Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.73 KB, 44 trang )

Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết hình thành chuyên đề
Cải cách Viện kiểm sát nhân dân là một trong những nội dung quan trọng
của cải cách bộ máy Nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng nhằm
mục tiêu xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong
những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
Các chủ trương về cải cách tư pháp của Đảng ta được thể hiện trong các văn
kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội lần thứ VIII, IX và X. Đặc biệt, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW), nghị quyết đã nêu rõ “ Trước
mắt Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được
tổ chức phù hợp với hệ thống Tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát
nhân dân thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt
động điều tra1. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức X của
Đảng đã nhấn mạnh “xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cải cách tư pháp khẩn
trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; xây dựng cơ chế
công tố gắn với hoạt động điều tra”2.
Như vậy, một lần nữa, trong lịch sử phát triển của nền tư pháp nước ta,
vấn đề phát triển cơ quan Viện kiểm sát lại trở thành vấn đề trung tâm, theo
nghĩa: trong nội dung chuyển đổi từ một mô hình tổ chức hiện có sang một mô
hình mới với chức năng thay đổi. Do đó, trách nhiệm của chúng ta là phải chủ


động và nổ lực trong việc nghiên cứu, hình thành những tư tưởng mới về mô
hình hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình cải cách và hội nhập
quốc tế.
1

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

2

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng – Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, trang 127

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 1


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

Đề thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 22/2/2006
Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành kế hoạch số 05KH/CCTP giao cho Ngành kiểm sát nhân dân chủ trì thực hiện nhiệm vụ
“nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp; chuẩn bị điều kiện để sắp xếp tổ
chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân các cấp cho phù hợp với việc đổi mới
mô hình tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử sẽ được thực hiện sau năm
2010” 3.
Ngày 19/9/2007, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành
Chương trình số 06-CTr/CCTP về chương trình trọng tâm công tác cải cách tư
pháp đến hết năm 2008, giao cho Viện kiểm sát nhân dân chủ trì phối hợp với
các cơ quan hữu quan triển khai nghiên cứu, xây dựng Đề án về mô hình tổ chức

bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư
pháp.
Qua tổng kết thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
gần 50 năm qua cho thấy, bằng những kết quả trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình, Ngành kiểm sát đã góp phần tích cực vào thắng lợi vĩ đại
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền nam thống nhất đất
nước, bảo vệ và xây dựng xã hội chủ nghĩa; góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm
các quyền dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên, qua hơn 20 năm đổi mới toàn diện
đất nước, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý đã có những thay đổi sâu
sắc, tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung và Viện
kiểm sát nói riêng đã bộc bộ những hạn chế, bất cập, cần phải được cải cách
mạnh mẽ, toàn diện để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm và vi
phạm pháp luật, phục vụ tích cực sự nghiệp phát triển của đất nước trong tình
hình mới.
Tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nhất là
các nước có điều kiện vế chính trị và truyền thống pháp luật tương đồng với Việt
Nam cho thấy, cơ quan kiểm sát, cơ quan công tố có vị trí rất quan trọng trong
bộ máy Nhà nước. Hiện nay, nhiều quốc gia đang tiến hành đẩy mạnh cải cách
tư pháp, trong đó có xu hướng ngày càng khẳng định mạnh mẽ hơn vai trò của
cơ quan kiểm sát, cơ quan công tố trong hệ thống bộ máy Nhà nước, đồng thời
3

Kế hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22/2/2006 của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 2



Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

mở rộng phạm vi, thẩm quyền của cơ quan kiểm sát, cơ quan công tố vượt ra
khỏi lĩnh vực hoạt động truyền thống là tố tụng hình sự sang các lĩnh vực hành
chính, dân sự, thương mại, thi hành án....
Theo chủ trương cải cách tư pháp đã được nêu trong các Nghị quyết của
Đảng, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát trong thời gian tới sẽ được tổ chức lại
phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án. Có rất nhiều vấn đề quan trọng cần phải
được nghiên cứu, giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vấn đế có ý nghĩa
quyết định là phải định rõ mô hình tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát, quan hệ
giữa Viện kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác, giữa Viện kiểm sát với các bộ
phận khác của hệ thống chính trị. Để phù hợp với bối cảnh chung đó, việc cải
cách hệ thống các cơ quan Nhà nước trong đó có cải cách hệ thống các cơ quan
tư pháp cũng được tiến hành và thực hiện những bước đổi mới quan trọng cả về
mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành
án và các cơ quan bổ trợ tư pháp khác. Nhiều vấn đề lớn về chính sách tư pháp
bao gồm chính sách về hình sự, dân sự... đã thực hiện những bước đổi mới trong
tư duy và trong tổ chức thực hiện, tạo ra những tiền đề căn bản cho sự hoàn
thiện và phát triển của các cơ quan tư pháp thực hiện có hiệu quả hơn việc chống
và phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật khác.
Mặt khác, tình hình tội phạm hiện nay đang có chiều hướng gia tăng, tính
chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng; các tranh chấp, khiếu kiện về dân sự,
hành chính...có nhiều phức tạp. Dó đó, đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải là công
cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
xã hội và mọi công dân. Vì vậy, trước nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước
trong tình hình mới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng Nhà nước Việt
Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa, muốn vậy phải thực hiện chiến lược Cải cách
tư pháp nói chung và cải cách cơ quan Viện kiểm sát nói riêng.
Trong khoảng hai mươi năm qua, trên nền tảng chung của sự nghiệp đổi

mới, Viện kiểm sát nhân dân rõ ràng không thể giữ nguyên tổ chức và hoạt động
như cũ được nữa. “Không những thế, Viện kiểm sát nhân dân đã là cơ quan đi
đầu trong quá trình đổi mới, thực hiện việc đổi mới sâu rộng cả về mặt tổ chức
đến phương hướng, phương châm công tác kiểm sát, đóng góp một phần quan
trọng vào thành tựu của sự nghiệp đổi mới, những công việc mà Viện kiểm sát

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 3


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

đã làm trong mấy năm qua đã đi đúng những chủ trương, chính sách của Đảng
về cải cách tư pháp 4”.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của chuyên đề
Qua bài viết, trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học, cùng với sự tìm hiểu, tổng hợp các vấn đề đang tồn tại từ thực tiễn
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay,
từ đó góp phần làm rõ thêm vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà
nước cũng như trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay; góp phần khắc phục
những hạn chế đang tồn tại từ thực tiễn hoạt động của mình.
Xuất phát từ những vấn đế nêu trên, việc triển khai nghiên cứu, xây dựng
Đề án mô hình tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong
tiến trình cải cách tư pháp là hết sức cần thiết nhằm thực hiện một cách kịp thời,
đầy đủ, nghiêm túc các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp nói chung và
cải cách cơ quan Viện kiểm sát nói riêng theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị, góp phần hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn tổ

chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thời gian qua. Đổi mới Viện
kiểm sát để nâng cao vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước,
xây dựng Viện kiểm sát trở thành cơ quan công tố mạnh, đáp ứng yêu cầu đấu
tranh, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới.
Do điều kiện về thời gian và các điều kiện khác nên người viết không thể
nghiên cứu hết tất cả các lĩnh vực mà phạm vi chuyên đề này, người viết chỉ
phân tích những vấn đề về lý luận và thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong thời gian qua, những vấn đề về đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp nhằm góp phần hoàn thiện hơn tổ chức
và bộ máy Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

PHẦN NỘI DUNG
4

Những chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới -

TS Khuất Văn Nga.

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 4


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế
I. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY

1.1. Quá trình hình thành Viện Công tố (tiền thân của Viện kiểm sát
nhân dân hiện nay) từ năm 1945 đến năm 1959

Lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân gắn liền với
quá trình phát triển của Nhà nước cách mạng Việt Nam. Từ tháng 9 năm 1945
đến trước năm 1958, sự phát triển và hình thành của ngành Công tố gắn liền với
quá trình xây dựng và phát triển ngành Tòa án, cơ quan Công tố được tổ chức
bên trong hệ thống Tòa án. Trên cơ sở Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946, Sắc
lệch số 15/SL ngày 17/4/1946... theo các Sắc lệnh nêu trên, Cơ quan Công tố
nằm trong cơ cấu, tổ chức của Tòa án. Hệ thống Tòa án được tổ chức thành ba
cấp gồm: Tòa sơ cấp, Tòa đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm được tổ chức ở Bắc kỳ,
Trung kỳ và Nam kỳ (Điều 7, 12 và Điều 35 Sắc lệnh số 13).Về thẩm quyền của
cơ quan Công tố: theo Sắc lệnh số 15/SL ngày 17/4/1946, các Công tố viên có
các nhóm thẩm quyền như: thẩm quyền tư pháp cảnh sát (điều khiển công việc
và giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát); thực hành quyền công tố (là
người buộc tội nhân danh Nhà nước); tham gia các phiên tòa hộ (dân sự), có
quyền yêu cầu Tòa án thi hành mọi phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật,
có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi các vi thành niên, của các pháp nhân hành chính;
có nhiệm vu thi hành những bản án đã có hiệu lự pháp luật, quản trị tòa án, điều
khiển và kiểm soát các công việc của tất cả các nhân viên trong tòa án, trừ Thẩm
phán xử án; Kiểm soát công việc quản trị lao tù, khám xét sổ sách cùng ngân
quỹ của các phòng công lại và khám xét các sổ hộ tịch trong quản hạt;có quyền
kháng cáo bản án hình sự đã tuyên.v.v. (các Điều 21, 22, 29, 28, 30, 31, 32 Sắc
lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946). Riêng người đứng đầu Viện công tố của Toà
thượng thẩm (Chưởng lý) còn có cả nhiệm vụ giám sát việc thi hành các đạo
luật, sắc lệnh và quy tắc hiện hành trong quản hạt của mình (Điều 40 Sắc lệnh số
51/SL).
Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I, Nghị quyết ngày 29/4/1958 của Quốc
hội khóa I, Nghị định 256/TTg ngày 01/7/1959, Nghị định số 321/TTg ngày
02/7/1959 của Chính phủ, Viện công tố được tổ chức thành một hệ thống cơ
quan độc lập, có tổ chức từ Trung ương đến địa phương, tách khỏi tổ chức của
Tòa án và sự quản lý của Bộ Tư pháp, Viện công tố Trung ương được đặt trực
thuộc Hội đồng Chính phủ. Theo đó, hệ thống cơ quan Công tố gồm có: Viện

công tố Trung ương (có địa vị pháp lý ngang với Bộ); Viện công tố phúc thẩm
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 5


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

đặt ở Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Khu tự trị Việt bắc, Khu tự trị Thái – Mèo; Viện
công tố thành phố Hà Nội, Hải Phòng; Viện công tố khu Hồng Quảng; Viện
công tố các tỉnh và khu vực Vĩnh Linh;Viện công tố huyện và các đơn vị hành
chính tương đương. Viện Công tố có nhiệm vụ chung là “Giám sát việc tuân thủ
pháp luật và chấp hành pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự
những kẽ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an
ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm
công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi”. Những
quy định này của pháp luật đã xác định tương đối cụ thể và rõ ràng vị trí, vai trò,
chức năng, thẩm quyền của Viện công tố trong bộ máy Nhà nước ta. Cùng với
các quy định về tổ chức hệ thống Toà án nhân dân các cấp, hệ thống các cơ quan
Công tố được thiết lập từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện là bước phát triển
mới của các cơ quan Công tố và cũng là bước chuẩn bị cho việc chuyển các cơ
quan Công tố thành hệ thống Viện kiểm sát nhân dân vào năm 1960.
Như vậy, Sau khi nước Nhà giành được độc lập, bằng các sắc lệnh đầu
tiên của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã từng bước
thiết lập và kiện toàn các cơ quan tư pháp (Toà án và Công tố) của Nhà nước
kiểu mới của nhân dân. Khi xây dựng các cơ quan tư pháp của chính quyền nhân
dân, trong đó có cơ quan Công tố, Nhà nước ta không hoàn toàn đoạn tuyệt và
phủ nhận mà đã tiếp nhận, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm thực tiễn tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố đã

từng được thiết lập và duy trì ở nước ta; tuy nằm trong cơ cấu Toà án nhưng
Chánh án không có quyền điều khiển và kiểm soát các Công tố viên; Viện công
tố chịu sự quản lý của Bộ Tư pháp nhưng Bộ trưởng Tư pháp không có quyền
trực tiếp làm nhiệm vụ công tố; và cuối cùng là thành lập hệ thống các cơ quan
Công tố tách ra khỏi cả Toà án, cả Bộ Tư pháp để trở thành một hệ thống độc
lập. Chức năng, thẩm quyền của cơ quan Công tố không chỉ giới hạn ở thực
hành quyền công tố, không chỉ điều khiển, giám sát hoạt động điều tra mà còn
trực tiếp tiến hành điều tra và thực hiện cả sự giám sát đối với các hoạt động tư
pháp và tham gia hoạt động tố tụng dân sự, có quyền kháng cáo cả bản án hình
sự và bản án dân sự.
1.2. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1960, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân được thành lập với chức
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 6


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Như vậy, hệ
thống các cơ quan Công tố trực thuộc Chính phủ đã được chuyển thành hệ thống
Viện kiểm sát nhân dân các cấp hoàn toàn độc lập với Chính phủ, tổ chức theo
những nguyên tắc hoàn toàn mới, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan kiểm
sát các cấp được mở rộng hơn nhiều so với các cơ quan Công tố trước đó ở nước
ta, cũng như so với Viện công tố của các nước hiện nay. Đây là hệ thống cơ
quan Nhà nước hoàn toàn mới cả về vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền và
nguyên tắc tổ chức, hoạt động trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước của ta. Cụ

thể là: về tổ chức, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương hoặc đơn vị hành chính tương đương; Viện kiểm sát nhân dân các huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc đơn vị hành chính tương đương; Viện kiểm sát
quân sự các cấp (Điều 105 và Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960). Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, Viện kiểm sát nhân dân là một hệ
thống độc lập, tập trung thống nhất trong toàn ngành, đứng đầu là Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Vấn đề đặt ra là tại sao chúng ta lại thay hệ thống Viện công tố trực thuộc
Chính phủ, chỉ thực hiện chức năng công tố vừa mới được thiết lập trước đó
bằng một hệ thống cơ quan Nhà nước mới là Viện kiểm sát nhân dân? Viện
kiểm sát nhân dân do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đứng đầu, có
địa vị pháp lý hoàn độc lập và tương ứng với các cơ quan Nhà nước then chốt ở
Trung ương (Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chính phủ - Toà án nhân dân tối
cao), tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất toàn ngành,
Viện kiểm sát nhân dân không chỉ tiếp tục thực hiện chức năng công tố mà còn
thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung) đối
với các văn bản của các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương (trừ
Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Nước, Chính phủ). Sự thay
đổi này không vội vã và cũng không sao chép một cách máy móc mô hình tổ
chức của Viện kiểm sát Liên Xô được thành lập năm 1922 theo nguyên lý tổ
chức và chức năng, thẩm quyền mà V.I. Lênin đã đề ra trong tác phẩm “Về chế
độ song trùng trực thuộc và pháp chế” mà xuất phát từ “nhu cầu của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân
dân, giữa nhân dân và Nhà nước, cũng như giữa các ngành hoạt động Nhà
nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 7



Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên
phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất” 5 .
Như vậy, lý do chuyển Viện công tố thành Viện kiểm sát là nhằm thiết lập
một hệ thống cơ quan Nhà nước mới có chức năng chuyên kiểm sát (giám sát)
việc tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được thực
hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, ngăn ngừa tình trạng cục bộ địa phương, cục
bộ bản vị của các ngành, các cấp. Để thực hiện được chức năng mới này, hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân phải được tổ chức theo nguyên tắc đặc thù khác
hẳn các cơ quan Nhà nước khác: Nguyên tắc độc lập, tập trung thống nhất trong
toàn ngành đứng đầu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ chịu trách nhiệm, báo cáo công tác
trước Quốc hội và cơ quan thường trực của Quốc hội khi Quốc hội không họp.
Các Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương các cấp do Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, chỉ chịu sự Lãnh đạo của Viện kiểm
sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
1.3. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp năm 1980 (sửa đổi năm
1989 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981
Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981
quy định về vị trí, chức năng, thẩm quyền, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân các cấp về cơ bản kế thừa các quy định của Hiến pháp
năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Điểm khác biệt rõ
nhất là Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981

là không những ghi rõ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan
Nhà nước từ cấp Bộ trở xuống, các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các
nhân viên Nhà nước và công dân, mà còn nhấn mạnh chức năng thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 138 Hiến pháp 1980, Điều 1
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981).
Để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành
quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, trong Báo cáo của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp năm 1980 tại kỳ họp thứ bảy
5

Tờ trình Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 8


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

Quốc hội khoá VI ngày 12/12/1980 đã khẳng định lại nguyên tắc cốt lõi có tính
đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân như sau: “Ngành Kiểm sát nhân dân tổ
chức theo chế độ thủ trưởng và tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành.
Viện trưởng và Kiểm sát viên tỉnh, thành, huyện và cấp tương đương do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm... chế độ Thủ trưởng và sự lãnh
đạo tập trung, thống nhất trong toàn ngành Kiểm sát bảo đảm cho Viện kiểm sát
nhân dân không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan Nhà nước nào ở địa phương, bảo
đảm hành động nhất trí, hoạt động nhạy bén, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp
thời các việc làm vi phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước và công dân”.
1.4. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm

2001) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 và năm 2002
1.4.1. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VII) ngày 04/12/1991 về chỉ đạo xây dựng Hiến pháp năm
1992 đã kết luận Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ hai chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và chức năng công tố. Kết luận này đã được thể hiện trong
Điều 137 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1992. Song Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1992 đã có những quy định khác Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1981 liên quan đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân:
- Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ ban kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân các địa phương không còn là cơ quan tư vấn cho Viện
trưởng nữa mà có quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan
trọng. Luật quy định 4 loại vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định theo đa số của
Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và 3 loại vấn đề thuộc thẩm
quyền quyết định theo đa số của Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân các
địa phương (Điều 138 Hiến pháp 1992, khoản 2 Điều 28 và khoản 2 Điều 30
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992).
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của
Hội đồng nhân dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân
về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương, về công tác của Viện kiểm sát ở
địa phương; trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 140 Hiến
pháp năm 1992, Điều 7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992).
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 9


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động

của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

1.4.2. Thực hiện các Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần
thứ VII. VIII, IX và X, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2001 của Bộ Chính
trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược Cải cách
tư pháp đến năm 2020”, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan Viện kiểm
sát đã có những thay đổi quan trọng cụ thể như sau:
- Để làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp,Viện kiểm sát nhân dân các cấp thôi không thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội;
phạm vi, thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát được thu hẹp
theo hướng Cơ quan điều tra chỉ điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; phạm vi kiểm sát
dân sự được thu hẹp theo hướng Viện kiểm sát thôi không thực hiện thẩm quyền
khởi tố vụ án dân sự, không tham gia 100% các phiên toà xét xử sơ thẩm và
phúc thẩm dân sự mà tập trung vào kiểm sát các bản án, quyết định của cơ quan
xét xử như: quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp, tạm thời, quyết định và bản
án sơ thẩm, phúc thẩm..., tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu
thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án, các vụ, việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị các bản án,
quyết định của Toà án.
- Về tổ chức, bộ máy, giải thể các đơn vị thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát
chung) ở Viện kiểm sát các cấp; giải thể các phòng điều tra ở Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh.
- Quán triệt quan điểm của Nghị quyết số 08-NQ/TW “hoạt động công tố
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm
bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội”, thực hiện Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, Viện kiểm sát thực hiện thẩm quyền phê chuẩn quyết

định khởi tố bị can, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm
giữ, tạm giam của Cơ quan điều tra; thực hiện việc tranh luận dân chủ tại phiên
toà; thực hiện việc tăng thẩm quyền đối với các Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện phù hợp với thẩm quyền xét xử của Toà án.
- Về chế định Kiểm sát viên, Điều tra viên; tiêu chuẩn về trình độ, chuyên
môn nghiệp vụ, năng lực công tác và phẩm chất chính trị đối với Kiểm sát viên,
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 10


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

Điều tra viên theo đặc thù công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp đã được cụ thể hoá bằng các quy định của pháp luật và thực
hiện trên thực tế chế độ bầu Kiểm sát viên, Điều tra viên, thay bằng chế độ
tuyển chọn, bổ nhiệm.
1.4.3. Như vậy, hiện nay theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (được
sửa đổi bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,
hệ thống cơ quan Viện kiểm sát được tổ chức theo đơn vị hành chính gồm: Viện
kiểm sát nhân dân tố cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương (gồm Viện
kiểm sát nhân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Viện kiểm sát nhân
dân các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và Viện kiểm sát quân sự
(bao gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân khu và tương
đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực). Về chức năng, Viện kiểm sát có chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (kiểm sát tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra và các
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát
tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết

các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc
thi hành các bản án, quyết định của Toà án; kiểm sát tuân theo pháp luật trong
việc tạm giữ, tạm giam quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; kiểm sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hạot động tư pháp của các cơ quan tư
pháp). Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát có nhiệm vụ góp phần
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân , bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng,
sức khoẻ, tài sản, tư do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi
hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của công
dân điều phải được xử lý theo pháp luật. Về hệ thống, tổ chức của Viện kiểm sát
nhân dân, không bao gồm Viện kiểm sát quân sự “hiện nay trên toàn quốc có
743 Viện kiểm sát gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 64 Viện kiểm sát cấp
tỉnh và 678 Viện kiểm sát cấp huyện” 6. Về cơ cấu, tổ chức, Viện kiểm sát nhân
dân tố cao có Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
quân sự Trung ương, Vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án kinh tế,
chức vụ, Vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án trật tự xã hội, Vụ
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án tham nhũng, Vụ thực hành quyền
6

Tiến sỹ Lê Hữu Thể - Tạp chí kiểm sát số 14-16 năm 2008 (số liệu năm 2008)

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 11


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế


công tố, kiểm sát điều tra án ma tuý, Vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra án an ninh, Vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử án hình sự, Vụ kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, Vụ
kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, Cục điều tra, Vụ khiếu tố, Viện
khoa học kiểm sát, Vụ tổ chức cán bộ, Vụ kiểm sát thi hành án, Vụ kế hoạch tài
chính, Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc hành chính, kinh tế, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật, các Viện thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử phúc thẩm (tại Hà Nội, Đà Nẳng và thành phố Hồ Chí Minh),
Văn phòng, Vụ hợp tác quốc tế, Cục thống kê tội phạm, Ban thanh tra, Tạp chí
kiểm sát, Báo bảo vệ pháp luật, Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát
tại Hà Nội và Phân hiệu trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành
phố Hồ Chí Minh.
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát, các phòng
nghiệp vụ (việc tổ chức các phòng nghiệp vụ hiện nay là không đồng bộ như
nhau), nhưng cơ bản có các phòng nghiệp vụ sau: Phòng thực hành quyền công
tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, Phòng thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án an ninh, ma túy, phòng
thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm
án hình sự, Phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù; Phòng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, Phòng
kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính-kinh tế- lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật, Phòng kiểm sát thi hành án, Phòng khiếu tố,
Phòng thống kê tội phạm, Phòng tổ chức cán bộ, Văn phòng tổng hợp. Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện, cơ cấu tổ chức gồm 3 bộ phận công tác: bộ phận
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự và kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam; bộ phận kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, kiểm sát thi hành án và bộ phận văn
phòng tổng hợp, thống kê tội phạm và khiếu tố.
1.4.4. Về cán bộ Viện kiểm sát nhân dân “tại thời điểm tháng 1/2008,
toàn ngành có 11.760 Kiểm sát viên, cán bộ, công chức, trong đó có 10.428

Kiểm sát viên, cán bộ làm nghiệp vụ kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
165 Kiểm sát viên, 8 Điều tra viên cao cấp; 64 Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
có 2.266 Kiểm sát viên; 678 Viện kiểm sát cấp huyện có 3.988 Kiểm sát viên. Về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, trong số 10.428 công chức
nghiệp vụ kiểm sát, có 8.754 người có trình độ Cử nhân Luật trở lên (21 Tiến
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 12


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

sỹ, 109 Thạc sỹ, chiếm 84%, có 892 người đạt trình độ Cao đẳng kiểm sát,
chiếm 8,5%, có 1.608 người đạt trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính
trị, chiếm 15,5%, có 5.170 người đạt trình độ trung cấp chính trị, chiếm 50% 7”.
1.4.5. Về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, trong những năm qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật tiếp tục
diễn biến phức tạp, số lượng các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện
kiểm sát liên tục gia tăng. Quán triệt các chủ trương của Đảng về Cải cách tư
pháp, căn cứ quy định của Hiến pháp và pháp luật, Ngành kiểm sát đã thực hiện
đổi mới mạnh mẽ cả về nhận thức , về tổ chức và chỉ đạo thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, do vậy đã đạt được nhiều kết quả góp phần quan trọng trong công
cuộc đấu tranh bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể… cũng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Thông qua công
tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, Viện kiểm sát các cấp đã đề xuất
với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, kiến nghị
với cơ quan Nhà nước khắc phục những sơ hở trong quản lý kinh tế, xã hội.
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

của Viện kiểm sát đã góp phần tích cực vào việc hình thành và thực hiện cơ chế
kiểm soát quyền lực, tránh sự lạm quyền, xâm phạm các quyền dân chủ của
nhân dân.
1.4.6. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của
Viện kiểm sát trong những năm qua còn tồn tại những hạn chế, bất cập như:
a. Trong lĩnh vực hình sự: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định
Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
của Cơ quan điều tra. Sau khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, Viện kiểm
sát có trách nhiệm chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết.
Quy định này dẫn đến một thực trạng là Viện kiểm sát không nắm được đầy đủ,
kịp thời các tố giác, tin báo về tội phạm xảy ra trên thực tế, cũng như thực tế xử
lý tin báo, tố giác tội phạm của Cơ quan điều tra, do vậy số vụ án đưa ra truy tố
chưa phản ánh được thực trạng tình hình tội phạm (cả về số lượng tội phạm và
cơ cấu tội phạm). Đồng thời, quy định này làm hạn chế vai trò, trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra, dẫn đến nguy cơ bỏ lọt tội phạm…
7

Tiến sỹ Lê Hữu Thể- Viện trưởng Viện khoa học kiểm sát -Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp

chí kiểm sát số 16 năm 2008

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 13


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

Quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra

vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều bất cập. Mặc dù pháp luật hiện hành đã có những
quy định về quan hệ phối hợp và chế ước của Viện kiểm sát với Cơ quan điều
tra trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, song pháp luật lại thiếu những quy
định để bảo đảm hiệu lực của những quan hệ chế ước này, nhiều yêu cầu của
Viện kiểm sát không được Cơ quan điều tra thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ, song lại không có cơ chế pháp lý để bảo đảm thực hiện các quyền năng của
Viện kiểm sát.
b. Trong lĩnh vực dân sự: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 bỏ thẩm quyền
khởi tố vụ án dân sự của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát chỉ tham gia trong những
vụ án mà được sự có khiếu nại việc thu thập chứng cứ của Tòa án. Quy định này
đã dẫn đến một khoảng trống pháp luật trong việc bảo vệ lợi ích Nhà nước và lợi
ích của những không có khả năng tự bảo vệ các quyền dân sự của mình vốn
trước đây dẫn giao cho Viện kiểm sát với tư cách là người thay mặt Nhà nước để
bảo vệ các nhóm lợi ích này. Đặc biệt, trong điều kiện phát triển nền kình tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện
nay, Nhà nước Việt Nam có thể là một bên đương sự trong các tranh chấp dân
sự thì lại chưa có cơ quan nào được quy định đại diện cho Nhà nước tham gia
các vụ kiện dân sự này.
c. Về vấn đề ngạch, bậc Kiểm sát viên: Pháp lệnh Kiểm sát viên năm
2003 quy định về phân ngạch, Kiểm sát viên tương ứng với cấp hành chính
(Kiểm sát viên cấp huyện, Kiểm sát viên cấp tỉnh, Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao). Việc phân ngạch bậc này đã gây khó khăn cho việc thực hiện
chủ trương tăng thẩm quyền cho các cơ quan tư pháp cấp huyện và chủ trương
luân chuyển cán bộ. Theo đó, khi cần điều động một Kiểm sát viên Viện kiểm
sát cấp tỉnh về Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, ngành kiểm sát phải làm thủ
tục bãi miễm chức danh Kiểm sát viên cấp tỉnh, bổ nhiệm lại chức danh Kiểm
sát viên cấp huyện cho người này, đồng thời phải xếp lại hệ số lương, phụ cấp
trách nhiệm xuống bậc thấp hơn. Tương tự như vậy, khi muốn điều động một
Kiểm sát viên Viện kiểm sát cấp huyện hoặc cấp tỉnh lên Viện kiểm sát cấp cao
hơn thì ngành kiểm sát cũng phải làm thủ tục bãi miễm chức danh Kiểm sát viên

để chuyển sang chức danh Kiểm tra viên. Những quy định này là không phù
hợp, gây khó khăn trong việc chỉ đạo, điều hành lực lượng thực hiện nghiệp vụ
pháp lý trong Ngành kiểm sát, đồng thời gây ra nhiều vấn đề về tư tưởng, tâm lý
trong đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên…
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 14


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

d. Về việc không giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực hành chính,,kinh tế, xã hội (Kiểm sát chung) cho Viện kiểm sát: Khi
quyết định bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân các cấp,
chúng ta cho rằng trùng lặp với chức năng, thẩm quyền giám sát của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, trùng lắp với chức năng, thẩm quyền kiểm tra, thanh tra của
các cơ quan hành chính Nhà nước (Chính phủ, các bộ, cơ quan Thanh tra và Ủy
ban nhân dân các cấp). Nhưng tính chất, chức năng, thẩm quyền và tổ chức hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân khác hẳn với các cơ quan Nhà nước khác.
Từ khi bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân đến nay
cho thấy Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, các Bộ, cơ quan
thanh tra và Uỷ ban nhân dân các cấp không có điều kiện và không thể có bộ
máy chuyên thực hiện hoạt động này như Viện kiểm sát nhân dân trước đây:
“nếu như năm 2000, khi còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; Viện kiểm sát nhân dân các cấp
đã phát hiện 3.376 văn bản có vi phạm pháp luật, trong đó có 27
văn bản của Bộ, ngành ở Trung ương, 185 văn bản của chính quyền cấp
tỉnh, 979 văn bản của chính quyền cấp huyện và 2.185 văn bản của chính quyền
cấp xã. Trong 3 năm (1997, 1998 và 1999), Viện kiểm sát nhân dân thành phố

Hồ Chí Minh và Viện kiểm sát nhân dân các quận, huyện của thành phố đã
nghiên cứu và kiểm sát hàng nghìn văn bản, đã phát hiện và kháng nghị 68 văn
bản quy phạm pháp luật có vi phạm, trong đó có 24 văn bản của Hội đồng nhân
dân phường, 37 văn bản của Uỷ ban nhân dân các cấp và 4 văn bản của các cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố v.v...”8
Để thay thế chức năng kiểm sát văn bản của Viện kiểm sát nhân dân, pháp
luật giao cho Cục kiểm tra văn bản của Bộ Tư pháp, Phòng kiểm tra văn bản của
Sở Tư pháp làm nhiệm vụ này; nhưng những cơ quan này liệu có khách quan,
hợp lý hay không khi Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp đã là những cơ quan tham mưu,
giúp cho Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thẩm tra các văn bản của Bộ, của
Uỷ ban nhân dân trước khi ban hành. Thực tế những năm qua hàng chục văn bản
của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố ban hành có vi phạm pháp luật đã
không được phát hiện và xử lý kịp thời và cũng thấy chưa có cơ quan nào thay
thế có hiệu quả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát
nhân dân.
8

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trương Đắc Linh- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Một số ý kiến về đổi mới Viện kiểm sát nhân dân trong

chiến lược Cải cách tư pháp

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 15


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO YÊU CẦU CẢI TƯ PHÁP VÀ HỘI

NHẬP QUỐC TÊ

2.1. Quan điểm chỉ đạo xây dựng tổ chức bộ máy, chức năng và
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội
nhập quốc tế
Đổi mới tư pháp nói chung và đổi mới Viện kiểm sát nói riêng phải thực
hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp phải tiến hành đồng bộ với đổi mới hoạt động lập
pháp và hành pháp, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, góp phần giữ vững
và phát huy bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đổi mới công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời,
nghiêm minh các tội phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các tội hình sự
khác; bảo vệ trật tự, kỷ cương, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân; phục vụ đắc lực công cuộc đổi
mới, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới công tác tư pháp phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn
xã hội trong đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm. Các cơ quan tư pháp
phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh
phòng, chống vi phạm, tội phạm và giải quyết tranh chấp. Bảo đảm sự giám sát
của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân các cấp và của nhân dân đối với hoạt động
của các cơ quan tư pháp. Đổi mới các cơ quan tư pháp phải đảm bảo xây dựng
các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây
dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước. Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp
luật làm cơ sở cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
theo hướng phục vụ kịp thời công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, bảo vệ độc lập
chủ quyền quốc gia, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp.


Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 16


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

Trên cơ sở các chủ trương, quan điểm, định hướng và nội dung cải cách tư
pháp đã được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, việc xây dựng bộ máy,
chức năng của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế
cần quán triệt một số quan điểm như sau:
a. Việc xây dựng Đề án phải đảm bảo quán triệt đầy đủ, đúng đắn, toàn
diện các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách bộ máy Nhà nước nói
chung và cải cách tư pháp nói riêng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; phải trên cơ sở các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta đảm bảo sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng, sự giám sát chặt chẽ của Hội đồng nhân dân.
b. Việc xây dựng Đề án phải được tiến hành động bộ với cải cách lập
pháp và hành chính, với việc đổi mới và kiện toàn các cơ quan tư pháp, đồng
thời phải nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp.
c. Việc xây dựng Đề án phải đảm bảo tính kế thừa truyền thống, kinh
nghiệm tổ chức và hoạt động của các cơ quan công tố, cơ quan kiểm sát của Nhà
nước ta quan gần 50 xây dựng và hoạt động; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tổ
chức và hoạt động của cơ quan kiểm sát, cơ quan công tố các nước trên thế giới
và trong khu vực, phù hợp với truyền thống văn hóa, điều kiện chính trị, kinh tếxã hội cụ thể của nước ta.
d. Việc xây dựng Đề án phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ của Viện
kiểm sát nhân dân các cấp; phải được tiến hành khẩn trương, tích cực nhưng có
bước đi thận trong, vững chắc; tránh gây xáo trộn cho hoạt động tư pháp nói

chung và hoạt động kiểm sát nói riêng, bảo đảm tính liên tục, hiệu quả của cuộc
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, vi phạm pháp luật.
2.2. Về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát
2.2.1. Về vị trí của Viện kiểm sát:
Qua tổng kết, nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động cả cơ quan
công tố, cơ quan kiểm sát trong lịch sử Nhà nước ta và nghiên cứu kinh nghiệm,
tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố, cơ quan kiểm sát của các nước trên
thế giới cho thấy:
Ở nước ta, cơ quan Viện kiểm sát thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp, là
một thiết chế đặc thù trong bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa, cơ quan. Từ năm
1945 đến nay, việc xác định vị trí cơ quan công tố, cơ quan kiểm sát trong bộ
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 17


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

máy Nhà nước ta luôn thể hiện xu hướng khẳng định sự độc lập của hệ thống cơ
quan này. Từ khi thành lập, Viện kiểm sát nhân dân luôn là một hệ thống cơ
quan độc lập trong bộ máy Nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Viện kiểm sát nhân dân do Viện
trưởng lãnh đạo, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Thực tiễn
khẳng định tổ chức Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan Nhà nước
độc lập, thống nhất từ Trung ương đến địa phương.

Nghiên cứu quá trình cải cách cơ quan Viện kiểm sát ở các nước có nền
kinh tế chuyển đổi như: Liên Bang Nga và Trung Quốc cho thấy: Trung Quốc là
quốc gia cải cách kinh tế theo hướng thiết lập nền kinh tế thị trường. Theo Hiến
pháp Trung Quốc, Viện kiểm sát là cơ quan giám sát luật của Nhà nước. Luật tổ
chức Viện kiểm sát Trung Quốc quy định ngoài chức năng công tố, Viện kiểm
sát có chức năng kiểm sát các hoạt động điều tra, kiểm sát xét xử (hình sự, dân
sự); kiểm sát giam giữ, cải tạo; kiểm sát thi hành án. Về tổ chức, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu ra và
chịu trách nhiệm trước cơ quan này; các Viện kiểm sát nhân dân địa phương
chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và chịu sự lãnh
đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hiện nay,
“hoạt động của Viện kiểm sát Trung Quốc rất có hiệu quả, đã và đang được
Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục cũng cố, tăng cường như một hệ thống cơ
quan Nhà nước độc lập, được ghi trong Hiến pháp và trực thuộc Quốc Hội”9.
Tại Liên bang Nga, Tổng kiểm sát trưởng do Hội đồng liên bang (giống
Thượng Nghị viện), bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Tổng thống; Viện
kiểm sát Liên Bang Nga được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh
đạo trong ngành, các Kiểm sát viên cấp dưới phải phục tùng Kiểm sát viên cấp
trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Tổng kiểm sát trưởng.
Tại các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc….Viện công tố cũng được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, độc
lập với các cơ quan chính quyền địa phương. Các Công tố viên chịu sự lãnh đạo
9

Tiến sỹ Lê Hữu Thể - bàn về tổ chức, bộ máy của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 18



Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

của Công tố viên cấp trên trực tiếp và thống nhất chịu sự lãnh đạo của Tổng
công tố trưởng.
Tại Báo cáo số 16-BC/CCTP ngày 05/9/2007 của Ban chỉ đạo Cải cách tư
pháp Trung ương “Báo cáo kết quả nghiên cứu về Cải cách tư pháp tại Canada,
Trung Quốc và Nhật Bản” của Đoàn công tác Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp theo
ý kiến chỉ đạo của Đồng chí Nguyễn Minh Triết- Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam- Trưởng Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, cũng đã
khẳng định “Đối với Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống Viện kiểm sát
nhân dân theo cơ cấu ngành dọc để bảo đảm tính độc lập trong công tác chuyên
môn; việc xây dựng mô hình Viện công tố trực thuộc Chính phủ, chỉ đạo cơ
quan điều tra cần nghiên cứu thận trọng, không nóng vội”.
Căn cứ vào đặc điểm của hệ thống chính trị, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Bộ máy Nhà nước ta cũng như thực trạng hoạt động bảo vệ công lý
cho người dân của các cơ quan tư pháp nước ta và qua tổng kết quá trình xây
dựng và phát triển của Ngành kiểm sát, tham khảo kinh nghiệm của các nước
trên thế giới cho thấy, cần tiếp tục khẳng định hệ thống tổ chức Viện kiểm sát là
một hệ thống cơ quan độc lập trong Bộ máy Nhà nước, thống nhất từ Trung
ương đến địa phương, do Quốc hộ lập ra như quy định của Hiến pháp hiện hành.
Vị trí đó đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
2.2.2 Về chức năng của Viện kiểm sát
Nghiên cứu, tổng kết quá trình hình thành và phát triển của cơ quan công
tố, cơ quan kiểm sát nước ta trên 60 năm qua cho thấy trước năm 1960, cơ quan
công tố không chỉ thực hành quyền công tố mà còn thực hiện giám sát đối với
các hoạt động tư pháp và không chỉ thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên lĩnh vực
hình sự, mà cả trên lĩnh vực dân sự, thi hành án, giam giữ, cải tạo….

Từ năm 1960 đến năm 2002, qua nhiều lần tiến hành đổi mới tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhằm không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng,
hiệu quả, pháp luật luôn quya định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi),
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định Viện kiểm sát có hai
chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp. Qua tổng kết 04 năm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 và sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 19


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

02/6/2005 của Bộ Chính trị thấy rằng, kết quả hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát đã có những chuyển biến
mạnh mẽ, tích cực với chất lượng, hiệu quả ngày càng được nâng cao hơn.
Giám sát tư pháp là hoạt động mà ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải thực
hiện. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có những hình thức, cách thức, biên pháp giám
sát khác nhau, phù hợp với truyền thống pháp luật cũng như cách thức tổ chức
quyền lực Nhà nước của mình. Ở nước ta Bộ máy Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập rung quyền lực, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; không tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực; Đảng ta
là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chúng ta không chấp nhận
đa nguyên chính trị và đa Đảng. Với đặc điểm đó, việc tổ chức và duy trì một hệ
thống cơ quan độc lập, chuyên trách hoạt động giám sát là hết sức cần thiết.
Theo quy định của pháp luật và trên thực tế, Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của

Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tư pháp, nhưng do điều kiện về vị trí địa
lý, về tổ chức hoạt động và cán bộ, Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội chỉ
thực hiện vai trò giám sát tối cao đối với hoạt động tư pháp, thông qua các hình
thức giám sát như xem xét báo cáo của các cơ quan tư pháp, xem xét văn bản
quy phạm pháp luật do các cơ quan tư pháp ban hành, xem xét việc trả lời chất
vấn của người đứng đầu các cơ quan tư pháp, tổ chức các đoàn giám sát đối với
các cơ quan tư pháp…
Việc giám sát các hoạt động tư pháp cụ thể không nên giao cho các cơ
quan hành chính hoặc các cơ quan tư pháp khác mà tiếp tục giao cho Viện kiểm
sát thực hiện là hợp lý, vì: Viện kiểm sát là cơ quan tố tụng duy nhất tham gia
vào tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng (hình sự, dân sự) có điều kiện để
thực hiện thường xuyên hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp. Điều cần nhấn mạnh là hoạt động kiểm sát tư pháp có mối quan
hệ biện chứng, hữu cơ với hoạt động thực hành quyền công tố, bảo đảm cho
hoạt động thực hành quyền công tố kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật và giải quyết các vụ án dân sự đúng pháp luật. Như vậy, công tác kiểm sát
tư pháp có ý nghĩa to lớn, bảo đảm thực hiện mục đích của hoạt động thực hành
quyền công tố.
Mặc khác, một số lĩnh vực rất đặc biệt, liên quan trực tiếp đến quyền cơ
bản và trách nhiệm của công dân, liên quan đến ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa như vấn đề tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, thi hành các loại án về
Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 20


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

hình sự, dân sự….không có cơ chế nào bảo đảm sự giám sát tốt hơn là cũng cố

và tăng cường công tác kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với
hoạt động của tổ chức và cá nhân liên quan đến lĩnh vực này.
Theo kinh nghiệm nước ngoài, nhiều quốc gia giao cho Viện công tố,
Viện kiểm sát thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật, cùng với
chức năng thực hành quyền công tố.
Nghiên cứu quá trình cải cách cơ quan Viện kiểm sát ở các nước có nền
kinh tế chuyển đổi như Liên Bang Nga, một số nước thuộc Liên Xô cũ và Trung
Quốc cho thấy, mặc dù Liên Bang Nga, một số nước Đông Âu chuyển sang chế
độ đa nguyên, đa đảng và Trung Quốc đã thực hiện cải cách, mở cửa, sau một
thời dài nguyên cứu, các quốc gia này điều quy định Viện kiểm sát có chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hoạt động của
Viện kiểm sát ở các nước này rất có hiệu quả, đã và đang được cũng cố, tăng
cường.
Với phân tích trên đây cho thấy, Viện kiểm sát cần tiếp tục thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như Nghị
quyết 49-NQ/TW đã xác định. Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát sẽ thực hiện đồng
bộ các biện pháp đổi mới về tổ chức bộ máy, về các phương thức công tác kiểm
sát và xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát theo tinh thần cải cách tư pháp.
2.3. Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự
Đây là vấn đề quan trọng trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm
sát. Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ “Hoạt động công tố phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng; tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt
động điều tra hằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của người tiến
hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ”10.
Như vậy, Đảng ta đã chủ trương xây dựng một nền công tố mạnh, phục vụ
thiết thực và hiệu quả cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, vi phạm
pháp luật, trong đó Viện kiểm sát giữ vai trò quan trong đối với hoạt động điều

tra.
10

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 21


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

Qua tổng kết hơn 60 năm hoạt động công tố, kiểm sát Nhà nước, trên cơ
sở tham khảo kinh nghiệm hoạt động công tố của các nước trên thế giới và khu
vực, để thực hiện chủ trương của Đảng xây dựng một nền công tố mạnh, đấu
tranh có hiệu quả đối với các hành vi tội phạm và vi phạm pháp luật, cần tiếp tục
khẳng định các quyền hạn của Viện kiểm sát đối với cơ quan điều tra đã được
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành như đề ra yêu cầu điều tra, phê
chuẩn các lệnh hoặc quyết định của cơ quan điều tra có liên quan đến việc khởi
tố bị cán, áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn…Đồng thời, cần
làm rõ hơn trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra và cơ chế
bảo đảm trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu của
Viện kiểm sát; bảo đảm để Viện kiểm sát có vai trò chủ động hơn trong hoạt
động điều tra, nhằm hạn chế đến mức tối đa khả năng xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội trong việc điều tra, truy tố và nâng cao chất lượng
công tố.
Để tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, phải tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới mạnh mẽ về mặt tổ chức, cán bộ.
Nghiên cứu việc cải cách cơ quan điều tra theo yêu cầu Cải cách tư pháp, như

thu gọn đầu mối Cơ quan điều tra, có hệ thống cơ quan điều tra chuyên trách độc
lập; phân định rành mạch giữa thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm,
quyền hạn tố tụng của những người đứng đầu cơ quan tố tụng; phân biệt rõ hoạt
động điều tra trinh sát không theo quy định của pháp luật tố tụng với hoạt động
điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng nhằm nâng cao hơn nữa vai trò,
trách nhiệm của Viện kiểm sát trong quá trình điều tra vụ án hình sự, bảo đảm
Viện kiểm sát thực hiện đầy đủ, hiệu quả chức năng công tố.
2.4. Thẩm quyền của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh tổ chức điều tra
hình sự, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát có thẩm quyền điều tra một số loại
xâm phạm hoạt động tư pháp do cán bộ các cơ quan tư pháp thực hiện. Do vị trí
và vai trò đặc biệt của cơ quan thực hành quyền công tố, pháp luật nhiều nước
trên thế giới và khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, Liên Bang Nga…luôn quy
định cơ quan này có trách nhiệm trực tiếp điều tra một số loại tội phạm khác có
tính chất đặc biệt như các tội tham nhũng, các tội phạm về chức vụ, các tội phạm
có chủ thể và khách thể đặc biệt. Họ cho rằng cơ quan Công tố, Cơ quan kiểm
sát điều tra các tội phạm nêu trên có hiệu quả hơn các cơ quan điều tra khác, đây

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 22


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

là vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
2.5. Về vai trò của Viện kiểm sát trong công tác giải quyết các vụ, việc
dân sự

Cần tiếp tục khẳng định và đổi mới chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự và coi đó như một trong các
hoạt động cơ bản của Viện kiểm sát ở nước ta. Nghiên cứu thực tiễn hoạt động
tư pháp của Nhà nước ta hơn 60 năm qua cho thấy vai trò cơ quan công tố, cơ
quan kiểm sát trong việc giải quyết các vụ việc dân sự đã phát huy hiệu quả
trong thực tiễn và trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004, vai trò của Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự đã bị
thu hẹp. Qua gần 6 năm triển khai thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, đặc
biệt qua công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp cho thấy việc hạn chế vai trò của Viện kiểm sát trong Bộ luật tố tụng dân
sự cần phải được nghiên cứu, bổ sung.
Tham khảo kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, cơ quan công tố,
cơ quan kiểm sát các nước điều có vị trí, vai trò nhất định trong lĩnh vực dân sự,
thương mại. Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự Liên Bang Nga
thì có hai hình thức tham gia của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là: thứ nhất,
Kiểm sát viên tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người “châm ngòi”, người
khởi động các thủ tục xét xử sơ thẩm, chống án, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm bằng việc đệ đơn khởi kiện, đơn kháng kiện (đơn đề nghị chống án, đơn đề
nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) đối với bản án, quyết định không có
căn cứ của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm; thứ hai, Kiểm sát viên tham gia vào
tiến trình tố tụng (do người khác khởi kiện) và phát biểu kết luận đối với những
vụ án liên quan đến việc buộc đi ở nơi khác, yêu cầu khôi phục việc làm, yêu
cầu đòi bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ, hoặc
trong những trường hợp khác do Bộ luật này và luật liên bang quy định.
Tuy nhiên, cần lưu ý là, dù tham gia tố tụng dân sự dưới hình thức nào thì
việc tham gia của Kiểm sát viên không phải là để bảo vệ lợi ích của riêng Viện
kiểm sát mà là nhân danh Liên Bang Nga để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích
công cộng cũng như lợi ích của một số người khác và của tập hợp người không
xác định, vì lợi ích của những người này cũng có tính chất công và mang ý
nghĩa xã hội. Cùng với sự tham gia của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự, sự

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 23


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

tham gia của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là sự tiếp tục khẳng định những
mục đích hoạt động của Viện kiểm sát Liên bang Nga là nhằm “bảo đảm tính
tối cao của luật pháp, sự thống nhất và củng cố pháp chế, bảo vệ quyền tự do và
các quyền khác của con người và của công dân, cũng như các lợi ích của xã hội
và nhà nước được luật pháp bảo vệ” (khoản 2 Điều 1 Luật VKS Nga 1996).
Trong quá trình Cải cách tư pháp của các nước, vai trò của cơ quan công
tố, cơ quan kiểm sát trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại ngày càng
được cũng cố và tăng cường. Do đó, cần tiếp tục khẳng định và đổi mới chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự theo hướng: Viện kiểm sát vừa thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, vừa
là người đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong các vụ việc dân sự mà Nhà
nước Việt Nam là một bên đương sự; Viện kiểm sát có quyền khởi kiện vụ việc
dân sự nhân danh lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lội ích của những cá nhân
không có khả năng thực hiện quyền dân sự và không thể tự bảo vệ mình.
2.6. Về vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế…(Kiểm sát chung)
Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiệm vụ kiểm sát việc kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực dân sự, hành chính…(kiểm sát chung)
không giao cho Viện kiể sát các cấp đảm nhận. Tuy nhiên, như đã nêu trên, để
làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh thì cần phải có một lực lượng
làm nhiệm vụ giám sát việc tuân theo pháp luật của tất cả các cá nhân, cơ quan,

tổ chức; nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiệm vụ đấu tranh
phòng, chống vi phạm và tội phạm, nhất là cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, tạo môi trường tốt cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Mặc khác, một đất
nước muốn phát triển mạnh mẽ thì trước hết chính quyền Trung ương phải
mạnh, đủ sức để lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, không để tình trạng manh mún,
địa phương hoạt động không nằm trong quỹ đạo chung của đất nước. Do vậy,
vẫn cần phải đẩy mạnh hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật của tất cả
mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân.
Vậy, cơ quan nào có thể thực hiện được nhiệm vụ này, chúng tôi cho rằng
cần giao cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng này như đã từng thực hiện từ

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 24


Chuyên đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế

khi thành lập từ năm 1960 đến năm 2002, việc giao như vậy, sẽ có một số lợi thế
như sau:
- Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với
các cơ quan hành pháp, tư pháp. Viện kiểm sát các cấp chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nên có khả năng rất
cao trong việc loại trừ sự lạm dụng quyền hạn hành chính, khép kín, cục bộ địa
phương….
- Chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật đã được Nhà nước ta giao cho
Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1960 đến năm 2002. Viện kiểm sát các cấp đã
trải qua nhiều năm tổ chức, hoạt động và có đội ngũ cán bộ, KIểm sát viên có bề

dày kinh nghiệm về lĩnh vực này.
- Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật có
mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ lẫn nhau. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế, hành chính có tính phòng ngừa,
ngăn chặn, răn đe tội phạm rất cao và có mối quan hệ trực tiếp đến hiệu quả đấu
tranh chống tội phạm vì khả năng phát hiện tội phạm rất lớn và loại bỏ những
hành vi buông lỏng kỷ cương, phép nước, nhất là những hành vi có dấu hiệu tội
phạm nhưng chỉ bị xử lý nội bộ, xử lý hành chính…Kết quả hoạt động kiểm sát
trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế, hành chính là một kênh thông tin vô
cùng quan trọng cho Viện kiểm sát chủ động thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố như quyết định khởi tố vụ án, truy cứu trách nhiệm hình sự của
những người phạm tội, ngăn chặn hậu quả của tội phạm một cách kịp thời, chủ
động trong đấu tranh, phòng chống tội phạm; không phải là tình trạng thụ động
để chờ “tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm do cơ quan, cá nhân, tổ chức và
kiến nghị khởi tố do cơ quan Nhà nước chuyển đến và có trách nhiệm chuyển
ngay các thông tin, tài liệu đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền”111. Chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật và nguyên tắc tổ chức, hoạt
động của Viện kiểm sát đã tạo cho Viện kiểm sát có lợi thế hơn hẳn bất kỳ cơ
quan Nhà nước nào trong đấu tranh, phòng chống tham nhũng.
Qua nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm cơ quan công tố, cơ quan kiểm
sát các nước trên thế giới và khu vực; thực tiễn xây dựng và phát triển ngành
kiểm sát trong thời gian qua, trong quá trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà
nước pháp quyền hiện nay, chúng tôi đề nghị với Đảng, Nhà nước ngoài việc
11

Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Thực hiện: Trương Thanh Triệu - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang

Trang 25



×