Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

CHUYÊN ĐỀ: “ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THCS ” Mã mô đun THCS 2 – BDTX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.62 KB, 12 trang )

PHÒNG GD&ĐT DIÊN KHÁNH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG THCS NGUYỄN HUỆ
Độc lập – Tự do – hạnh phúc
_________

_____________________________________

Diên Phước, ngày 17 tháng 01 năm 2013

CHUYÊN ĐỀ: “ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THCS ”
Mã mô đun THCS 2 – BDTX – năm học 2012 - 2013
____________
A. Đặt vấn đề:
Trước tiên ta tiếp cận một số vấn đề.
- Hoạt động sư phạm là gì? Là hoạt động được tổ chức có mục đích, kế hoạch
nhằm hình thành và phát triển con người.
Là hoạt động tương tác và thống nhất giữa vai trò chủ đạo của nhà giáo dục và vai
trò chủ động của người được giáo dục.
Là hoạt động luôn vận động, phát triển trong các hiện tượng giáo dục, trong các sự
kiện giáo dục và trong các hoạt động giao lưu cụ thể.
Là hoạt động có mối quan hệ biện chứng với các môi trường bên ngoài ( KH –
XH; KH – CN …).
Hoạt động sư phạm bao gồm: Hoạt động dạy học ( giáo dục trí tuệ ) và Hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp “ Hoạt động giáo dục - theo nghĩa hẹp ” ( Giáo dục trí tuệ - giáo
dục thẩm mỹ - giáo dục thể chất – giáo dục lao động, hướng nghiệp ).
- Trong nhà trường phổ thông, hoạt động dạy học được coi là một hoạt động trọng
tâm, phong phú về nội dung và hình thức, thường diễn ra trong quá trình dạy học và giáo
dục với sự tham gia nhiều nhân tố, chịu sự tác động của nhiều lực lượng như: Gia đình –
nhà trường – xã hội. Hoạt động dạy học ở nhà trường phổ thông giữ một vị trí trung tâm
bởi nó chiếm hầu hết thời gian, khối lượng công việc của thầy và trò trong một năm học,
nó là nền tảng quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà


trường phổ thông; đồng thời nó quyết định kết quả đào tạo của nhà trường. Chính vì vậy
nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường phổ thông là phải dành nhiều thời gian cho công tác
hoạt động dạy học, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của xã hội.
- Hoạt động dạy học thể hiện tính hai mặt: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt
động học của học sinh.
- Trong chuyên đề này chỉ giới hạn nội dung hoạt động học tập của học sinh gồm:
1. Hoạt động học tập
2. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh THCS.
Với mục tiêu là phải phân tích được các đặc điểm hoạt động học tập của học sinh THCS.
B. Nội dung


I. Hoạt động học tập
- Khái niệm: Học tập là một hoạt động nhận thức, chỉ khi có nhu cầu hiểu biết học sinh
mới tích cực học tập. Nhu cầu hiểu biết đó chính là động cơ nhận thức của học sinh trong
học tập.
Học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể trong hoạt động dạy học. Vì vậy trong
quản lý hoạt động học của học sinh cần làm cho giáo viên nhận thấy trách nhiệm này là
đặc biệt quan trọng, vì nó là khâu quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong
nhà trường.
Không gian hoạt động học tập của học sinh là từ trong lớp, ngoài lớp đến ở nhà.
Thời gian hoạt động học của học sinh bao gồm giờ học trên lớp, giờ học ở nhà và thời
gian thực hiện các hình thức học tập khác.
Trong việc quản lý hoạt động học tập của học sinh, chúng ta cần bao quát được cả
không gian, thời gian và các hình thức học tập để điều hòa cân đối chung, điều khiển
chúng hoạt động phù hợp với tính chất và quy luật hoạt động dạy học.
Vấn đề đặt ra trong quản lý hoạt động học của học sinh không phải chỉ trên bình
diện khoa học giáo dục mà còn là một đòi hỏi có ý nghĩa về tinh thần trách nhiệm của
giáo viên đối với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.

- Một số yêu cầu trong quản lý hoạt động học của học sinh:
+ Giáo dục học sinh có tinh thần, thái độ, động cơ học tập đúng đắn, được cụ thể
hóa trong nội quy học tập để học sinh rèn luyện thường xuyên thành những thói quen tự
giác;
+ Phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh;
+ Hình thành nền nếp học tập cho học sinh;
+ Hoạt động học tập phải bảo đảm hiệu quả dạy học và nâng cao chất lượng học
tập cho toàn thể học sinh và từng học sinh.
- Nội dung quản lý hoạt động học của học sinh:
+ Giáo dục tinh thần, thái độ, động cơ học tập;
+ Tổ chức xây dựng và thực hiện nội quy, nền nếp học tập;
+ Dạy phương pháp, kỹ năng cho học sinh;
+ Phát động phong trào thi đua học tập;
+ Giúp đỡ các đối tượng học sinh ( phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh
giỏi );
+ Phân tích, đánh giá kết quả hoạt động học của học sinh, biểu dương khen thưởng
kịp thời;
+ Giáo viên chủ nhiệm lớp xây dựng kế hoạch chủ nhiệm;
+ Phối hợp với gia đình để quản lý hoạt động học ở nhà của học sinh;
+ Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác để quản lý hoạt động học của học
sinh.
- Biện pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh:
1.Giáo dục tinh thần, thái độ, động cơ học tập
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu kém và
thường xuyên vi phạm nội quy nhà trường, thì nguồn gốc sâu xa là các em chưa định


hướng được động cơ học tập đúng đắn. Từ đó, các em không nhẫn nại chịu khó, không
kiên trì học tập, tập trung vào những bạn bè lười biếng, trốn học.
Nhằm khơi dậy động cơ hứng thú học tập ở học sinh cũng như tăng cường việc

kiểm tra đánh giá tinh thần thái độ học tập của học sinh một cách nghiêm túc để cho học
sinh xác định đúng nhiệm vụ học tập của mình trong nhà trường, để giúp các em trở
thành con ngoan, trò giỏi, hữu dụng trong gia đình, có ích trong xã hội.
Các biện pháp:
+ Chỉ đạo việc sinh hoạt lớp thông qua hình thức tự quản. Tự các em xây dựng kế
hoạch hoạt động của lớp, xây dựng các chỉ tiêu, biện pháp thực hiện. Thành lập các nhóm
học tập để các em tự giúp đỡ lẫn nhau, trong đó giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò là
người hướng dẫn, tổ chức.
+ Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm. Dùng tiết sinh
hoạt dưới cờ tổ chức hoạt động thảo luận, trao đổi theo chủ đề như: phương pháp học tốt,
học tập có lợi ích gì? Chủ đề tình bạn, ước mơ lực chọn nghề nghiệp tương lai …
+ Quan tâm việc giáo dục học sinh có ý thức xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh; tổ chức viết bài dự thi do trường đề ra với nội dung theo từng tháng nhằm xây
dựng cho các em ý thức học tập; đẩy mạnh phong trào thi đua trồng cây xanh, cây cảnh,
tạo vẻ mỹ quan cho nhà trường, góp phần xây dựng nhà trường ngày càng thêm Xanh –
Sạch – Đẹp.
+ Đồng thời, cũng thông qua giờ dạy của mình giáo viên bộ môn góp phần giáo
dục các em về tinh thần, thái độ học tập bằng cách kiểm tra đánh giá việc chuẩn bị bài ở
nhà trước khi đến lớp.
+ Tăng cường giáo dục hạnh kiểm, đạo đức, lối sống, biết và thật sự tôn trọng thầy
cô giáo, ngay cả thầy cô không dạy ở lớp mình, người lớn tuổi, hòa nhã với bạn bè, giúp
đỡ bạn khi gặp khó khăn, không nói tục chửi thề, không tham gia vào các tệ nạn xã hội,
giáo dục truyền thống quê hương, truyền thống cách mạng. Tập trung vào giáo dục động
cơ học tập theo phương châm “ Ngày nay học tập – ngày mai lập nghiệp”.
+ Kết hợp với giáo viên bộ môn của lớp chủ nhiệm, thống nhất biện pháp giúp học
sinh yếu kém. Đối với học sinh khá giỏi nhà trường có kế hoạch cùng gia đình bồi dưỡng,
tạo nguồn chuẩn bị cho kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh.
+ Phối hợp với các đoàn thể như Công đoàn, đoàn thanh niên và đội thiếu niên tổ
chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp như: Tìm hiểu ma túy, HIV – AIDS, an
toàn giao thông, sức khỏe sinh sản vị thành niên ….

+ Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh nắm tình hình học tập của các em.
Thông qua ký cam kết trách nhiệm giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình về quản lý con
em học tập.
Các điều kiện thực hiện:
+ Thông qua các tiết sinh hoạt chào cờ, sinh hoạt chủ nhiệm và các hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để giáo viên chủ nhiệm tác động đến học sinh.
+ Kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn quản lý kiểm tra hoạt
động học của học sinh.
+ Kết hợp với chính quyền địa phương, công an, gia đình, quản lý học sinh giúp
các em không vi phạm pháp luật và ý thức tự học hỏi của học sinh.


2. Tổ chức xây dựng và thực hiện nội quy, nền nếp học tập
Nhà trường hướng dẫn giáo viên chủ nhiệm tổ chức cho học sinh lớp mình thảo
luận để đề ra nội quy học tập.Nội dung bản nội quy hướng vào những vấn đề sau:
Chuyên cần – Tinh thần thái độ học tập – Tổ chức học tập – Sử dụng, bảo vệ và chuẩn bị
đồ dùng học tập – Quy định khen thưởng, kỷ luật việc thực hiện nội quy học tập.
Phó hiệu trưởng cùng với tổ, khối trưởng chủ nhiệm, tổng phụ trách đội tổng hợp
biên bản thảo luận của các lớp, xây dựng biên bản nội quy học tập cho học sinh.
Việc theo dõi, kiểm tra, nhận xét tình hình thực hiện nội quy học tập của học sinh
phải được tiến hành thường xuyên, chặt chẽ và có người chuyên trách kết hợp luân phiên.
3. Dạy phương pháp, kỹ năng cho học sinh
Phương pháp học có hiệu quả có thể chia làm ba giai đoạn như sau:

+ Giai đoạn thứ nhất: Trước khi học
Đầu tiên phải hiểu được yêu cầu mà quá trình học đòi hỏi. Tiếp theo phải biết
quản
lý những đặc điểm tính cách của mình. Giả sử mình là một người nóng tính, khi đã ngồi
rất lâu rồi mà vẫn chưa tìm ra cách giải của một bài toán khó đột nhiên ta thấy bực mình
vô cớ và không muốn học nữa, hãy tìm cách để kiểm soát cơn giận đó. Có thể chỉ dùng

một biện pháp đơn giản như: trước khi học, hãy viết lên một mảnh giấy nhỏ dòng chữ
"Tức giận chẳng giải quyết được vấn đề gì" để trước mặt, mỗi lần thấy bực tức hãy nhìn
vào mảnh giấy đó, thư giãn một vài phút sau đó lại bắt tay làm lai từ đầu để tìm ra được
vướng mẳc của bài toán... Bước tiếp theo là lên kế hoạch, hãy phân chia thời gian cụ thể
để học từng môn một.
Ví dụ như ta quy định trong buổi chiều nay sẽ phải học được hai môn đó là: Toán, Lý và
đã đặt kế hoạch cho mình là phải học trong vòng ba tiếng từ 14 giờ - 17 giờ. Như vậy
không có nghĩa là sẽ chia đều ra mỗi môn hoc trong khoảng thời gian là một tiếng rưỡi
mà trước khi lên kế hoạch hãy dành chút thời gian để ước lượng xem môn nào có số
lượng kiến thức nhiều hơn rồi từ đó phân bố thời gian học sao cho hợp lý. Tốt nhất là hãy
bắt đầu học từ môn nào mà mình ưa thích hơn để tạo cho mình niềm say mê học tập.
+ Giai đoạn thứ hai: Trong quá trình học
Tính linh động trong việc đưa ra những lựa chọn đúng đắn là rất cần thiết trong
giai đoạn này. Hãy thử hình dung thế này nhé:
Ta đang cần chứng minh một bài toán nhưng để chứng minh được nó, cần áp dụng một
bất đẳng thức A nào đó. Tuy bất đẳng thức này thường được dùng nhưng khi phải chứng
minh, đột nhiên ta lại chẳng nhớ phải chứng minh thế nào, lúc này sẽ phải đặt mình trước
hai sự lựa chọn.
. Thứ nhất: không cần chứng minh cứ thế làm tiếp để dành thời gian còn học các môn


khác.
. Thứ hai: là cố gắng lục lọi lại cách chứng minh bất đăng thức đó trong chồng sách vở
cũ dù mất khá nhiều thời gian.
Vậy chọn cách nào đây, tất nhiên trong phương pháp này, sẽ phải chọn cách hai nếu như
không muốn rơi vào hoàn cảnh một ngày kia mình gặp lại bài toán này trong một bài
kiểm tra. Chúng ta có muốn mình sẽ bị trừ điểm chỉ vì trong bài tọán có dòng chữ áp
dụng bất đẳng thức A mà lại chẳng có nổi phần chứng minh bất đẳng thức A hay không?
+ Giai đoạn thứ 3: Sau khi học xong
Trong giai đoạn cuối cùng này hãy tự thực hiện môt "cuộc càn quét" lại những gì

mà ta đã học được. Chẳng hạn, có thể ghi lại vào một mảnh giấy cách chứng minh bất
đẳng thức A (nêu trên) hay những công thức, định lý... mà mình vừa học xong hoặc làm
riêng cho mỗi bộ môn một quyển sổ nhỏ. Ðây sẽ chính là quyển sổ tóm tắt lý thuyết của
riêng mình. Với cách này ta sẽ nhớ lâu hơn những gì mà mình đã học được và cũng sẽ dễ
dàng hơn nếu chẳng may lại quên cách chứng minh bất đẳng thức A một lần nữa. Mình
sẽ không còn phải mất nhiều thời gian để lục tìm lại đống sách vở cũ nữa đâu
Để có các kỹ năng học tập hiệu quả, cần phải luyện tập và thực hành. Điều này
không chỉ đơn giản là ‘nghĩ về’ việc học, mà phải thực sự thực hiện và trong quá trình
thực hiện này, ta cần sử dụng thông tin để thực hành tốt hơn.
+ Xây dựng lịch học/ thời khóa biểu:
Trước khi bắt đầu nghĩ đến cải tiến quá trình học tập của mình, hãy nên xây dựng
một lịch trình cho việc học. Nếu không, sẽ không có cách nào tốt hơn để có thể bố trí thời
gian quí giá của mình khi có việc gì đó bất ngờ xảy ra. Một lịch học/thời khóa biểu tốt,
được lên một cách cẩn thận có thể được xem là ‘cứu tinh’ của chúng ta đó! Ta cũng cần
học cách lập một thời thời khóa biểu đáp ứng nhu cầu của mình, điều chỉnh nó khi cần
thiết và, quan trọng nhất, thực hiện theo đúng những gì mà mình đã đặt ra.
+ Quá trình học tập
Sử dụng thời gian hợp lý: Thời gian là nguồn lực có giá trị nhất mà một học sinh
có khi ngồi trên ghế nhà trường. Tuy nhiên, phần lớn các học sinh đã sử dụng thời gian
hoang phí. Vì vậy, một khi đã có thời khóa biểu, hãy làm theo kế hoạch mà ta đã đặt ra.
Học ở đâu? Ta có thể học được bất cứ ở nơi đâu. Tất nhiên, một số nơi sẽ tốt hơn
các nơi khác. Thư viện, phòng đọc sách, phòng học hay phòng riêng là tốt nhất. Ngoài ra,
chỗ mà mình chọn để học nên là những nơi không có nhiều tiếng ồn hay những nơi làm
cho mình mất tập trung.
+ Các chiến thuật học tập
- Kỹ năng tư duy: Tất cả mọi người đều có các kỹ năng tư duy, nhưng chỉ có một
số người biết sử dụng chúng một cách hiệu quả. Không thể học kỹ năng tư duy hiệu quả,
nhưng có thể xây dựng và phát triển các kỹ năng này trong một thời gian. Các nhà tư duy
giỏi nhìn thấy được các khả năng trong khi những người khác chỉ nhìn thấy một điểm
đến. Nếu chúng ta không phải là người biết tư duy tốt, hãy bắt đầu hình thành các thói

quen tự mình đặt ra các câu hỏi cho chính mình từ ngay bây giờ. Trò chuyện với những
học sinh khác mà ta cảm thấy đó là những người biết tư duy tốt. Hỏi các bạn ấy những gì
họ làm khi họ có tư duy phản biện hay sáng tạo. Theo thời gian, ta có thể có được cái
nhìn sâu sắc và có giá trị giúp ta trở thành người có tư duy tốt hơn trước đây


- Phương pháp SQ3R: được chứng minh là phương pháp học tập rất hiệu quả.
SQ3R là Tìm hiểu/Khảo sát (Survey), Đặt câu hỏi (Questions), Đọc (Read), Kể lại
(Recite) và Ôn tập (Review). Bây giờ hãy dành 1 phút để viết lại những từ SQ3R xuống
giấy. Có thể xem đây là một cách tốt để nhớ lại chiến lược học tập hiệu quả này.
. Tìm hiểu/Khảo sát – nhằm có được bức tranh tổng thể tốt nhất về những gì mà mình sẽ
học trước khi học các chi tiết. Nó cũng giống như tấm bản đồ chỉ đường trước khi ta bắt
đầu một hành trình. Nếu như chúng ta không biết rõ địa hình, ranh giới, tìm hiểu bản đồ
là cách tốt nhất để bắt đầu một chuyến đi.
. Đặt câu hỏi – Hỏi để học. Các vấn đề quan trọng cần phải học thường là câu trả lời cho
các câu hỏi đó. Các câu hỏi phải dẫn đến các thông tin trọng tâm, cần nhấn mạnh vào nội
dung cần học như cái gì, tại sao, làm thế nào, khi nào, ai và ở đâu. Hãy tự hỏi mình các
câu hỏi mà mình đang đọc hay trước khi học. Khi ta trả lời các câu hỏi này, ta sẽ thấy
được ý nghĩa của tài liệu/sách mà mình đang học và việc học tập sẽ trở nên dễ dàng hơn
vì những ấn tượng mà ta có được trong quá trình này. Đừng ngại viết ra các câu hỏi của
mình trên lề của vở, sách giáo khoa hay bất cứ nơi nào mà chúng ta thấy cần thiết.
. Đọc – Cách tốt nhất để có thông tin là thông qua việc đọc. Càng học lên cao, việc đọc
càng cần thiết. Trước đây, có thể ta đọc vì được ‘yêu cầu’ phải đọc. Tuy nhiên, càng học
lên, ta cần phải tập cách đọc có chủ đích. Khi học, ta cần đọc một bài học ba bốn lần và
mỗi lần với một chủ đích khác nhau. Nên cần phải biết mục đích chính trước mỗi lần đọc
và đọc theo mục đích đó.
Việc đọc không phải là đảo mắt qua các trang trong sách giáo khoa. Khi đọc, hãy đọc
một cách tích cực và chủ động. Đọc để trả lời các câu hỏi mà mình tự hỏi hay các câu hỏi
của giáo viên hay các tác giả sách giáo khoa đặt ra. Luôn để ý và tập trung vào những chỗ
in đậm hoặc in nghiêng Những người viết sách giáo khoa thường có khuynh hướng

muốn quyển sách của mình nhận được sự chú ý đặc biệt khi sử dụng các chỗ như thế.
Cũng nên lưu ý rằng khi đọc, hãy cố gắng đọc tất cả mọi thứ, bao gồm các bảng biểu, sơ
đồ và minh họa. Thường các bảng biểu, sơ đồ và minh họa có thể truyền đạt các ý tưởng
có sức mạnh và ý nghĩa thông tin nhiều hơn là các đoạn văn.
Khi đọc, cần tìm ý chính! Đọc hiệu quả là tìm ra ý chính trong khi đọc, cần học cách biết
được ý chính của bài đọc và của tác giả và diễn đạt lại theo cách mình hiểu, bằng từ của
chính mình. Mỗi đoạn văn thường chứa một ý tưởng chính. Các ý tưởng chính sẽ cho
thấy nội dung chính của quyển sách. Hãy tạo thói quen tìm các ý tưởng chính trong từng
đoạn văn mình đọc. Đọc xong ý chính, hãy phát triển các chi tiết quan trọng!
Khi đọc, đừng cố đọc to lên! Thường việc đọc to không giúp ích cho việc học của chúng
ta. Nếu như chuyển động môi của mình trong khi đọc, việc đọc của mình sẽ kém hiệu quả
do tốc độ đọc sẽ bị chậm lại, hãy đặt một ngón tay lên môi của mình, nếu như ta có thói
quen đọc to. Ngón tay của ta sẽ nhắc mình đừng chuyển động môi. Hãy cố gắng đọc
nhanh hơn và nhớ lại nhiều hơn – sau một thời gian, tự mình sẽ ngạc nhiên khi thấy được
sự tiến bộ trong việc đọc.
. Kể lại – Khi kể lại, ta sẽ dừng việc đọc của mình một lúc để nhớ lại những gì mà mình
đã đọc. Cố gắng nhớ những tiêu đề chính, các ý tưởng và khái niệm quan trọng được
trình bày ở dạng in đậm hoặc in nghiêng, cũng như những gì mà các bảng biểu, sơ đồ và
minh họa biểu thị. Cố gắng xây dựng khái niệm chung về những gì mà ta đã đọc và diễn


đạt lại bằng từ hay ý tưởng của chính mình. Cố gắng kết nối những gì mà ta đã đọc với
những gì mà mình đã biết. Khi ta làm điều này thường xuyên, ta sẽ có cơ hội nhớ nhiều
hơn rất nhiều và có khả năng trình bày lại những gì mà mình đọc được từ tài liệu để hoàn
thành bài viết, bài thi của mình.
. Ôn tập - Một bài ôn tập là một cuộc tìm kiếm/khảo sát những gì mà ta đã học. Đó có thể
là việc ôn tập những gì mà ta được mong đợi phải hoàn thành chứ không phải là những gì
mà mình sẽ phải làm.
- Ghi chép: Giống như việc đọc, việc ghi chép cũng là một kỹ năng cần phải được
học và hoàn thiện. Nhiều học sinh trung học phổ thông rất kém kỹ năng này. Học cách

ghi chép không khó, nhưng chúng ta cần phải kiên trì.
- Ghi chép ở đâu? Phải học cách giữ các ghi chép của mình rõ ràng và khoa học.
Hãy nhớ rằng nếu như ta không thể đọc được các ghi chép của mình sau 3-4 ngày, chúng
sẽ dễ dàng trở nên vô dụng. Hãy sử dụng các quyển sổ tay có nhiều ngăn và có thể thêm
giấy vào khi cần thiết và tập thói quen ghi chép những gì mình cho là quan trọng và cần
ghi nhớ. Thay sổ khi đã hết chỗ ghi và tạo cho mình niềm vui mới khi có sổ mới.
Cuối cùng, hãy nhớ rằng, để có các kỹ năng học tập hiệu quả, chúng ta phải thực hành
nhiều lần. Có một câu nói: “Sự thực hành không làm nên sự hoàn hảo; thực hành
hoàn hảo mới tạo nên sự hoàn hảo”. Nếu muốn là người đạt được điều đó, hãy ghi nhớ
câu này trong tâm trí của mình.
4. Phát động phong trào thi đua học tập
Kết hợp với Đoàn thanh niên và đội thiếu niên TP.HCM phát động các đợt thi đua
theo chủ điểm với các nội dung thi đua cụ thể nhằm thu hút học sinh vào học tập và các
hoạt động vui chơi giải trí bổ ích. Thông qua các đợt thi đua mà nhà trường thường xuyên
động viên tinh thần học tập của học sinh bằng các hình thức khen thưởng. Động viên,
khen thưởng đối với học sinh có ý nghĩa giáo dục cao, vì vậy cần đặt ra các tiêu chuẩn
khen thưởng với nhiều mức độ và nhiều hình thức khen thưởng rộng rãi, tiến hành
thường xuyên định kỳ tuần, tháng, học kỳ, cuối năm, khen ở lớp, ở trường đồng thời cần
hết sức chú ý nêu gương và xây dựng những điển hình tốt.
5. Giúp đỡ các đối tượng học sinh ( phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học
sinh giỏi )
Trong hoạt động dạy học của nhà trường vấn đề chất lượng là một trong những
khâu quan trọng để đánh giá công tác quản lý của nhà trường, thông thường đánh giá vào
chất lượng dạy học của giáo viên và học sinh.
Biện pháp quản lý giúp đỡ học sinh yếu kém và quản lý mặt bằng chất lượng; bồi
dưỡng học sinh giỏi tạo phong trào mũi nhọn là nhằm giúp cho giáo viên nâng cao vai
tròng, trách nhiệm trong giảng dạy và lương tâm nghề nghiệp, giúp cho đối tượng học
sinh yếu kém vươn lên và khả năng vượt trội của học sinh giỏi để cùng nhà trường nâng
cao chất lượng và giúp cho Ban Giám hiệu quản lý được mặt bằng chất lượng trong nhà
trường

Ngay từ đầu năm sau khi có kết quả khảo sát chất lượng, nhà trường chỉ đạo cho
các tổ bộ môn, giáo viên chủ nhiệm tổng hợp, phân loại chất lượng, lưu ý ở hai đối tượng
yếu kém và giỏi.


Chuyên môn lập kế hoạch, phân lớp, chia thời khóa biểu thực hiện phụ đạo cho
đối tượng yếu kém và bồi dưỡng học sinh giỏi. Tùy theo đặc điểm, tình hình nhà trường,
có thể tập trung ở 3 môn Văn – Toán – Tiếng Anh; các môn khác, giao chỉ tiêu xóa yếu
cho từng giáo viên bộ môn và quan tâm, yêu cầu cao đối với học sinh giỏi theo từng bộ
môn. Đối với học sinh giỏi, đến lớp 8 nhà trường tổ chức thi tuyển để thành lập đội tuyển
cho các môn có thi cấp huyện và lập kế hoạch bồi dưỡng đến năm học lớp 9 trước khi thi
cấp huyện.
Một số hình thức, biện pháp phụ đạo, bồi dưỡng sau:
+ Sắp xếp, bố trí hợp lý nguồn cán bộ - giáo viên trong phân công phụ đạo, bồi
dưỡng.
+ Phối hợp với Đoàn thanh niên, giao cho đoàn viên giáo viên trực tiếp giúp đỡ
học sinh yếu kém.
+ Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với Đội thiếu niên xây dưng phong trào “ đôi bạn
cùng tiến”, “ nhóm học tập ở nhà” … có theo dõi, thống kê, đánh giá từng tháng, học kỳ
và cả năm có sơ kết, tổng kết hoạt động để đánh giá hiệu quả của biện pháp quản lý đề ra.
+ Chỉ đạo cho giáo viên quan tâm, đặt yêu cầu cao với học sinh giỏi trong quản lý
dạy học thêm.
Điều kiện để thực hiện tốt biện pháp:
+ Ban giám hiệu xây dựng kế hoạch một cách cụ thể rõ ràng, phân công nhiệm vụ
trách nhiệm cho từng giáo viên và từng đối tượng học sinh yếu kém, đối tượng học sinh
giỏi.
+ Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cán bộ quản lý và giáo viên bộ môn, các tổ
chức đoàn thể, giáo viên chủ nhiệm lớp và đặc biệt là sự cộng tác nhiệt tình của những
đối tượng học sinh yếu kém, học sinh giỏi.
+ Phải có sự kết hợp hài hòa giữa người giúp đỡ và người được giúp đỡ với tinh

thần nhiệt tình và trách nhiệm.
+ Phải có kế hoạch kiểm tra giám sát hoạt động và thực hiện chế độ khen thưởng
phù hợp, kịp thời. Đó là nguồn động viên để giáo viên làm tốt nhiệm vụ.
6. Phân tích, đánh giá kết quả hoạt động học của học sinh, biểu dương khen
thưởng kịp thời
Hàng tháng, nhà trường phân tích đánh giá kết quả học tập của học sinh về những
vấn đề sau ( có thống kê các số liệu cụ thể và lưu trữ ):
+ Tình hình thực hiện nền nếp học tập, tinh thần thái độ học tập, sự chuyên cần, kỷ
luật học tập.
+ Kết quả học tập: điểm số, tình hình kiểm tra, nhận xét đánh giá của giáo viên về
học tập của học sinh, chú ý đến kết quả học tập của học sinh yếu kém và học sinh giỏi.
+ Những vấn đề cần đăc biệt chú ý khác.
7. Giáo viên chủ nhiệm lớp xây dựng kế hoạch chủ nhiệm
a/ Vào đầu năm học giáo viên chủ nhiệm lớp tiến hành điều tra cơ bản về tình hình
lớp tiến hành điều tra cơ bản về tình hình chất lượng học tập của học sinh, phân tích đánh
giá tình hình đó. Cụ thể tìm hiểu các nội dung:
+ Về thái độ đối với việc học tập: xem xét học sinh có ham muốn học tập tốt
không; tình cảm biểu hiện khi học tập như mong muốn ( đât điểm cao ) hoặc khi không


đạt yêu cầu, về xu hướng thực hiện các yêu cầu và chỉ dẫn của giáo viên ( hưởng ứng –
không hưởng ứng – phản đối ).
+ Về sự phát triển trí lực: xem xét về sự cgu1 ý, trí nhớ, tư duy, về kỹ năng nêu
được các điểm chính trong bài học, về nhịp độ lĩnh hội các kiến thức, tính độc lập tư duy
và việc vận dụng các kiến thức trong khi giải các bài tập ( đây chính là nội dung quan
trọng nhất để biết học sinh đó hiểu bài đến đâu ).
+ Về các thói quen lao động học tập: Xem xét học sinh về mặt kỹ năng tổ chức
hợp lý việc học tập ở ngoài giờ học trên lớp, có tự giác hay không việc tự học; về xu
hướng khắc phục khó khăn trong học tập ( khi có bài khó có cố gắng hoàn thành hay
không ).

+ Về sự phát triển thể chất: Xem xét tình trạng sức khỏe và mức độ mệt mỏi của
học sinh trong việc học tập.
+ Về ảnh hưởng giáo dục gia đình: Xem xét thái độ của gia đình đối với việc xây
dựng cho con em họ sự ham học; việc tạo ra những điều kiện tinh thần, vật chất thuận lợi
cho việc học tập của con em; về ảnh hưởng của những người lớn trong gia đình nêu
gương cho trẻ em.
Giáo viên chủ nhiệm cần vận dụng một số phương pháp tìm hiểu sau:
+ Giáo viên chủ nhiệm lớp nhận bàn giao lớp mình từ giáo viên chủ nhiệm năm
học trước ( bàn giao sổ chủ nhiệm ) để nắm rõ tình hình phấn đấu, rèn luyện và học tập
của từng em trong lớp.
+ Kiểm tra văn hóa đầu năm theo kế hoạch của chuyên môn và tổng kết kết quả
kiểm tra của học sinh.
+ Quan sát hoạt động của học sinh trong trường, trong giờ học, trò chuyện với học
sinh …
+ Trong họp Phụ huynh học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi các nội dung
cần tìm hiểu. ( có thể lập phiếu hỏi những nội dung cần tìm hiểu ).
+ Có thể phối hợp với giáo viên bộ môn tạo ra tình huống và xem học sinh tự giải
quyết tình huống như thế nào.
b/ Tổ chức cho học sinh thảo luận việc thực hiện nội quy học tập để từng bước
hình thành cho học sinh những thói quen lao động khoa học ( lao động học tập ). Nhiệm
vụ này rất quan trong nó là cơ sở vững chắc cho các em học tập ở những bậc học cao hơn
Dựa vào các vấn đề trên, giáo viên chủ nhiệm kết hợp với hướng dẫn nhà trường
để xây dựng kế hoạch chủ nhiệm của lớp có cơ sở khoa học đạt hiệu quả.
8. Phối hợp với gia đình để quản lý hoạt động học ở nhà của học sinh
Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh để đảm bảo cho các em có đủ thời gian
học tập cần thiết trong ngày. Có thể xây dựng quy ước về sự phối hợp giữa gia đình và
nhà trường trong việc giúp đỡ con em học tập. Giáo dục học sinh ở trường và ở nhà là
một quá trình thống nhất, khi quá trình học tập ở nhà của học sinh được tổ chức tốt, tiếp
nối củng cố quá trình học tập trên lớp sẽ nâng cao kết quả học tập của các em học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm lớp là người tổ chức và lãnh đạo quá trình này dưới sự chỉ đạo của

Ban giám hiệu và có những biện pháp giúp đỡ gia đình học sinh tổ chức tốt việc học tập ở
nhà cho các em, nâng cao trách nhiệm của họ đối với công tác này.
Có một số biện pháp sau đây:


+ Hướng dẫn cha mẹ học sinh biết đánh giá kết quả học tập của con em mình bằng
cách: các bài kiểm tea giáo viên chỉ rõ những chỗ thiếu sót của học sinh. Học sinh sửa bài
và mang về nhà cho cha mẹ xem để họ biết chỗ yếu của con mình, họ sẽ giúp con họ ở
nhà tốt hơn.
+ Yêu cầu và hướng dẫn cha mẹ học sinh những công việc cần thực hiện ở nhà
như chỗ học, thời gian học, đôn đốc, kiểm tra bài tập của con ở nhà.
+ Giáo viên cần tổ chức tốt các kỳ họp phụ huynh học sinh trong năm học với mục
đích chính là làm cho cha mẹ học sinh nắm được tình hình học tập của con em, thấy được
trách nhiệm của gia đình. Vì vậy khi tổ chức họp phụ huynh, giáo viên chủ nhiệm lớp
phải chuẩn bị đầy đủ những thông tin cần thiết về từng học sinh. Mỗi năm có 3 kỳ họp
phụ huynh, do sự chỉ đạo của Ban Giám hiệu, giáo viên là người trực tiếp làm việc với
phụ huynh học sinh.
. Lần1: Vào cuối tháng 9 khi đã có khảo sát chất lượng đầu năm, giáo viên đã nắm sơ bộ
tình hình học sinh lớp mình phụ trách. Nội dinh là phổ biến các yêu cầu của nhà trường
đối với việc học tập của học sinh, trao đổi giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh để
thống nhất việc giúp đỡ các em học tập ở nhà và ở trường.
. Lần 2: Vào cuối học kỳ I để thông báo kết quả học tập, ưu khuyết của từng em, chú ý
các em học kém và những vấn đề đòi hỏi gia đình cần phối hợp với nhá trường giúp các
em học tốt hơn trong học kỳ II.
. Lần 3: Vào cuối năm học thông báo kết quả học tập cả năm, những học sinh học kém
và các biện pháp khắc phục trong hè ( ôn tập văn hóc trong hè, tổ chức thi lại … )
Ngoài 3 kỳ họp định kỳ trên, hàng tháng giáo viên thông báo kết quả học tập của
các em với phụ huynh và phụ huynh thông báo cho giáo viên biết tình hình học tập ở nhà
của học sinh qua sổ liên lạc giữa nhà trường và gia đình hoặc gặp gỡ trực tiếp với cha mẹ
học sinh khi cần thiết.

9. Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác để quản lý hoạt động học của học
sinh
Quy định những yêu cầu và biện pháp thống nhất trong việc giáo dục mục đích,
động cơ thái độ học tập trong toàn thể giáo viên từ các giờ lên lớp đến các hoạt động
ngoài giờ.
Quy định cụ thể về sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với các giáo viên bộ
môn và với tổng phụ trách đội, với phụ huynh học sinh … để thống nhất việc giáo dục
học sinh.
Phối hợp các giáo viên cùng dạy một lớp để xây dựng cho học sinh thói quen tự
học ( chú ý 3 khâu: hình thức tự học, phương pháp tự học, bố trí thời gian tự học hợp lý ),
nói cách khác là dạy cho học sinh cách học.
II. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh THCS
Lứa tuổi thiếu niên bao gồm những học sinh THCS có độ tuổi 11, 12 đến tuổi 14,
15 là giai đoạn có nhiều biến đổi mạnh “ tuổi khủng hoảng”, “ tuổi bất trị”…
Về mặt tâm lý đây là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ lên tuổi trưởng thành.


Đặc điểm chung lứa tuổi này “ vừa trẻ con, vừa có tính người lớn”, có khuynh
hướng muốn trở thành người lớn.
Tuy nhiên, xét về điều kiện phát triển tâm lý, ở lứa tuổi này có sự biến đổi mạnh
về thể chất nhưng không đồng đều như: Trọng lượng cơ thể tăng nhanh, hệ cơ – xương
phát triển không cân đối, hệ tim mạch phát triển nhanh làm rối loạn hô hấp, tuần hoàn,
hoạt động nội tiết gây rối loạn thần kinh; hệ thần kinh chưa có khả năng chịu đựng kích
thích mạnh.
Cùng với sự thay đổi về điều kiện sống như: Trong gia đình địa vị các em đã thay
đổi, được tham gia bàn bạc một số công việc, được giao một số nhiệm vụ; Trong nhà
trường việc học có sự thay đổi về nội dung dạy học, có sự thay đổi về phương pháp dạy
học và hình thức học tập; Trong đời sống xã hội các em được thừa nhận như một thành
viên tích cực và được giao một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh vực. Với những
điều kiện phát triển tâm lý không đồng đều nêu trên mà lứa tuổi thiếu niên có nhiều biểu

hiện khủng hoảng trong đời sống tâm lý của các em.
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh, nhưng đến học sinh
THCS, hoạt động học tập được xây dựng lại một cách cơ bản so với lứa tuổi học sinh tiểu
học.
Về động cơ học tập: Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học đã chỉ ra
rằng ở thời kỳ đầu của lứa tuổi học sinh THCS chưa có kỹ năng cơ bản để tổ chức tự học
( các em chỉ tự học khi có bài tập, nhiệm vụ được giao ) sau chuyển sang mức độ cao hơn
( độc lập nắm vững tài liệu mới, những tri thức mới ). Bắt đầu ở lứa tuổi này cũng là bắt
đầu hình thành mức độ hoạt động học tập cao nhất. Đối với các em ý nghĩa của hoạt động
học dần dần được xem như hoạt động độc lập hướng vào sự thỏa mãn nhu cầu nhận thức.
Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy động cơ học tập của học sinh THCS có một cấu
trúc phức tạp, trong đó các động cơ xã hội khác nhau được kết hợp thành một khối ( học
tập để phục vụ xã hội, để lao động tốt …). Những động cơ nhận thức và những động cơ
riêng ( ví dụ muốn có uy tín, có địa vị trong lớp … ) liên quan với lòng mong muốn tiến
bộ và lòng tự trọng. Đôi khi ta lại thấy có sự mâu thuẫn giữa sự mong muốn trao đổi tri
thức với thái độ bàng quan và thậm chí thái độ xấu đối với học tập, thái độ : phớt đời” đối
với điểm số.
Sở dĩ có tình trạng trên, là do các nguyên nhân sau: Do phản ứng độc đáo của lứa
tuổi này đối với thất bại trong học tập; do xung đột với giáo viên. Các em thường hay xúc
động mạnh khi thất bại trong học tập, nhưng lòng tự trọng thường làm cho các em che
dấu, thơ ơ, lãng đạm đối với thành tích học tập. Nhiều lúc chúng ta thấy các em thường
nhắc bài cho nhau. Việc làm này của các em có nhiều động cơ khác nhau; nhưng các nhà
tâm lý học đã xác nhận rằng, đó là động cơ thuộc về mặt nhận thức đạo đức của các em.
Các em nhắc bài cho bạn là muốn giúp bạn bằng mọi phương tiện. Có em nhắc bài cho
bạn để tỏ rõ sự hiểu biết của mình, muốn khoe khoang sự chăm chỉ học hành của mình.
Tóm lại, động cơ học tập của học sinh THCS rất phong phú đa dạng, nhưng chưa
bền vững, nhiều khi còn thể hiện sự mâu thuẫn của nó.
Về thái độ đối với học tập của học sinh THCS cũng rất khác nhau. Tất cả các em
đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ biểu hiện rất
khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện như sau:



- Trong thái độ học tập: từ thái độ tích cực, có trách nhiệm, đến thái độ lười biếng,
thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong học tập.
- Trong sự hiểu biết chung: từ mức độ phát triển cao và sự ham hiểu biết nhiều
lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em, nhưng ở một số em khác thì mức độ phát triển
rất yếu, tầm hiểu biết rất hạn chế.
- Trong phương thức học tập: từ hứng thú biểu hiện rõ rệt đối với một lĩnh vực tri
thức nào đó và có những việc làm có nội dung cho đến mức độ hoàn toàn không có hứng
thú nhận thức, cho việc học hoàn toàn bị gò ép, bắt buộc.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để giúp các em có thái độ đúng đắn
với việc học tập thì phải có biện pháp giúp học sinh như sau:
- Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học;
- Tài liệu học tập phải gắn với cuộc sống của các em, làm cho các em hiểu rõ ý
nghĩa của tài liệu học;
- Tài liệu phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập;
- Trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó;
- Phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù hợp./.
( Mời quý thầy cô trường THCS Nguyễn Huệ tham khảo – BDTX )
P.HT
Lê Đình Quốc



×