản chất từ loại của từ.
Năm 1948, Lê Văn Lý đã đề xuất tiêu chuẩn phân định từ loại tiếng Việt
dựa vào các từ chứng (thường chỉ kết hợp với một từ loại nhất định và có khả
năng làm chứng cứ cho bản chất từ loại đó). Năm 1960, Nguyễn Tài Cẩn đã
phát triển, điều chỉnh tiêu chí kết hợp với từ chứng thành tiêu chí: khả năng
cấu tạo một đoản ngữ (một cụm từ chính phụ) và được nhiều nhà Việt ngữ
học đồng tình.

15


Như vậy, khả năng kết hợp của từ không hiểu rộng rãi là sự kết hợp của
từ này với từ khác một cách bất kỳ mà là khả năng của từ trong việc cấu tạo
một cụm từ chính phụ. Căn cứ vào khả năng cấu tạo cụm từ chính phụ của từ
có thể thấy, có những từ loại có thể làm thành tố chính cho cụm từ nhưng
cũng có những từ loại chỉ có thể trong vai trò thành tố phụ của cụm từ. Lại có
những từ loại không có khả năng tham gia vào cấu tạo cụm từ mà chỉ làm
nhiệm vụ nối kết. Dựa vào những khả năng khác nhau ấy, rõ ràng có thể phân
định từ thành các từ loại khác nhau.
Trong số các từ loại có thể làm thành tố chính của cụm từ lại căn cứ vào
các từ phụ đặc trưng cho từng loại cụm từ (từ chứng) để phân định các từ –
thành tố chính. Ngược lại, các từ – thành tố phụ của cụm từ cũng được phân
định thành các tiểu loại căn cứ vào chỗ nó phụ thuộc vào các từ – thành tố
chính nào.
Đặc trưng về khả năng kết hợp của các lớp từ được xác định là dấu hiệu
chủ yếu về ngữ pháp có tác dụng quyết định trong việc phân định, quy loại
các lớp từ tiếng việt về mặt từ loại.
- Chức vụ cú pháp:
Đặc tính ngữ pháp, bản chất từ loại của các lớp từ không chỉ được thể
hiện ở khả năng kết hợp của từ trong cụm từ chính phụ mà còn được thể hiện

ra ở khả năng và cách thức đảm nhiệm những chức vụ cụ thể trong câu. Tuy
nhiên, vì một từ có thể giữ nhiều chức năng cú pháp trong câu nên cần phải
xem xét chức năng nào có tác dụng làm rõ đặc tính ngữ pháp của từ và giúp
cho việc phân biệt phạm trù từ loại này với phạm trù từ loại khác để dựa vào
đó làm căn cứ phân loại.
Có thể thấy, so với tiêu chuẩn khả năng kết hợp thì tiêu chuẩn dựa vào
chức năng ngữ pháp ít tác dụng hơn trong việc nhận diện và phân loại từ. Tác
giả Đinh Văn Đức đã khẳng định: “Từ loại là bản chất ngữ pháp tổng hợp

16


của từ Chức năng thành phần câu là chức vụ cú pháp của từ ở trong câu Cái
thứ nhất là bản chất, là ổn định, cái thứ hai là chức năng, là lâm thời Vậy thì
chỉ có thể dùng chức năng để soi sáng cho bản chất chứ không thể làm cơ sở
duy nhất cho sự phân loại” [17; tr36- 37]
Các tiêu chí trên có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phân định
từ loại. Bởi mỗi từ là một đơn vị ngôn ngữ hoàn chỉnh về nghĩa và ngữ pháp,
là sự thống nhất giữa hai mặt cái biểu hiện và cái được biểu hiện. Những biểu
hiện ngữ pháp trong hoạt động ngôn ngữ của từ gắn bó mật thiết với nội dung
ý nghĩa khái quát của chúng.
Dựa vào các tiêu chí phân loại trên, vốn từ tiếng Việt được phân thành
hai nhóm lớn và mỗi nhóm gồm các tiểu loại nhỏ như sau: nhóm thực từ
(gồm: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ) và nhóm hư từ (gồm: phụ từ,
quan hệ từ, tình thái từ). Đề tài của chúng tôi nghiên cứu về đặc điểm kết trị
của số từ, do đó chúng tôi chỉ tập trung đi sâu tìm hiểu về từ loại này.
1.1.2. Quan niệm về số từ
1.1.2.1. Quan niệm coi số từ là một tiểu loại của một số từ loại khác
a. Quan niệm coi số từ là một tiểu loại của danh từ
Một cách bao quát nhất, vốn từ tiếng Việt được phân chia thành hai

mảng lớn: thực từ và hư từ. Từ sự phân biệt khái quát trên, các nhà Ngữ pháp
học đã phân chia vốn từ tiếng Việt thành các từ loại cụ thể. Hệ thống từ loại
thể hiện quan điểm khác nhau của các tác giả về vấn đề từ loại tiếng Việt,
trong đó có số từ.
Trong chuyên luận “Ngữ pháp tiếng Việt” (Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn quốc gia, Nxb KHXH, 2003), Nguyễn Tài Cẩn chủ trương coi số
từ là tiểu loại của danh từ. Ông đã xếp các từ loại: danh từ, động từ, tính từ và
đại từ thuộc vào nhóm thực từ; các từ loại: phụ từ, kết từ thuộc vào nhóm hư
từ. Tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của ba từ loại danh từ, động từ, tính
từ trong hệ thống từ loại tiếng Việt và đã đi sâu nghiên cứu những từ loại này.

17


Tác giả phân chia danh từ thành những tiểu loại nhỏ như:
- Danh từ chỉ sự vật đơn thể (danh từ đơn thể): là những sự vật mà có
thể dễ nhận ra chúng tồn tại thành từng đơn thể: nhà, trâu, áo, xe, đu đủ...
- Danh từ chỉ sự vật tổng thể (danh từ tổng thể): là những sự vật tồn
tại thành một tổng thể bao gồm nhiều đơn thể gộp lại: quần áo, bàn ghế,
nhân dân...
- Danh từ chỉ loại thể sự vật (danh từ loại thể) bao gồm: sự vật đơn thể
tồn tại thành từng cái và sự vật đơn thể tồn tại thành từng con.
- Danh từ chỉ đơn vị sự vật (danh từ đơn vị): lít, mẫu, cân, sào, tấn...
- Danh từ chỉ sự vật trừu tượng (danh từ trừu tượng): tư tưởng, thái độ,
quan điểm, lập trường, trí tuệ...
- Danh từ chỉ số lượng sự vật (danh từ số lượng): một, hai, ba, mười,
một trăm,... những, các, mấy,... tất cả, số đông, phần lớn...
- Danh từ chỉ vị trí (danh từ vị trí): trên, dưới, trong, ngoài, sau, trước...
Nhìn vào sự phân loại trên, có thể thấy, tác giả đã xếp những từ chỉ số
lượng sự vật thành một nhóm của danh từ. Nguyễn Tài Cẩn đã lí giải rằng sự

vật dù đơn thể hay tổng thể thì trong thực tiễn chúng luôn bao hàm, đi kèm
với nghĩa số lượng, do đó, có thể coi những từ kể trên là danh từ. Mặc dù coi
chúng là danh từ, song tác giả vẫn lưu ý rằng “về mặt nghĩa cũng như ngữ
pháp v n có những điểm khác nhau giữa tiểu loại danh từ này với những tiểu
loại danh từ khác Đáng chú ý là danh từ số lượng, trừ trường hợp đặc biệt,
không dùng làm chính tố trong ngữ mà chỉ làm phụ tố” [8; tr99].
Trong khi liệt kê những danh từ chỉ lượng, tác giả có kể vào những từ
như: những, các, mấy... So với một, hai, ba, mười, một trăm... (có ý nghĩa
thực thể tinh thần “vật- số đếm”, có khả năng làm thành tố chính trong cụm từ
chính phụ với những phụ từ chuyên dụng của nó như: khoảng, độ, chừng) thì
những từ trên hoàn toàn không có ý nghĩa thực thể và không thể đảm nhiệm

18


vai trò làm thành tố chính trong cụm chính phụ mà chỉ có thể đi kèm với các
danh từ khác, bổ sung ý nghĩa về lượng cho các danh từ đó.
Như vậy là, theo ông vẫn có thể tách những từ chỉ số lượng thành một từ
loại riêng vì những sự khác nhau cơ bản đó.
b. Quan niệm coi số từ là một tiểu loại của lượng từ
 Quan niệm của Cao Xuân Hạo
Một trong những người chủ trương coi số từ là một tiểu loại của lượng từ
là tác giả Cao Xuân Hạo. Trong chuyên luận nghiên cứu về Ngữ pháp chức
năng tiếng Việt (Q2: Ngữ đoản và từ loại- Nxb Giáo dục, H, 2005), khi bàn
đến hình thức ngữ pháp của lượng ngữ - một ngữ đoạn có chức năng cung cấp
thêm những thông tin về số lượng chính xác hoặc không chính xác của tham
tố sự tình, tác giả đã chỉ ba yếu tố dùng để biểu đạt đó là: 1/ Lượng từ; 2/
Quán từ; 3/ Những từ ngữ khác diễn đạt ý về lượng. Trong đó, lượng từ được
định nghĩa “là từ dùng làm một lượng ngữ để chỉ lượng xác định hoặc không
xác định” [22; tr100] và được chia ra làm hai loại: lượng từ xác định và lượng

từ không xác định. Lượng từ xác định được tác giả gọi là số từ- những từ chỉ
số lượng. Mặc dù có nói về chức năng của số từ trong cấu trúc cú pháp của
ngữ danh từ (số từ đứng trước trung tâm thì làm lượng ngữ, đứng sau trung
tâm thì là định ngữ chỉ lượng, chỉ thứ tự hoặc để gọi tên) nhưng trong khi
phân loại, tác giả chỉ chia số từ ra làm hai loại là số từ chỉ số lượng chính xác
và số từ chỉ số lượng ước chừng.
 Quan niệm của Nguy n Thiện Giáp
Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Giáo trình ngôn ngữ học” (Nxb Đại học
Quốc gia, 2008) đã phân chia vốn từ tiếng Việt thành 12 loại là: danh từ, đại từ,
vị từ, tính từ, lượng từ, trạng từ, giới từ, liên từ, thán từ, quán từ, tiểu từ, hệ từ.
Nói riêng về lượng từ (quantifier), tác giả định nghĩa đây “là những từ
chỉ lượng xác định hoặc không xác định” [19; tr263]. Theo đó, ông đã phân

19


chia từ loại này thành hai tiểu loại nhỏ là lượng từ xác định và lượng từ không
xác định. Lượng từ không xác định là những từ như: mấy, mỗi, từng, mọi, tất
cả, cả...làm định ngữ trước cho danh từ đơn vị làm trung tâm trong ngữ danh
từ. Lượng từ xác định được tác giả cho rằng đó chính là các số từ (numeral)
và tiếp tục phân chia ra thành số từ chỉ số lượng chính xác (một, hai, ba, bốn,
năm, sáu, bảy, tám...) và số từ chỉ số lượng ước chừng (vài, dăm, mươi...).
Như vậy, trong khi chỉ ra rằng số từ là một tiểu loại của lượng từ, tác giả cũng
đã đồng thời phân chia số từ thành hai loại nhỏ hơn. Điều này cho thấy, số từ
là một tiểu loại khá rõ ràng và không mấy khó khăn trong việc phân tách nó.
Có thể thấy rằng, Cao Xuân Hạo và Nguyễn Thiện Giáp có nhiểu điểm
tương đồng với nhau trong quan niệm về từ loại số từ.
c. Quan niệm coi số từ là một tiểu loại của chỉ định từ
Trần Trọng Kim trong sách “Việt Nam văn phạm” (Sài Gòn, 1950) đã
“dựa vào phương pháp của Tây mà phân ra các tự loại” [25; tr9] của tiếng

Việt. Ông chia ra làm 13 loài hay từ loại và chủ trương xếp số từ vào chỉ định
từ. Trong đó, chỉ định từ được chia ra làm 4 loại:
- Chỉ thị chỉ định từ
- Số mục chỉ định từ
- Nghi vấn chỉ định từ
- Phiếm chỉ chỉ định từ
Số mục chỉ định từ được chia làm 2 loại như sau:
* Lượng số chỉ định từ: gồm có
- Những số đếm: năm, tám, mười lăm...
- Lượng số chỉ định từ chỉ một lượng nhiều hay ít:
+ Lượng số chỉ định từ chỉ một lượng nhỏ: mấy, ít, vài, năm ba, năm
bảy, thiểu số
+ Lượng số chỉ định từ chỉ mỗi đơn vị của một toàn số: mỗi, từng

20


×