Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

8 on thi THPT quoc gia tac pham vietbac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.92 KB, 15 trang )

ÔN THI THPT QUỐC GIA: Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Câu 1: Cảm nhận của Anh (Chị) về đoạn thơ sau:
Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng,
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn,
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày,
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền,
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về.
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
(Việt Bắc, SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Gợi ý trả lời:
Mở bài
Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, và nội dung vẻ đẹp hùng tráng của
Việt Bắc kháng chiến.
Trích dẫn đoạn thơ. “Những đường… đèo De, núi Hồng”
Thân bài
Vẻ đẹp hùng tráng của Việt Bắc được thể hiện qua:
 Không gian Việt Bắc rộng lớn, kì vĩ: “Những đường… của ta”
 Sự trưởng thành của cách mạng qua những cuộc hành quân: “Đêm đêm…
đất rung”


 Sức mạnh vô song của dòng người ra trận: “Quân đi…mũ nan”
 Sức mạnh đoàn kết, ý chí vững vàng gan thép của nhân dân và bộ đội:
“Dân công… lửa bay”
 Sự vươn mình trỗi dậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của một dân tộc anh


hùng: “Nghìn đêm… ngày mai lên”
 Những chiến công kì diệu của quân và dân ta tạo lên niềm vui sướng rộn
ràng của triệu triệu trái tim hướng về Tổ quốc: “Tin vui… núi Hồng”
Vẻ đẹp hùng tráng ấy được thể hiện qua giá trị nghệ thuật: giọng thơ rắn rỏi,
gân guốc; nhịp thơ hối hả, gấp gáp; sử dụng ngôn từ đắc địa; sử dụng linh
hoạt các phép tu từ: so sánh, hoán dụ, liệt kê, điệp từ, cường điệu… tạo lên
âm hưởng hùng tráng xuyên suốt cả đoạn.
Tâm trạng của nhân vật trữ tình (tác giả): phơi phới niềm vui, sung sướng tự
hào, say sưa hào sảng, căng tràn nhiệt huyết, đầy lí tưởng và hoài bão…
Khái quát nội dung nghệ thuật
Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến.
HS nhận xét, đánh giá về đoạn trích, nêu cảm xúc của bản thân.

Câu 2: Một trong những đặc điểm nổi bật của thơ Tố Hữu là giọng thơ tâm
tình, ngọt ngào và tính dân tộc đậm đà. Hãy chứng minh điều đó qua đoạn trích
Việt Bắc (trích “Việt Bắc” của Tố Hữu)
Gợi ý trả lời:
Yêu cầu về kỹ năng:
a. Biết cách làm bài văn nghị luận văn học với kỹ năng chính là chứng minh
phân tích.
b. Bố cục bài làm rõ ràng, chặt chẽ; văn viết trôi chảy, không mắc lỗi diễn đạt…
Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về Tác gia Tố Hữu và trích đoạn Việt Bắc được
học, học sinh có thể trình bày nhiều cách khác nhau nhưng phải đáp ứng được
các ý chính sau đây:


a. Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết:
Bài thơ Việt Bắc nói chung và trích đoạn được học nói riêng được viết theo

lối đối đáp giao duyên nam nữ, gần với ca dao - dân ca. Đó là giọng thơ tha
thiết, mặn nồng của người đi, kẻ ở ( mình - ta; ta - mình)
Âm hưởng trữ tình sâu nặng từ khúc hát dạo đầu đến những lời nhắn gửi,
giãi bày, nỗi nhớ da diết trong toàn đoạn thơ.
b. Tính dân tộc đậm đà:
Ở phương diện nội dung:
 Bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người
Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm thiết tha, gắn bó sâu sắc của tác giả.
 Tác phẩm đã đề cập đến truyền thống ân nghĩa thủy chung
Ở phương diện nghệ thuật:
 Thể thơ lục bát được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn với những câu thơ lúc
hùng tráng, lúc tha thiết, sâu lắng, nhẹ nhàng.
 Kết cấu: Cách cấu tứ gần với lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca
dao - dân ca.
 Hình ảnh: Nhiều hình ảnh mang đậm tính dân tộc (núi, nguồn…), hình ảnh
mang tính giai cấp được sử dụng một cách tự nhiên và sáng tạo
 Ngôn ngữ:
Cặp đại từ nhân xưng “ta” - “mình” và cấu trúc lời hỏi, lời đáp đối ứng được
sử dụng xuyên suốt trong toàn bài thơ gần với hình thức ca dao về tình
cảm lứa đôi.
 Nhạc điệu: Nhiều từ ngữ được lặp lại nhiều lần (nhớ, ta, mình…) tạo âm
điệu nhịp nhàng, tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng không đơn điệu (lúc
hùng tráng, lúc trang nghiêm)
 Chất liệu văn học và văn hóa dân gian được vận dụng phong phú, đa
dạng, đặc biệt là ca dao trữ tình


Đánh giá: Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thi phẩm xuất
sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thành công đó,
một phần chính là ở giọng thơ tâm tình ngọt ngào và tính dân tộc đậm đà.

Với những đặc điểm trên, Tố Hữu đã thực sự lôi cuốn người đọc đến với tác
phẩm này và đã làm cho tác phẩm có sức sống lâu bền trong lòng nhân dân.

Câu 3: Phân tích vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và con người qua đoạn thơ
sau:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về , ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
(Trích “Việt Bắc”- Tố Hữu - Văn học 12 - tập 1, NXB Giáo dục)
Gợi ý trả lời:
Yêu cầu về kỹ năng:
Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích thơ. Kết
cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ,
ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc cũng như cái hay
cái đẹp của đoạn thơ, học sinh có thể trình bày, sắp xếp theo nhiều cách khác
nhau nhưng phải đảm bảo các ý chính sau:


Giới thiệu tác giả - tác phẩm - đoạn trích
Nhà thơ đã lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng: Hoa - Người, tượng trưng
cho vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Hoa là vẻ đẹp tinh túy

nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương sắc đất trời, tương xứng với con
người là hoa của đất
Vẻ đẹp của thiên nhiên: Bức tranh tứ bình- bốn mùa: xuân- hạ - thu - đông
của núi rừng Việt Bắc. Đoạn thơ ngập tràn màu sắc.
 Mùa đông với một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh
ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Trên cái nền xanh
ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm
ấm cả không gian, ấm cả lòng người.
 Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của
rừng hoa mơ khi mùa xuân đến. Trắng cả không gian “trắng rừng”, trắng cả
thời gian “ngày xuân”. Màu trắng tinh khôi tạo nên vẻ đẹp dịu dàng, tinh
khiết trong ngày xuân.
 Bức tranh mùa hè với màu vàng của rừng phách và rộn rã tiếng ve kêu.
Tiếng ve - ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác “rừng
phách đổ vàng. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự chuyển màu trên
thảo mộc cỏ cây.
 Khép lại bộ tranh tứ bình là cảnh đêm thu huyền ảo với ánh trăng soi cùng
với khúc hát ngợi ca hòa bình.
Vẻ đẹp của con người: Đan xen giữa vẻ đẹp của thiên nhiên là vẻ đẹp của
con người trong lao động và sinh hoạt. Đó là những con người cần cù, chịu
thương, chịu khó, ân tình và rất mực thủy chung. Sự đan xen ấy tạo nên sự
hài hòa, quấn quýt giữa thiên nhiên và con người.
Âm hưởng chung của đoạn thơ là nỗi nhớ nhung tha thiết. Nhịp thơ lục bát
nhịp nhàng, uyển chuyển, bâng khuâng, êm đềm như khúc hát ru. Mười câu
thơ giàu tính tạo hình, giàu âm hưởng, cấu trúc hài hòa, cân đối.
Đoạn thơ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Qua đó thể
hiện tấm lòng, tình cảm của người cán bộ kháng chiến đối với vùng đất Việt
Bắc nghĩa tình.



Câu 4: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về , ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
(Trích “Việt Bắc”- Tố Hữu - Văn học 12 - tập 1, NXB Giáo dục)
Gợi ý trả lời:
Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến
chống Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc đến Việt Bắc của
Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm màu sắc dân tộc, tiêu biểu cho phong cách
thơ Tố Hữu. Thông qua đó, thế hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son,
đằm thắm cùa nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời
cũng thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến với thiên nhiên, núi rừng và
con người Việt Bắc.
Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất
về cánh và người Việt Bắc trong hồi ức cùa người cán bộ cách mạng miền xuôi, ở
đây chính là nhà thơ.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Đây là hai câu thơ mở đầu nhưng nó mang cảm xúc chung cho toàn đoạn. “Ta” là
người ra đi mà cũng là chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo lối đối đáp thông
thường trong dân ca truyền thống. Do đó, đây chính là lời hỏi ngọt ngào của người
ra đi với người ở lại dề liên tưởng dây là một thiếu nữ địa phương. Và câu hỏi tu từ
này là cái cớ bày tó tình yêu của một chàng trai miền đồng bằng với cô gái miền cao.



“Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây, thiên
nhiên hòa điệu với con người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ còn có mối
tương sinh lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra con người và con người làm nồng ấm quê
hương Việt Bắc.
Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại như là một bức tranh tứ bình về thiên nhiên và
con người nơi đây. Với bốn dòng lục, nhà thơ đã miêu tả phong cảnh núi rừng qua
bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên nhiên có nét đẹp riêng biệt. Qua đây, ta
thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã thấm đậm tính chất dân gian.
Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình cảm mến thương của
mùa đông Việt Bắc. Tại sao Lại là mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ
phút chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu
gọi toàn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính cảm tử sau hai tháng
giam chân địch trong thành phố đã bí mật vượt sông Hồng đế lên căn cứ cách mạng
Việt Bắc. Sự kiện này, đến tận bây giờ vẫn sống mãi bởi một khúc hát quen thuộc:
Đêm cái đêm rét quá chân cầu
Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại
Sông, sông Hồng bên bờ hát mãi
Tỏ niềm tin khúc khải hoàn ca.
Lưu Trọng Lư trong “Một mùa đông” đã từng viết:
Đôi mắt em lặng buồn,
Nhìn tôi mà không nói.
Tình đôi ta vời vợi,
Có nói cũng vô cùng
Trời hết một mùa đông
Không một lần đã nói...
Thế mà, ở chốn núi rừng heo hút này đột ngột bừng lên màu đỏ tươi của hoa chuối
rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực. Vẻ đẹp nên thơ và rực rỡ của Việt Bắc
vào mùa đông gợi cho người đọc những rung động sâu xa. Thông qua bức tranh, ta

thấy dù mùa đông lạnh giá nhưng sự sống núi rừng vẫn cứ như tuôn trào, cảm giác
đem đến cho lòng người sự ấm áp lại. Thiên nhiên đáng yêu như thế, còn con người
thì sao? Ta xét tiếp câu hát:


Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời gian này tạo
sự vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi màu
xanh bạt ngàn điểm hoa chuối đỏ, bây giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt
thoảng hương thơm. Cái màu trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi
lên trong lòng ta một cảm giác thơ mộng bâng khuâng. Ngoài ra màu trắng của hoa
mơ gợi cho người ta cái thanh thoát hơn, đem lại cho lòng người sự thanh thản,
thảnh thơi. Câu thơ làm cho ta thấy dường như màu xanh đã bị lấn lướt. Mùa xuân ớ
đây không tưng bừng như mùa xuân của Xuân Diệu mà nó đến một cách lặng lẽ, âm
thầm nhưng không kém niềm vui.
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Mùa xuân miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc. Sợi giang
là sản phẩm của Việt Bắc. Do vậy, người lao động đó là người Việt Bắc chứ không
phải là người miền xuôi. Nhìn thấy được từng sợi giang, tức là con người được nhìn
ở tầm gần.
Thế rồi, khoảnh khắc của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con người tiếp tục
sống cuộc sống của họ.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên, cái độc
đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình
ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó biết kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng
phách “đổ vàng'’. Chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ
này. Phách là một loài cây thân gỗ ở rừng Việt Bắc, nở hoa vàng vào đầu mùa hạ.
Tiếng ve kêu râm ran đây đó báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Lá cây

bắt đầu chuyến sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh
dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thêm lại càng lãng mạn hơn,
vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ “hái măng một
mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đến một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn
Bính, nhà thơ của đồng quê trong phong trào Thơ mới.
Thơ thần đường chiều một khách thơ


Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.
Đây là khố thơ thứ nhất trong bài thơ Cô hái mơ. Ta thấy có sự giống nhau rất ngẫu
nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang lăm việc. Chỉ có điều ớ đây là “hái mơ” chứ
không phái “hái măng”.
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bàng một động từ khác như bẻ, đốn...
vì chỉ có nó mới phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyến, mềm mại của cỏ gái mà
thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao!
Cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người
thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có hồn. Rõ ràng, thiên
nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp
đẽ:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh
trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy
nhiên, đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ, ta thấy được niềm mơ ước hòa bình
của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng
chiến thắng sẽ đến với cách mạng, với đất nước. Câu thơ thiếu cụ thể nên con
người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm

trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong
lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng
trong tâm hồn của cả người đi và người ở lại.
Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm
hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ
gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại. Đặc biệt là qua
cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ” dùng để xoáy sâu vào cảm hứng
chủ đạo là hồi ức. Bên cạnh đó, nhạc điệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ
mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru - khúc hát ru kỉ niệm. Có
lẽ khúc hát ru này không của ai khác mà là của “ta” và cho người nhận là “mình”. Cả


“ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung “tiếng hát ân tình” và ân tình sâu
nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài Việt Bắc. Cảnh hiên
nhiên và con người trong đoạn thơ được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp tràn
ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản
tình ca về lòng chung thủy, sắt son của người cách mạng đối với nhân
dân, quê hương Việt Bắc.
Câu 5: Việt Bắc là một trong những bài thơ đậm đà tính dân tộc được thể hiện
trong nghệ thuật thơ Tố Hữu. Hãy làm rõ điều đó.
Gợi ý trả lời:
"Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ
điển của dân tộc” - Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như thế về thơ Tố Hữu. Đọc thơ Tố
Hữu, ta thấy nhận xét của Nguyễn Đình Thi thật đúng và cảm nhận được tính dân
tộc đậm đà, thấy phảng phất trong "hồn thơ" của một thời quá khứ. Việt Bắc là một
trong số rất nhiều bài thơ mang nét “cổ điển” như thế. Đọc Việt Bắc ta cảm nhận
được sức mạnh của bản sắc dân tộc ấy.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu, trước tiên thể hiện ở hình thức. Có lẽ Việt Bắc là bài
thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu, trong đó âm điệu lục bát đã nhuần nhuyễn, tinh

diệu, đến mức mẫu mực:
- “Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.”
hay
- “Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.”
hay
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương.”


Những câu thơ lục bát ấy có thể xếp bên cạnh những câu ca dao dân gian, những
câu lục bát cổ điển hay nhất của ta. Tiếng Việt trong những câu ấy thật bình dị mà
đằm thắm, thật trong trẻo mà sâu lắng. Lời thơ quyện thật chặt với những tiết tấu co
duỗi mềm mại, cất lên như những nét nhạc, những giai điệu bằng ngôn từ.
Nhưng nói đến Việt Bắc có lẽ cái gây ấn tượng đậm nhất trong người đọc là cái
cấu trúc độc đáo của nó. Tố Hữu đã tái hiện một bức tranh hoành tráng trải ra trong
một thời gian dài tới mười lăm năm (Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh) bao
quát một không gian rộng, bao quát toàn bộ Việt Bắc (từ "Mái đình Hồng Thái, cây
đa Tân Trào" đến "Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà"). Bài thơ có xu hướng trở
thành diễn ca lịch sử (kiểu như "Ba mươi năm đời ta có Đảng sau này!). Nhưng sở
dĩ nó không là diễn ca hẳn, bởi vì thi sĩ đã tìm đến một kết cấu truyền thống của lối
hát giao duyên. Cả bài thơ dài như một cuộc hát đối đáp nam nữ. Tựa như những
khúc trữ tình trong “Giã bạn” hay “Tiễn dặn người yêu”. Cả bài thơ dài chủ yếu là lời
của hai nhân vật. Người ở lại rừng núi chiến khu là cô gái Việt Bắc, người về xuôi là
anh cán bộ cách mạng. Tựa như "liền chị - liền anh" trong hát quan họ. Cuộc chia tay
lớn của cán bộ Đảng và Chính phủ kháng chiến với Việt Bắc được thu vào cuộc chia
tay của một đôi trai gái. Nói khác hơn, tác giả đã chọn tình yêu của đôi trai gái làm

một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc, với "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn
nồng". Chuyện chung đã hóa thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân nước
trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi.
Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách tâm tình hoá chính là
một đặc trưng của lối thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu. Việc "dời đô" (Việt Bắc là
thủ đô kháng chiến - Tố Hữu gọi là "Thủ đô gió ngàn") đã thành câu chuyện ân tình
chung thủy của người cách mạng với rừng núi chiến khu, với đồng bào, với quá khứ,
với chính mình. Đôi trai gái xưng hô theo lối rất dân gian: Ta - mình. Nỗi băn khoăn
lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay giã bạn là ân tình - chung thuỷ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng?
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
"Mình về mình có nhớ ta" đã là chuyện chung thuỷ! Nhưng "mình đi mình có nhớ
mình" thì ân tình chung thuỷ đã được đẩy tới một mức thật sâu. Mình đi khỏi Việt


Bắc là đi khỏi thời gian khổ, nơi gian khổ, có thể mình quên ta phụ ta. Nhưng mình
có nhớ chính mình chăng, có phụ chính mình được chăng? Bởi quên Ta cũng chính
là quên Mình đó. Những câu hỏi thâm thúy ân tình như vậy đã giúp Tố Hữu dân gian
hoá, truyền thống hoá một vấn đề của cách mạng, vấn đề của hôm nay. Người con
trai cũng trả lời, cũng ghi lòng tạc dạ với một tinh thần như thế.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Kết câu đối đáp hài hoà với lối thơ lục bát giàu chất dân gian như thế đã làm cho bài
Việt Bắc của Tố Hữu có cái dáng dấp của một bài hát giao duyên được viết theo lối
dân gian. Nó làm cho bài thơ gần gũi với tâm hồn quần chúng và dễ dàng gia nhập

vào mạch văn hoá dân gian, trở thành những lời hát ru. Thậm chí có thể trình bày bài
thơ theo lối diễn xướng dân gian rất thích hợp.
Có lẽ cũng cần phải nói thêm về phong vị cổ điển của nó. Đây là một nét truyền
thống khác của thơ Tố Hữu. Trong bài "Kính gửi cụ Nguyễn Du", chúng ta thấy
không khí lục bát thật trang trọng. Thi sĩ đã dùng những thi liệu của “Truyện Kiều" để
tâm tình với tác giả "Truyện Kiều", ông cũng dùng hình thức lẩy Kiều, tập Kiều để
làm cho bài thơ có phong vị cổ điển. Còn ở đây không riêng chúng ta đã thấy kết cấu
trữ tình của bài thơ, giọng điệu của bài thơ có phần nghiêng hẳn về cổ điển. Câu lục
bát ở những chỗ ấy thường chặt chứ không lỏng, chữ "đúc" nhiều, chữ "nước" ít.
Hình thức tiểu đối được sử dụng đầy biến hoá, nhịp nhàng. Nhưng có lẽ đáng nói
hơn vẫn là lối vẽ thiên nhiên trong các câu thơ lục bát ấy. Nói riêng đoạn "Hoa cùng
người”, có thể thấy ngay, thi sĩ tạo hình theo lối xây dựng bộ tranh trữ tình - một hình
thức rất phổ biến của nghệ thuật cổ điển. Hoa và người soi chiếu nhau, tôn vinh lẫn
nhau. Còn bức tranh dường như đã tái hiện trọn vẹn đầy đủ nhịp vận hành luân
chuyển của thiên nhiên và con người.


Câu 6: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Tương tư - Nguyễn Bính, Ngữ văn 11 Nâng cao, Tập hai, NXB Giáo dục, 2007,
tr. 55)
Và đoạn thơ:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
( Việt Bắc - Tố Hữu, Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr. 84)

Gợi ý trả lời:
Vài nét về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Bính là gương mặt nổi bật của phong trào Thơ mới và cũng tiêu biểu
cho thơ ca sau Cách mạng, với hồn thơ chân quê, có sở trường về lục bát.
Tương tư là bài thơ đặc sắc của ông, thể hiện tâm trạng nhớ mong chân
thực và tinh tế của chàng trai quê.
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng, với phong cách trữ tình chính trị.
Việt Bắc là bài thơ xuất sắc của ông, thể hiện tình cảm cách mạng sâu nặng
đối với chiến khu và những kỉ niệm kháng chiến.


Về đoạn thơ trong bài Tương tư
Nội dung
 Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ thành những nhớ
mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên
không thể cưỡng lại, một thứ "tâm bệnh" khó chữa của người đang yêu.
 Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian
như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.
Nghệ thuật
 Thể thơ lục bát thấm đượm phong vị ca dao.
 Chất liệu ngôn từ chân quê với những địa danh, thành ngữ gần gũi; cách tổ
chức lời thơ độc đáo; sử dụng nhuần nhuyễn nhiều biện pháp tu từ: hoán
dụ, nhân hoá, đối sánh, tăng tiến, khoa trương...
Về đoạn thơ trong bài Việt Bắc
Nội dung
 Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớđằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng
chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hoà tình nghĩa riêng chung.
 Hiện lên trong nỗi nhớấy là hình ảnh Việt Bắc thân thương, với cảnh vật
bình dị mà thơ mộng, với nhịp sống đơn sơ mà êm đềm, đầm ấm.
Nghệ thuật

 Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn chất cổđiển và chất dân gian, nhịp
điệu linh hoạt uyển chuyển, âm hưởng tha thiết, ngọt ngào.
 Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm; cách ví von quen thuộc mà vẫn độc đáo;
cách tổ chức lời thơ với phép tiểu đối, phép điệp cân xứng, khéo léo...
Về sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn thơ
Tương đồng: Cả hai đoạn thơđều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng; sử
dụng thể thơ lục bát điêu luyện.


Khác biệt: Đoạn thơ trong bài Tương tư là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi, gắn
với không gian làng quê Bắc Bộ, vừa bày tỏ vừa "lí sự" về tương tư, với
cách đối sánh táo bạo...; đoạn thơ trong bài Việt Bắc là nỗi nhớ của tình cảm
cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc, nghiêng hẳn về bộc bạch
tâm tình, với cách ví von duyên dáng...
(Tài liệu ôn tập sưu tầm trên internet, có chỉnh sửa)

Trường học Trực tuyến Sài Gòn (iss.edu.vn) có hơn 800 bài giảng trực tuyến thể
hiện đầy đủ nội dung chương trình THPT do Bộ Giáo dục - Đào tạo qui định cho 8
môn học Toán - Lý - Hóa - Sinh -Văn - Sử - Địa -Tiếng Anh của ba lớp 10 - 11 - 12.
Các bài giảng chuẩn kiến thức được trình bày sinh động sẽ là những lĩnh vực kiến
thức mới mẻ và đầy màu sắc cuốn hút sự tìm tòi, khám phá của học sinh. Bên cạnh
đó, mức học phí thấp: 50.000VND/1 môn/học kì, dễ dàng truy cập sẽ tạo điều kiện
tốt nhất để các em đến với bài giảng của Trường.
Trường học Trực tuyến Sài Gòn - "Học dễ hơn, hiểu bài hơn"!



×