Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.97 KB, 15 trang )

Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
của Viện Kiểm sát Nhân dân cấp Huyện trong
cải cách tư pháp ở nước ta


Lương Thúy Hà


Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: TS. Trịnh Quốc Toản
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công tố,
hoạt động tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND), mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Nghiên cứu những quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố, thực
trạng áp dụng những quy định đó trong hoạt động thực hành quyền công tố ở
VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Trên
cơ sở đó, đánh giá những kết quả đã đạt được, những vấn đề thiếu sót, tồn tại và làm
rõ nguyên nhân của nó. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố của VKSND cấp huyện.

Keywords. Luật hình sự; Quyền công tố; Viện kiểm sát nhân dân; Cải cách tư pháp;
Pháp luật Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các cơ quan cấu thành bộ máy nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân


(VKSND) đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ.
Xác định được tầm quan trọng của hệ thống cơ quan này, thời gian qua, cùng với việc đổi
mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ
quan tư pháp trong đó có VKSND. Đây là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng được
thể hiện trong nhiều văn kiện: Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 Về một số công việc cấp
bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà mục tiêu
là "xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…",
trong đó có yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và
cán bộ tư pháp.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được
nghiên cứu làm rõ và tìm ra cách khắc phục nguyên nhân nhằm đẩy mạnh tiến trình cải cách tư
pháp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc đổi mới. Theo quy định tại Điều 137 Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều 1 Luật tổ
chức VKSND năm 2002 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Việc thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là một dạng thực hành quyền lực nhà
nước trong lĩnh vực tư pháp. Không có cá nhân, cơ quan nhà nước nào có thể thay thế VKSND
trong việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà, trong việc thực hiện quyền kiểm sát hoạt động điều
tra, kiểm sát hoạt động xét xử…Đây là một chức năng mà VKSND đã đảm đương từ nhiều
năm, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa đạt được sự thống nhất cao trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả việc thực hiện chức năng của VKSND. Do đó, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề
trên không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả
của công tác tư pháp nói chung, công tác kiểm sát nói riêng, hoàn thành nhiệm vụ Đảng và Nhà
nước giao phó, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp.
Để góp phần vào việc cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của VKSND,
đồng thời làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn thông qua hoạt động của

VKSND ở cấp huyện, đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này,
tác giả chọn đề tài "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là các chức năng hiến định
của VKSND. Để thực hiện các chức năng nhiệm vụ đặt ra cho VKSND, pháp luật đã quy
định cụ thể thẩm quyền của VKSND các cấp trong từng giai đoạn để thực hiện chức năng
hiến định này. Các quy định về thẩm quyền của VKSND các cấp không nằm trong một bộ
luật cụ thể mà được thể hiện xuyên suốt trong hệ thống pháp luật, nhằm mục đích tạo điều
kiện cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở từng mối quan hệ pháp luật trong từng
giai đoạn tố tụng khác nhau. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả với các
ý kiến và quan điểm khác nhau về vấn đề này đã được công bố. Đáng chú ý là các công trình
sau:
- "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra",
của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005.
- Luận án tiến sĩ Luật học "Quyền công tố ở Việt Nam", của Lê Thị Tuyết Hoa, 2002.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh", của Trần Văn Nam, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên
địa bàn thành phố Hà Nội", của Hà Thị Minh Hạnh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, 2007.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân", của
Phan Thị Thuý Lan, Học viện Hành chính quốc gia, 2007.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: "Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam", của Bộ Tư pháp,
2005.
Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả khác đã được đăng trên các báo và tạp chí
chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên
đề của VKSNDTC qua các năm, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ…

Các công trình nghiên cứu, bài viết trước đây chỉ đề cập đến tình hình cải cách hệ thống
tư pháp nói chung hoặc đi sâu vào từng vấn đề nghiệp vụ chuyên ngành mà chưa tổng hợp
nghiên cứu những căn cứ pháp lý, chức năng nhiệm vụ của toàn bộ quá trình tố tụng từ khi có
dấu hiệu tội phạm đến khi xét xử xong, để từ đó phát hiện và kiến nghị đổi mới theo tinh thần
của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Vì vậy, việc nghiên cứu "Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta"
nhằm phát hiện những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, bất cập, đưa ra những giải pháp, kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND, đặc biệt đối với VKSND cấp huyện là vấn
đề cần thiết và cấp bách trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung nghiên cứu và góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận chức
năng của VKSND, thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố ở VKSND cấp huyện trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
của công tác này theo yêu cầu của cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công
tố, hoạt động tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, mối quan hệ giữa thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Những quy định của pháp luật thực
định về thực hành quyền công tố, thực trạng áp dụng những quy định đó trong hoạt động thực
hành quyền công tố ở VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm
gần đây. Trên cơ sở đó, đánh giá chất lượng của công tác này, những kết quả đã đạt được,
những vấn đề thiếu sót, tồn tại và làm rõ nguyên nhân của chúng, đồng thời đề xuất một số
giải pháp khắc phục.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền công tố, chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, thực tiễn hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội
từ năm 2005 đến 2010.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới toàn
diện đất nước nói chung, về cải cách tư pháp nói riêng, chính sách pháp luật Đảng và Nhà
nước ta trong tố tụng hình sự, luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp,
thống kê và so sánh, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn,…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp huyện, thực tiễn của chất
lượng thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện trên một địa bàn có vị trí quan trọng về
nhiều mặt là Thủ đô Hà Nội, đánh giá các kết quả cũng như các thiếu sót, tồn tại và đề ra các giải
pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng của việc thực hiện chức năng này của VKSND cấp
huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Những quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay.



Chương 1
Những vấn đề chung về thực hành quyền công tố
của viện kiểm sát nhân dân

1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát

nhân dân
1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố
1.1.1.1. Quyền công tố
a) Khái niệm quyền công tố
Qua phân tích tác giả luận văn đưa ra khái niệm: Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của
Nhà nước giao cho VKSND thực hiện các quyền năng theo quy định của pháp luật nhằm truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
b) Đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố
* Đối tượng của quyền công tố: Đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm
tội.
* Nội dung của quyền công tố: Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội nhân danh Nhà
nước đối với người đã thực hiện tội phạm.
* Phạm vi của quyền công tố: Quyền công tố là quyền truy tố và buộc tội của Viện kiểm
sát (VKS) nhân danh Nhà nước.
1.1.1.2. Thực hành quyền công tố
Thực hành quyền công tố là việc Nhà nước tổ chức và giao cho cơ quan đại diện của
mình (VKS) các quyền năng pháp lý để thực hiện trong tất cả giai đoạn của TTHS từ điều tra,
truy tố đến xét xử nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội và áp
dụng đối với họ các chế tài hình sự cần thiết.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động thực hành quyền công tố
Theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và Luật tổ chức VKSND năm
2002 thì "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trong tất cả các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử bằng các biện pháp theo quy định của pháp luật".
Trong giai đoạn điều tra: bao gồm các bước sau:
- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra, trực tiếp tiến hành
một số hoạt động điều tra.
- Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của
BLTTHS, nếu hành vi có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố hình sự.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện

pháp ngăn chặn khác.
- Quyết định việc truy tố bị can, tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án, bị can.
Trong giai đoạn xét xử:
Các quyền năng của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử bao gồm:
- Duy trì quyền công tố tại phiên toà sơ thẩm bằng các hoạt động như: công bố bản cáo
trạng hoặc quyết định của VKS liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên toà; luận tội đề nghị
kết tội bị cáo; rút một phần hoặc toàn bộ cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo
không phạm tội; tham gia thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng khác như người
bị hại, người liên quan, nhân chứng,…; tranh luận với luật sư và những người tham gia tố
tụng để làm rõ thêm các tình tiết có liên quan đến vụ án và các chứng cứ thu thập được trong
quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Thực chất, đây chính là các hoạt động bảo vệ quyết định truy tố nhằm buộc tội bị cáo, làm cơ
sở để cho bản luận tội vừa có căn cứ pháp luật, vừa phù hợp với các tình tiết thu thập được
qua quá trình điều tra và diễn biến của việc điều tra công khai tại phiên toà, vừa có tính
thuyết phục, giáo dục, phòng ngừa tội phạm, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội.
- Phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm, giám
đốc thẩm và tái thẩm; kháng nghị các bản án, quyết định của Toà án.
Tóm lại, tất cả các vấn đề mà VKS có quyền quyết định trong các giai đoạn khác nhau
của TTHS như trên cho thấy thực hành quyền công tố có một vai trò và ý nghĩa rất quan
trọng.
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
1.1.3.1. Kiểm sát các hoạt động tư pháp
a) Hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình tố tụng nhằm
giải quyết các vụ án hình sự và các vụ tranh chấp một cách có căn cứ, đúng pháp luật, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
b) Kiểm sát các hoạt động tư pháp
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng hiến định của VKSND.
Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự là nhằm đảm bảo các

hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, không để
xảy ra việc oan, sai hay bỏ lọt tội phạm.
Đối tượng của kiểm sát các hoạt động tư pháp là việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan
tư pháp và các đối tượng tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án và các tranh
chấp khác.
Phạm vi của kiểm sát các hoạt động tư pháp:
- Phạm vi không gian của kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt
động của các cơ quan tư pháp. Đó là việc chấp hành pháp luật trong suốt quá trình giải quyết
các vụ án hình sự và giải quyết các tranh chấp khác.
- Phạm vi về thời gian của kiểm sát các hoạt động tư pháp là từ khi cơ quan có thẩm
quyền khởi tố vụ án và đương sự khởi kiện cho đến khi thi hành xong bản án và các quyết
định khác của Toà án.
1.1.3.2. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
Trong các giai đoạn thực hiện chức năng kiểm sát, VKS thực hiện đồng thời hai hoạt
động: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hai hoạt động này, nếu
xem xét chúng dưới góc độ độc lập, riêng lẻ thì chúng có mục đích khác nhau. Mục đích của
hoạt động thực hành quyền công tố nhằm truy tố, buộc tội người có hành vi phạm tội ra trước
Toà án theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm không để lọt kẻ phạm tội và làm oan
người vô tội. Mục đích kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm việc chấp hành pháp luật
của các cơ quan tư pháp được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất. Thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, chúng làm tiền đề,
điều kiện của nhau.
Vì vậy, tác giả cho rằng xét cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là những khái niệm có nội hàm khác nhau, nhưng các
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Nó luôn có tác động qua lại, hỗ trợ và làm tiền đề cho nhau. Nếu làm tốt chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ tạo cơ sở thuận lợi cho chức năng thực hành quyền
công tố và ngược lại.
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật quy định về hoạt động thực hành quyền công tố ở
Việt Nam từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003
Tác giả luận văn trình bày khái quát về hoạt động thực hành quyền công tố ở Việt Nam
từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành bộ Luật tố tụng hình sự năm
2003.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, BLTTHS năm 2003 đã thể hiện sâu sắc
những tư tưởng mới về cải cách tư pháp hình sự. Đối với VKS, Bộ luật quy định cụ thể như
sau: VKS thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm
tội ra trước Toà án…; nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Như vậy, từ năm 1945, pháp luật về thực hành quyền công tố luôn phát triển không ngừng,
dần hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội,
góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội.
1.3. Những quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố ở một số nước
Tác giả luận văn đã trình bày một vài nét cơ bản những quy định của pháp luật về thực
hành quyền công tố ở một số nước:
1.3.1. Một số quốc gia theo hệ thống án lệ
Bao gồm: Vương quốc Anh và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
1.3.2. Một số quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa
Bao gồm: Cộng hoà Pháp và Cộng hoà Liên bang Đức
1.3.3. Một số quốc gia khu vực châu á- Thái Bình Dương
Bao gồm: Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc và Trung Quốc.

Chương 2
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và thực tiễn áp dụng ở
Việt Nam hiện nay
2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân
2.1.1. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi)

Hiến pháp hiện hành đã quy định VKS có hai chức năng rất cụ thể là thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Để đảm bảo cho VKS thực hiện tốt chức năng của
mình, Hiến pháp quy định nguyên tắc hoạt động tập trung thống nhất; hệ thống cơ quan VKS
được tổ chức từ trung ương đến địa phương, Viện trưởng cấp duới chịu sự lãnh đạo của Viện
trưởng cấp trên, Viện trưởng VKSNDTC do Quốc hội bầu và chịu sự giám sát của Quốc hội.
2.1.2. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
Trên cơ sở các nguyên tắc, nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ
chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, hoạt động của VKSND.
Luật tổ chức VKSND hiện hành có 11 chương, 50 điều.
2.1.3. Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
Năm 2002, ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Kiểm sát viên, gồm 5
chương, 34 điều.
- Chương I. Những quy định chung, gồm 11 điều (từ Điều 1 đến Điều 11)
- Chương II. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên, gồm 6 điều (từ
Điều 12 đến Điều 17)
- Chương III. Quy định tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm Kiểm sát
viên, gồm 13 điều (từ Điều 18 đến Điều 30)
- Chương IV. Quy định chế độ đối với Kiểm sát viên, gồm 2 điều (Điều 31, 32).
- Chương V. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 33, 34)
2.1.4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
BLTTHS năm 2003 được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 26/11/2003 tại kỳ họp thứ tư, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. BLTTHS năm 2003 là sự kết tinh và thể hiện những tư
tưởng mới về cải cách tư pháp hình sự, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, cũng
như đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
BLTTHS năm 2003 được chia làm tám phần, gồm 37 chương với 346 điều.
Tác giả luận văn trình bày những nội dung cơ bản của BLTTHS quy định về thực hành
quyền công tố, bao gồm:
a. Về chức năng, nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát và của Viện trưởng, Phó Viện
trưởng, Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự
b. Về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố

2.1.5. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004
Năm 2002, ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm
2004 gồm 7 chương, 38 điều. Dưới đây là những nội dung liên quan đến VKS và hoạt động
thực hành quyền công tố của VKS:
- Về Cơ quan điều tra (Điều 1): Quy định Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân và VKSND. Theo đó, ở VKSNDTC có Cơ quan điều tra VKSNDTC và Cơ
quan điều tra VKS quân sự trung ương.
- Về trách nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra (Điều 6): VKS kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra nhằm bảo đảm hoạt động điều tra của Cơ quan điều
tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra tuân thủ các quy định của BLTTHS và pháp lệnh này.
VKS phải phát hiện kịp thời và yêu cầu Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm pháp luật
trong hoạt động điều tra; cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa đối với những vụ án
do Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và cơ quan khác của
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thụ lý điều tra.
Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra phải thực hiện những yêu cầu, quyết định của VKS theo quy định của BLTTHS.
- Về tổ chức và thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của VKSNDTC (Điều 17,18):
Tổ chức của Cơ quan điều tra của VKSNDTC gồm có các Phòng điều tra và bộ máy giúp
việc Cơ quan điều tra. Tổ chức điều tra VKS quân sự trung ương gồm có bộ phận điều tra và
bộ máy giúp việc Cơ quan điều tra.
- Về giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra (Điều 28): Viện trưởng VKSND cùng
cấp nơi tội phạm xảy ra hoặc nơi phát hiện tội phạm quyết định giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra. Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển thì Viện trưởng VKS có thẩm quyền nơi
xảy ra vụ án quyết định.

2.1.6. Một số ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp luật thực hành quyền công tố ở
Việt Nam hiện nay
a) Về ưu điểm
- Mặc dù hệ thống quy phạm pháp luật thực hành quyền công tố chưa đồng bộ, nhưng
bước đầu đã tạo được cơ sở pháp lý cho việc xác định phạm vi điều chỉnh, xác lập chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ và mối quan hệ của các chủ thể thực hành quyền công tố; đồng thời chỉ
ra những nội dung pháp lý cơ bản của pháp luật thực hành quyền công tố.
- Hệ thống quy phạm pháp luật thực hành quyền công tố từng bước phù hợp, phản ánh đúng
yêu cầu thực tiễn và dần đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Pháp luật thực hành quyền công tố góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả cuộc đấu tranh chống tội phạm, là công cụ hữu hiệu bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân
b) Về hạn chế
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thực hành quyền công tố thiếu tính đồng bộ, còn
tản mạn; có cả văn bản dưới luật điều chỉnh (Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND v.v…), vì vậy
ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả áp dụng pháp luật của lĩnh vực này trong thực tiễn.
- Nội dung còn nặng về những quy định chung chung, thiếu các quy định chi tiết, cụ thể
nên hiệu quả thấp.
- Hệ thống pháp luật thực hành quyền công tố còn thiếu những quy phạm bảo đảm cơ chế
hoạt động công tố gắn kết với hoạt động điều tra, do vậy hoạt động của Cơ quan công tố thiếu
thực quyền.
- Thẩm quyền hành chính và quyền hạn tư pháp quy định trong pháp luật thực hành
quyền công tố bị đan xen, lẫn lộn, không rành mạch, làm giảm vai trò, tính chịu trách nhiệm
của Kiểm sát viên cũng như các chức danh tư pháp khác.
- Quyền năng và trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng chưa rõ ràng, hợp lý, làm cho hoạt động chức năng của Cơ quan công tố nói riêng và các
cơ quan tiến hành tố tụng nói chung kém hiệu quả.
- Về vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng
khác tại phiên toà cũng như trình tự thẩm vấn, tranh luận chưa rõ ràng, cụ thể nên chất lượng
tranh tụng yếu, làm giảm hiệu lực của Cơ quan công tố.

2.2. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.1. Vài nét về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thành
phố Hà Nội
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, VKSND là một trong bốn hệ thống cấu thành
nên bộ máy nhà nước. Là một cơ quan nhà nước nên trong tổ chức và hoạt động của VKS hội
tụ đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động như tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước
khác: nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ… Bên cạnh đó, xuất phát từ
các chức năng, nhiệm vụ riêng có của mình, VKSND còn có những nguyên tắc tổ chức và
hoạt động riêng: nguyên tắc tập trung thống nhất, nguyên tắc độc lập không lệ thuộc vào bất
cứ một cơ quan nhà nước nào khác ở địa phương. Cơ quan VKSND được tổ chức từ Trung
ương đến đơn vị hành chính cấp huyện gồm VKSNDTC, các VKSND cấp tỉnh, các VKSND
cấp huyện và các VKS quân sự.
VKSND cấp huyện là cấp cuối cùng trong hệ thống cơ quan VKSND, đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng trong hệ thống VKSND bởi là cấp giải quyết phần lớn các vụ án mà VKS
thụ lý và giải quyết. Hiện nay có 29 đơn vị VKSND cấp huyện đóng trên địa bàn thành phố
Hà Nội. Trong đó có 10 quận (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Cầu Giấy,
Thanh Xuân, Hoàng Mai, Tây Hồ, Long Biên, Hà Đông), 01 thị xã (Sơn Tây) và 18 huyện
(Thanh trì, Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn, Từ Liêm, Hoài Đức, Quốc Oai, Thanh Oai,
Thường Tín, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Mê Linh, Chương Mỹ, Thạch Thất, Ba Vì, Đan Phượng,
Mỹ Đức, ứng Hoà).
Trước yêu cầu đặt ra đối với công tác kiểm sát, trong những năm qua, VKSND cấp huyện
đã từng bước được củng cố, tăng cường và ngày càng hoàn thiện về cơ cấu tổ chức. Về cơ
bản, đã đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật. Hiện nay, đa số các VKSND cấp huyện có cơ cấu lãnh đạo là Viện
trưởng và 03 Phó viện trưởng. Việc phân công, chỉ đạo điều hành công việc tại các VKSND
cấp huyện dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ kết hợp với nguyên tắc tập trung thống nhất
trong sự lãnh đạo và điều hành của Viện trưởng. Viện trưởng phụ trách chung, các Phó viện
trưởng giúp Viện trưởng phụ trách chỉ đạo các khâu công tác kiểm sát hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, khiếu tố, văn phòng và thi hành án nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ

chung của ngành.
2.2.2. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.2.1. Khái quát tình hình thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện thành phố Hà Nội từ năm 2005 - 2011
Dưới sự chỉ đạo của VKSNDTC, của VKSND thành phố Hà Nội, các VKSND cấp huyện
luôn bám sát và quán triệt đầy đủ tinh thần của các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, các yêu cầu nhiệm vụ và chỉ tiêu công tác của ngành đặt ra. Đồng thời, gắn
việc thực hiện công tác chuyên môn với việc phục vụ tình hình chính trị địa phương, hoàn
thành tốt nhiệm vụ của ngành và phục vụ tốt tình hình chính trị trên địa bàn.
2.2.2.2. Các kết quả đã đạt được
Nắm vững tinh thần chỉ đạo và các yêu cầu đối với công tác tư pháp nói chung, với công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS nói riêng, với sự nỗ
lực của mỗi đơn vị và mỗi cá nhân Kiểm sát viên, cán bộ VKSND cấp huyện, công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKSND cấp huyện đã đạt được những kết quả
tốt.
Xác định được tầm quan trọng của từng thao tác nghiệp vụ và mối liên hệ chặt chẽ, đan
xen nhau giữa chúng, VKSND cấp huyện đã chú trọng đến tất cả các công tác thực hiện
quyền năng: Đã chú trọng đến công tác quản lý và xử lý tin báo tội phạm; tăng cường trách
nhiệm và chất lượng của công tác kiểm sát ngay từ giai đoạn khởi tố: kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường, kiểm sát bắt giữ, phân loại xử lý…
Trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát khởi tố, trách nhiệm của Kiểm sát
viên được nâng cao.
Đối với các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất: bắt, tạm giữ, tạm giam: với sự cố
gắng nỗ lực với tinh thần trách nhiệm cao hơn, vừa thận trọng và bám sát các quy định của
pháp luật, cho nên chất lượng của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của
VKS trong việc bắt, giữ, tạm giam và phê chuẩn các biện pháp này được nâng lên rõ rệt.
VKSND đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan nên tiến độ giải quyết án được
đẩy nhanh hơn.
Việc tăng cường trách nhiệm và chất lượng của các Kiểm sát viên VKS đã có ảnh

hưởng trực tiếp đến kết quả của cuộc điều tra: Hầu hết các hồ sơ vụ án không những đảm
bảo đúng tiến độ điều tra mà sau khi kết thúc điều tra chuyển đến VKS đều đảm bảo đầy đủ
tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc truy tố bị can ra trước Toà án bằng một bản cáo trạng
với những căn cứ vững chắc.
Công tác phối hợp giữa VKS cấp huyện với Cơ quan điều tra đã được làm tốt hơn.
Tất cả các trường hợp Cơ quan điều tra tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra đều được VKS
theo dõi, quản lý và kiểm sát chặt chẽ cho nên các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ của Cơ
quan điều tra đều đảm bảo có căn cứ.
Công tác kiểm sát việc lập hồ sơ cũng đã được quan tâm chú trọng hơn trước. Chất lượng
các hồ sơ vụ án hầu hết đều đảm bảo đáp ứng yêu cầu, được sắp xếp theo quy định chung, thể
hiện tính khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, đánh giá các chứng cứ, giúp
cho việc thực hiện chức năng của Cơ quan điều tra, VKS và Toà án được tốt.
Thông qua hoạt động của mình, VKS đã phát hiện nhiều vi phạm của Cơ quan điều tra,
của Điều tra viên và có ý kiến kịp thời.
VKSND cấp huyện đã có những biện pháp chủ động quan tâm đến công tác phòng ngừa
tội phạm.
Trong những năm qua, VKS cấp huyện đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Nguyên
nhân của các kết quả đó có nhiều, song trước hết phải kể đến các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, VKS cấp huyện Hà Nội có một đội ngũ Kiểm sát viên hầu hết trẻ tuổi, đã được
đào tạo cơ bản, năng động nên có chuyên môn nghiệp vụ tốt, có ý thức chính trị và lập trường
tư tưởng kiên định, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cán bộ kiểm sát:
"Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng và khiêm tốn". Đó là yếu tố vô cùng quan
trọng cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS.
Thứ hai, nhờ có sự lãnh đạo tập trung thống nhất và khoa học, sự giáo dục có hệ thống,
sự quán triệt sâu rộng của lãnh đạo VKSNDTC, tạo nên sự chuyển biến lớn và sâu sắc trong
nhận thức và hành động của các cán bộ, Kiểm sát viên toàn ngành kiểm sát về yêu cầu đối
với công tác kiểm sát trong giai đoạn mới.
Thứ ba, đã xác định và thiết lập được mối quan hệ tốt với các cơ quan chức năng trên cơ
sở phối hợp thực hiện chức năng nhiệm vụ của từng ngành theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, của các cấp uỷ Đảng với công

tác tư pháp nói chung, với công tác kiểm sát nói riêng.
Thứ năm, thông qua việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, VKS đã chủ động nắm
bắt tình hình, tìm hiểu về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xảy ra trên địa bàn cũng như
các vấn đề cần giải quyết.
Thứ sáu, công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra được tiến hành có hiệu quả nên đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm tốt và
không ít các bài học bổ ích.
2.3. Những tồn tại, hạn chế của hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện và những nguyên nhân của nó
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ nêu trên, trong hoạt động thực hành quyền công tố
của VKSND cấp huyện thành phố Hà Nội còn bộc lộ những yếu kém và hạn chế:
Mặc dù công tác quản lý và xử lý tố giác, tin báo tội phạm của VKS trong thời gian qua
đã tiến bộ nhiều, song VKS vẫn còn thiếu chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan hữu
quan nên chưa nắm bắt được triệt để các thông tin về tội phạm, vẫn còn tình trạng tội phạm
xảy ra nhưng không được phát hiện để khởi tố hoặc phát hiện nhưng chậm khởi tố.
Vẫn còn tình trạng Kiểm sát viên chưa làm hết trách nhiệm trong việc thực hiện các quyền
năng của VKSND. nên đã ảnh hưởng trực tiếp không nhỏ đến chất lượng của công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
Trong những năm qua, các VKSND cấp huyện đã trả cho Cơ quan điều tra để yêu cầu
điều tra bổ sung 673 vụ, Toà án đã trả cho VKSND 1147 vụ để yêu cầu điều tra bổ sung với
các lý do trả khác nhau hoặc là để bổ sung chứng cứ, tố tụng và các lý do khác. Những con số
trên đây nói lên những hạn chế của các Kiểm sát viên.
Sở dĩ cho đến nay, trong công tác thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện còn
tồn tại những hạn chế và yếu kém như vậy là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, không ít cán bộ, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện nhận thức chưa thấu đáo về
chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của VKSND trong TTHS. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của không ít cán bộ, Kiểm sát viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, tinh thần trách
nhiệm của một số cán bộ, Kiểm sát viên trong thực thi nhiệm vụ còn chưa cao.
Thứ hai, cơ cấu tổ chức, bộ máy của VKSND còn thiếu sự đồng bộ, thiếu thống nhất và
chưa khoa học.

Thứ ba, công tác điều hành, chỉ đạo nghiệp vụ của VKSND cấp trên kể cả từ VKSNDTC
không phải lúc nào cũng kịp thời, sâu sát và cụ thể. Chủ yếu chỉ dựa trên các báo cáo của cấp
dưới thường là các báo cáo định kỳ, nên nhiều khi các vấn đề nổi cộm cần có sự chỉ đạo lại
không được nắm bắt để chỉ đạo hoặc uốn nắn kịp thời.
Thứ tư, do hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, thiếu toàn diện và còn nhiều sơ hở.
Thứ năm, công tác tổng kết rút kinh nghiệm, tập hợp và kiến nghị các vi phạm hiệu quả
còn mang tính chiếu lệ. Chất lượng các kiến nghị, yêu cầu khắc phục chưa cao nên thiếu tính
thuyết phục.
Thứ sáu, sự phối hợp giữa VKSND với các cơ quan bảo vệ pháp luật nhất là với Cơ quan
điều tra còn thiếu thường xuyên và chặt chẽ. Việc vận dụng chức năng còn máy móc, cục bộ.
Thứ bảy, điều kiện cơ sở vật chất của ngành còn thiếu thốn nhưng việc sử dụng còn lãng
phí, chưa thiết thực cho công tác chuyên môn. Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ và tiền lương
còn chưa thoả đáng. Đời sống của các cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều khó khăn nhưng chưa
được quan tâm tháo gỡ và giải quyết ở tầm vĩ mô cũng là một nguyên nhân khiến nhiều
người thiếu an tâm công tác chuyên môn nghiệp vụ, một số bị sa ngã trước những cám dỗ vật
chất thậm chí vi phạm pháp luật.

Chương 3
Những quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
ở Việt Nam hiện nay
3.1. Những quan điểm cơ bản nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của
viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đánh giá đúng mức vai trò của các cơ quan tư pháp nói
chung, của VKS nói riêng. Trong mọi giai đoạn cách mạng, cùng với việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước, Đảng ta luôn chú trọng đến việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp trong đó có VKS.
Với nhận thức về vai trò quan trọng của các cơ quan tư pháp, Đảng ta đã chủ trương cải
cách tư pháp nhằm củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của nền tư pháp nước nhà.
Chủ trương đúng đắn đó thể hiện tại các chỉ thị và nghị quyết khác nhau của Bộ Chính trị

liên tục được ban hành: Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 về một số công việc cấp bách
của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/10/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nghị quyết 08-NQ/TW đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo để tạo ra những bước chuyển
biến mạnh mẽ trong công tác tư pháp:
- Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục
vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; giữ vững bản
chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân.
- Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại
tội phạm hình sự,… bảo vệ trật tự, kỷ cương, bảo đảm tôn trọng quyền dân chủ, lợi ích hợp
pháp của các tổ chức và công dân.
- Các cơ quan tư pháp phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh
chấp.
- Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần
xây dựng và bảo vệ Đảng và Nhà nước.
Tiếp tục tiến trình cải cách tư pháp, ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết xác định: Nhiệm vụ
cải cách tư pháp đứng trước nhiều thách thức. Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp với tính
chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp…có
chiều hướng gia tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội
đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người. Đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo
vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm.
Nghị quyết nhấn mạnh các quan điểm cải cách tư pháp tại Nghị quyết 08-NQ/TW và tiếp

tục khẳng định mục tiêu và quyết tâm của Đảng cải cách tư pháp: "Xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Mới đây, Hội nghị tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW và triển khai thực hiện
Nghị quyết 49-NQ/TW được tổ chức ngày 02/6/2005 đã đánh giá các kết quả đã đạt được của
4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, đưa ra kế hoạch thực hiện Nghị quyết 49-
NQ/TW mà theo đó Bộ Công an, Ban cán sự Đảng VKSNDTC, Ban cán sự Đảng Toà án
nhân dân tối cao…có kế hoạch thực hiện cải cách tư pháp đến năm 2020 trong ngành. Trong
kế hoạch của mình, Ban cán sự Đảng VKSNDTC đã xác định các nhiệm vụ cụ thể của ngành
trong lộ trình thực hiện cải cách tư pháp: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, tăng cường kiểm sát việc giải quyết
các vụ việc dân sự và những việc khác theo quy định của pháp luật…, kiện toàn tổ chức bộ
máy, xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh…, nghiên cứu thực hiện đề án chuyển
VKS thành Viện công tố sau năm 2010.
3.2. Những phương hướng nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
Tác giả luận văn đề xuất những phương hướng nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bao gồm:
3.2.1. Đổi mới và nâng cao chất lượng của bộ máy tổ chức cán bộ và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
3.2.2. Quán triệt và nắm vững các đường lối chính sách và yêu cầu đổi mới trong thực
hành quyền công tố, nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên cấp huyện
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm và năng lực thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện
3.2.4. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định trách nhiệm trong công
tác thực hành quyền công tố
3.2.5. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện
3.2.6. Tăng cường sự phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp huyện với các phòng ban, đơn vị
khác trong công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm

3.2.7. Hoàn thiện hệ thống pháp luật - cơ sở pháp lý của hoạt động thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát và tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn luật
3.2.8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định sự thành công của công
cuộc cải cách tư pháp
3.2.9. Tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện và hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên cấp
huyện
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện
Để nâng cao hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp của VKS cấp huyện, theo tác giả cần phải thực hiện một cách triệt để và đồng bộ các
giải pháp nêu trên. Ngoài ra, tác giả có một số kiến nghị cụ thể như sau:
Kiến nghị thứ nhất: Kiện toàn tổ chức bộ máy và chú trọng đặc biệt nhân tố con người
Kiến nghị thứ hai: Xây dựng các văn bản pháp luật để tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa
VKS với các cơ quan chức năng trong giải quyết án hình sự

Kết luận
Trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, VKSND được giao cho chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là một nhiệm vụ rất vinh dự
nhưng cũng rất nặng nề mà VKSND được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao cho gánh vác.
Đến nay, công tác kiểm sát đã đạt được những kết quả tốt, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp
đổi mới của đất nước song cũng vẫn còn những hạn chế tồn tại mà toàn ngành kiểm sát phải
xác định để có hướng phấn đấu khắc phục nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Công tác
kiểm sát được tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng còn gặp không ít những khó khăn, vướng
mắc trên các phương diện cả về lý luận và thực tiễn. Để góp phần vào việc tháo gỡ những
khó khăn đó, tác giả đã cố gắng đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền công tố,
thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp, khái niệm, đối
tượng, nội dung, phạm vi và mối quan hệ giữa các vấn đề đó, phân tích và làm rõ thực hành
quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS trong hoạt động tư pháp đồng thời
trên cơ sở sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, thống kê, so

sánh,… liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố của VKS cấp huyện nói chung và
thành phố Hà Nội nói riêng; đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
của VKS cấp huyện, các kết quả đã đạt được cần phát huy, các vấn đề thiếu sót, yếu kém tồn
tại cũng như nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp và có một số kiến
nghị cần thực hiện nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố của VKS
cấp huyện, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.


References
1. Lê Cảm (2001), "Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa
học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền
công tố ở Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
2. Đào Hữu Dân (2005), "Những đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra
với Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự", Công an nhân dân, (2).
3. Nguyễn Tấn Dũng (2003), "Bài phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2002 và
triển khai công tác năm 2003 của ngành Kiểm sát nhân dân, ngày 07/01/2003", Kiểm sát,
(2).
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3 của Bộ Chính trị
(khoá IX) về một số công việc cấp bách các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm
2000, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 về một số nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3 về việc triển
khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị
(Khoá IX) về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tại Việt Nam đến
năm 2010, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết
số 08-NQ/TW, Hà Nội.
15. Trần Văn Độ (1999), "Một số vấn đề về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ:
Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt
Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
16. Đỗ Văn Đương (1999), "Khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung quyền công tố", Kỷ
yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực
hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà
Nội.
17. Phạm Hồng Hải (1999), "Bàn về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những
vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
18. Phạm Hồng Hải (2002), "Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp", Kiểm
sát, (8), tr. 7-11.
19. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
20. Lê Thị Tuyết Hoa (2001), "Bàn về quyền công tố", Nhà nước và pháp luật, (10).
21. Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
22. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
23. Trần Minh Hưởng (2009), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung

năm 2009, Nxb Lao động, Hà Nội.
24. Phạm Tuấn Khải (1999), "Vài ý kiến về quyền công tố và thực hiện quyền công tố", Kỷ
yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực
hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà
Nội.
25. Dương Xuân Khính (2002), "Những yêu cầu và biện pháp để nâng cao trình độ và chất
lượng cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân", Kiểm sát, (2).
26. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
27. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Nguyễn Đức Lương (2002), "Bàn về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002", Kiểm sát, (8).
29. Nguyễn Đức Mai (1999), "Một số ý kiến về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp
bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở
Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
30. Trần Văn Nam (2004), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Hà Nội.
31. Võ Quang Nhạn (1984), "Bàn về quyền công tố", Kiểm sát, (2).
32. Nguyễn Thái Phúc (1999), "Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát", Kỷ yếu
đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện
quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
33. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
34. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
35. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
36. Quốc hội (1992), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
37. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
38. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

39. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội
40. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
41. Trịnh Duy Tám (2005), áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà
Nội.
42. Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
43. Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình Công tác kiểm sát, tập 1, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
45. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
46. Đào Trí úc (Chủ biên) (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. ủy ban Pháp luật Quốc hội khoá X (2002), Dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
(sửa đổi) (số 729/UBPL ngày 14/3), Hà Nội.
48. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 388/NQ/UBTVQH 10 ngày 17/3 về
bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
gây ra, Hà Nội.
49. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân,
Hà Nội.
50. Nguyễn Tất Viễn (2002), "Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Kỷ
yếu đề tài khoa học: Những giải pháp nâng cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, Hà Nội.
51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Quyết định số 53/1998/QĐ-KSĐT ngày 21/9 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế kiểm sát điều tra,
Hà Nội.
52. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Quy chế công tác kiểm sát điều tra, Hà Nội.
53. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực

hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay", Thông tin khoa học pháp lý, (1).
54. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), "Tờ trình số 07/VKH ngày 11/3 về dự án Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi)", Kiểm sát, (4)
55. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Quyết định số 120/2004/QĐ-VKSNDTC
ngày14/9 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế tạm
thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hà Nội.
56. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Sổ tay Kiểm sát viên, Hà Nội.
57. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội (2005 - 2010), Báo cáo thống kê hình sự hàng
năm từ năm 2005 đến năm 2010, Hà Nội.
58. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
59. Nguyễn Như ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.





×