Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.76 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THU TRANG

TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN
VÙNG VEN BIỂN BẠC LIÊU

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số:
62 31 06 40

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2017


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương
2. TS. Trần Văn Nam

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Xuân Kính
Phản biện 2: GS.TS. Đỗ Quang Hưng
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Phú Lợi
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện, tại Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, quận Thanh


Xuân, Hà Nội, phòng … vào hồi … ngày … tháng … năm 2017

Có thể tìm đọc luận án tại:
-

Thư viện Học viện Khoc học xã hội

-

Thư viện Quốc gia Việt Nam


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Tục cúng biển của người Khmer Bạc Liêu – một hình thức tôn
giáo nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, trang 33-37,
năm 2015.
2. Lễ hội Nghinh Ông ở Bạc Liêu: sự hòa trộn độc đáo các sắc thái
văn hóa, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, trang 14-17, năm 2016.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi loài người xuất hiện, thì những hình thức tôn giáo, tín
ngưỡng, luôn là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống con
người, là nhu cầu tinh thần của nhân dân. Tôn giáo, tín ngưỡng phản
ánh nếp cảm, nếp nghĩ của con người trước vũ trụ khôn cùng; phản
ánh nỗi sợ hãi và lòng ước mong về một cuộc sống tốt đời đẹp đạo.
Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng vì vậy có thể giúp chúng ta hiểu sâu
sắc hơn tầm tư duy, nhận thức, quan niệm của con người về thế giới
xung quanh.

Nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tôn giáo, tín
ngưỡng vùng biển đảo nói riêng từ lâu đã nhận được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học. Thực tế cuộc sống đã chứng minh, khi đời sống
càng nhiều bất an, may rủi khôn lường, nhất là đời sống của ngư dân
và cư dân ven biển, thì các hoạt động cầu cúng càng diễn ra dày đặc
hơn. Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân và ngư dân biển
đảo giúp lý giải nhiều chiều cạnh trong thực tế cuộc sống của họ.
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc duyên hải vùng đồng bằng sông Cửu
Long, sở hữu đường bờ biển dài 56km, qua các huyện thị: Thành phố
Bạc Liêu, Hòa Bình, Đông Hải; và vùng lãnh hải rộng hơn
20.000km2.
Đây là tỉnh có thành phố ven biển.Vùng ven biển chính là vùng
đất đầu tiên mà những cư dân khi đến vùng đất này khai phá đã chọn
để định cư. Đến nay, vùng ven biển Bạc Liêu, nhất là thành phố Bạc
Liêu – thành phố cách biển chỉ 8km, là nơi tập trung hầu hết các hoạt
động kinh tế, văn hóa xã hội sôi động nhất tỉnh. Các hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng ven biển cũng nổi trội nhất, được nhiều người dân
trong và ngoài tỉnh quan tâm nhất.
Trong quá trình sinh sống tại đây, chúng tôi nhận thấy rằng một
số tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển càng lúc càng thu hút khách
phương xa về đây chiêm bái, cầu cúng. Đặc biệt, trong vài năm trở lại
đây, số lượng khách tham gia các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng ven
1


biển càng lúc càng gia tăng rất nhanh. Hiện tượng đó để lại trong
chúng tôi nhiều câu hỏi.
Thứ nhất, vì sao có sự gia tăng đáng kể về số lượng người đến
đây tín ngưỡng? Đời sống người dân nhiều bất an nên họ phải đến
đây cầu an, giải nạn, hay do đời sống kinh tế tốt hơn nên họ có nhu

cầu du lịch tâm linh?
Thứ hai, vì sao một số tôn giáo, tín ngưỡng vốn là tôn giáo, tín
ngưỡng vùng biển và ven biển, như tín ngưỡng Quán Âm Nam Hải,
giờ đây lại trở thành tôn giáo, tín ngưỡng chung cho tất cả người dân
trong và ngoài tỉnh? Người dân đã không chỉ thờ cúng Mẹ Nam Hải
với mục đích phò trợ cho ngư dân ngoài khơi, mà đã xem đấy là vị
Đức Phật có khả năng cứu rỗi cho tất cả mọi chúng sinh, nên không
chỉ trong dịp lễ hội, mà cả trong những ngày thường vẫn có đông đảo
người dân đến đây thực hành tôn giáo, tín ngưỡng. Nguyên do của sự
biến đổi, quá trình biến đổi, và sự biến đổi ấy làm nên đặc trưng gì
cho tôn giáo, tín ngưỡng ven biển nơi đây?
Thứ ba, vùng này tín ngưỡng thờ Mẫu và Nữ thần rất nổi trội;
các lễ hội, vía bà ở đây như lễ hội Quán Âm Nam Hải, vía Bà Thiên
Hậu, vía Bà Chúa Xứ, vía Vạn Ban Ngũ Hành, vía Bà Thủy, phần lớn
đều chọn 23 tháng 3 âm lịch hàng năm, mà đây vốn là ngày sinh của
Bà Thiên Hậu – một vị nữ thần vốn của người Hoa. Vùng ven biển
Bạc Liêu có sự cộng cư lâu đời của ba dân tộc: Kinh – Khmer – Hoa.
Qua quá trình mở mang bờ cõi, suốt mấy trăm năm nay họ đã chịu
ảnh hưởng tôn giáo, tín ngưỡng của nhau. Vậy sự nổi trội của nhân
vật Bà Thiên Hậu có thể giải thích ra sao từ góc độ do giao lưu tiếp
biến văn hóa?
Với tất cả những câu hỏi trên, luận án chọn đề tài “Tôn giáo, tín
ngưỡng của cư dân vùng ven biển Bạc Liêu” nhằm khám phá vị trí,
vai trò, chức năng, tầm quan trọng của những thực hành tôn giáo, tín
ngưỡng trong đời sống văn hóa và đời sống tâm linh của người dân ở
đây; đồng thời tìm hiểu các biểu hiện giao lưu tiếp biến văn hóa qua

2



tôn giáo, tín ngưỡng, từ đó góp phần nhận diện đặc trưng văn hóa
biển Bạc Liêu nói riêng, cả nước nói chung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án “Tôn giáo, tín ngưỡng của cư
dân vùng ven biển Bạc Liêu” là từ việc nhận diện và lý giải các hiện
tượng tôn giáo, tín ngưỡng nơi đây, tìm hiểu các sắc thái văn hóa tộc
người và những chiều cạnh khác nhau trong cuộc sống mưu sinh của
con người nơi vùng đất mới, góp thêm một nghiên cứu trường hợp
cho sự khám phá vai trò của tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống văn
hóa của cư dân ven biển.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên luận án đặt ra các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nhận diện khái quát về tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển
Bạc Liêu.
- Phân tích đặc điểm, vai trò và nhất là các chức năng của tôn
giáo, tín ngưỡng nơi đây trong đời sống cư dân và ngư dân ven biển.
- Tìm hiểu những biểu hiện giao lưu và tiếp biến văn hóa qua
các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng ven biển Bạc Liêu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các truyền thuyết, lễ hội, di tích và các
thực hành liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân và ngư dân
ven biển Bạc Liêu, đặc biệt tập trung vào các tôn giáo, tín ngưỡng có
ảnh hưởng nhiều như: Quán Âm Nam Hải, Thiên Hậu Thánh Mẫu,
Thờ Cúng Cá Ông và Thần Biển.
- Khách thể nghiên cứu: Cư dân vùng ven biển Bạc Liêu. Cư
dân ở đây được xác định là cộng đồng ba dân tộc Kinh – Khmer –
Hoa. Những cư dân này sống trong phạm vi ven biển (bán kính 10km
tính từ mép nước biển lên đất liền), phần lớn là ngư dân, còn lại làm
một số nghề nghiệp khác.
- Phạm vi nghiên cứu: Vùng ven biển Bạc Liêu (được xác định

là vùng địa lý trải dài trên 56 km đường bờ biển, trong bán kính

3


10km tính từ mép nước biển lên đất liền, qua ba huyện thị là: Thành
phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình và huyện Đông Hải).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để có cái nhìn cụ thể và chân thực về các hình thức thực hành
tôn giáo, tín ngưỡng đang diễn ra, đề tài sử dụng cách tiếp cận liên
ngành, nhưng đặc biệt sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính
như điền dã dân tộc học, quan sát, phỏng vấn sâu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về tôn
giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu. Trên cơ sở phân tích, so
sánh những đặc điểm của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc
Liêu với những đặc điểm của tôn giáo, tín ngưỡng các vùng ven biển
khác ở Việt Nam, luận án nhận diện những đặc trưng, điểm đặc biệt
của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu, qua đó góp phần
khái quát nên diện mạo văn hóa ven biển Bạc Liêu.
- Qua việc tìm ra vai trò, chức năng của những thực hành tôn
giáo, tín ngưỡng trong đời sống văn hóa, đặc biệt là đời sống tâm linh
của người dân ven biển Bạc Liêu, luận án góp phần lý giải hiện tượng
vì sao trong những năm gần đây có một số hiện tượng tôn giáo, tín
ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu ngày càng thu hút đông đảo các đối
tượng khác nhau tham gia.
- Luận án là một nghiên cứu trường hợp về sức sống của tôn
giáo, tín ngưỡng ở một vùng ven biển, từ đó hiểu được vai trò của tôn
giáo, tín ngưỡng trong đời sống Việt nam đương đại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Ý nghĩa lý luận:
Luận án góp một cái nhìn về việc lý giải ý nghĩa các thực hành
tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu nói riêng, cả nước nói
chung.
Luận án cũng đóng góp về mặt lý luận xoay quanh vấn đề giao
lưu và tiếp biến văn hóa giữa các tộc người khác nhau, giữa các cư

4


dân đến từ nhiều vùng đất khác nhau, giữa các loại hình, các thực
hành tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.
Ngoài ra, luận án cũng góp phần nhận diện một số khía cạnh của
văn hóa biển Việt Nam và sự biến đổi văn hóa biển trong đời sống
đương đại.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận án sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý văn
hoá, cho công việc giảng dạy và nghiên cứu có liên quan về vấn đề
văn hóa biển, tôn giáo, tín ngưỡng ven biển.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bố cục gồm 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và
địa bàn nghiên cứu.
Chương 2: Nhận diện tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng
ven biển Bạc Liêu.
Chương 3: Đặc điểm và chức năng của tôn giáo, tín ngưỡng
vùng ven biển Bạc Liêu
Chương 4: Giao lưu và tiếp biến văn hóa qua tôn giáo, tín
ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu

CHƯƠNG 1
TỐNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Một số công trình nghiên cứu những vấn đề cơ bản, mang tính
lý luận về tôn giáo, tín ngưỡng, như: Tôn giáo – Lý luận xưa và nay
(Nhiều tác giả, 2005), Lý giải tôn giáo (Trác Tân Bình 2007), Tôn
giáo học nhập môn (Đỗ Minh Hợp chủ biên, 2009), Lý luận về tôn
giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam (Đặng Nghiêm Vạn 2001),
“Nhìn lại một thế kỉ nghiên cứu tín ngưỡng dân gian” của Ngô Đức
5


Thịnh và Phạm Quỳnh Phương (2007), Vấn đề tôn giáo trong cách
mạng Việt Nam – Lý luận và thực tiễn (Đỗ Quang Hưng 2008), Một
số tôn giáo ở Việt Nam (Nguyễn Thanh Xuân 2008), Tín ngưỡng tôn
giáo và thực hiện chính sách tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay (Nguyễn Minh Khải 2013)... Những công trình này, từ nhiều góc
độ khác nhau, đã lý giải rõ khái niệm, bản chất, đặc trưng, chức năng,
vai trò... của tôn giáo, tín ngưỡng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu về văn hóa biển và tôn giáo, tín
ngưỡng ven biển ở Việt Nam tuy chưa nhiều nhưng đến nay cũng đã
có ít nhiều thành tựu. Nhiều công trình đã chú ý khảo sát thực địa,
điền dã dân tộc học để nắm thực tiễn.Tìm hiểu về văn hóa biển Việt
Nam đã có nhiều công trình quan tâm đến các khía cạnh khác nhau
như lý giải nhận thức về văn hóa biển, đảo (Phan Ngọc 2006, Nguyễn
Thị Hải Lê 2010, Nguyễn Văn Kim 2011); Nghiên cứu lịch sử các
vùng biển, đảo Việt Nam (Nguyễn Công Bằng 2007, Dư Văn Toản
2010, Lâm Thị Mỹ Dung 2011, Lại Văn Tới 2011); Khảo sát đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm, văn hóa ứng xử với biển của

ngư dân và cư dân ven biển (Trần Hồng Liên 2004, Phan Thị Yến
Tuyết 2010, Nguyễn Hữu Nghị 2010); Tìm hiểu các phương tiện và
phương thức di chuyển, khai thác nguồn lợi từ biển (Ngô Đức Thịnh
- Nguyễn Việt 1984, Li Tana 2002, Nguyễn Viết Trung 2007).v.v…
Riêng về Bạc Liêu, với tuổi đời còn rất trẻ, trên 300 năm cho
một vùng đất mới chưa thể gọi là dài để có bề dày lịch sử văn hóa
truyền thống đậm đặc như các vùng đất thuộc tuyến đầu tổ quốc,
cộng với những điều kiện, đặc trưng về kinh tế, xã hội của vùng đất
này, nên những khảo sát, nghiên cứu về Bạc Liêu chưa nhiều, nếu
không muốn nói là còn quá nhiều khoảng trống. Có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu như: Văn học dân gian Bạc Liêu (Chu Xuân
Diên, 2005), Bạc Liêu trong mắt tôi (Phan Trung Nghĩa, 2012), một
số nghiên cứu của tác giả Trần Thuận: Bước đầu tìm hiểu những ngôi
chùa ở Bạc Liêu trong các thế kỷ XVII – XIX (2002); Một số đặc

6


điểm trong tín ngưỡng dân gian Bạc Liêu (2007); Tín ngưỡng dân
gian Bạc Liêu (2012).
Như vậy, tại Bạc Liêu, tuy chưa có công trình đi sâu khai thác
Tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Bạc Liêu, nhưng
một số công trình nghiên cứu nêu trên sẽ là cơ sở quan trọng để tìm
hiểu vấn đề nghiên cứu của chúng tôi.
1.2. Cơ sở lý luận
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi quan tâm đến
bốn vấn đề cơ bản có tính lý luận: khái niệm tôn giáo, tín ngưỡng;
chức năng của tôn giáo; giao lưu tiếp biến tôn giáo; và mối quan hệ
giữa tôn giáo với các tác nhân bên ngoài.
Thứ nhất, về khái niệm tôn giáo, tín ngưỡng, đến nay vẫn còn

gây tranh luận, trong đó khá phổ biến là hai khuynh hướng. Khuynh
hướng thứ nhất là tách biệt tôn giáo, tín ngưỡng thành hai phạm trù
riêng biệt, và tín ngưỡng là sự phát triển ở cấp độ thấp hơn tôn giáo
(Ngô Đức Thịnh 2001, Nguyễn Thanh Xuân 2008). Khuynh hướng
thứ hai cho rằng không nên có sự phân biệt rạch ròi giữa hai khái
niệm, khi nói tín ngưỡng, thì đó là tín ngưỡng tôn giáo, là niềm tin
tôn giáo, nghĩa là đồng nhất tín ngưỡng với tôn giáo và gọi chung là
tôn giáo (Cadiere 1997, Đặng Nghiêm Vạn 2001, Nguyễn Quốc Tuấn
2011, Nguyễn Thị Hiền 2012).
Luận án này theo quan điểm cho rằng không nên phân biệt cao –
thấp, coi tôn giáo như một hình thức phát triển cao hơn tín ngưỡng.
Chúng tôi cũng không cho rằng tín ngưỡng và tôn giáo là hai phạm
trù hoàn toàn riêng biệt. Việc luận án sử dụng cùng lúc hai từ “tôn
giáo” và “tín ngưỡng” vì hiện nay Pháp lệnh về Tôn giáo Tín ngưỡng
(2004) vẫn sử dụng hai cụm từ này, đồng thời nhiều nhà nghiên cứu
ở Việt Nam vẫn dùng song song như thế; Trong bối cảnh còn tồn tại
tranh luận về khái niệm, nội hàm của hai từ “tôn giáo” và “tín
ngưỡng”, nên chúng tôi chọn cách sử dụng song song hai cụm từ này

7


để nói đến đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên chúng tôi vẫn luôn nhận
thức được vấn đề còn tranh luận của nội hàm khái niệm này.
Thứ hai, nhiều nghiên cứu thảo luận về vai trò, chức năng
của tôn giáo, tín ngưỡng.
Vai trò và chức năng của tôn giáo có thể nhìn nhận từ lăng kính
của lý thuyết Chức năng luận,một trường phái lý thuyết gắn liền với
các công trình của các nhà nhân học B.Malinowski và A.Radcliff
Brown, và cả G.Spencer và E.Durkheim (Belik 1999). Theo quan

điểm này, văn hóa được nghiên cứu như một cơ chế toàn vẹn bởi văn
hóa có tính chỉnh thể, mỗi một bộ phận trong chỉnh thể đó đều có giá
trị, chức năng riêng. Riêng về tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển,
nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng chỉ ra do đời đi biển lắm bất
trắc, nhiều may rủi khó lường, nên cộng đồng cư dân ven biển
thường tiến hành nhiều hoạt động thờ cúng với mục đích cầu an.
Nhiều nhà lý thuyết kinh điển về tôn giáo cho rằng khi trình độ
nhận thức của con người tăng lên, đời sống hiện đại hơn, thì vai trò
và chức năng của tôn giáo trong đời sống con người sẽ dần mất đi.
Thứ ba, về giao lưu, tiếp biến văn hóa qua tôn giáo tín
ngưỡng
Theo tác giả Nguyễn Thừa Hỷ, các nền văn hóa không đứng cô
lập và bất biến.Trái lại, thường xuyên diễn ra những tiếp xúc văn hóa
và tạo ra những chuyển biến văn hóa. Có nhiều loại hình tiếp xúc văn
hóa với những dạng thức khác nhau và đem lại những kết quả khác
nhau. Sự tiếp xúc văn hóa dẫn đến sự giao thoa, hỗn dung, hoặc đồng
hóa, và có khi xảy ra hiện tượng phản – tiếp biến [44; tr.12-14]
Tại vùng ven biển Bạc Liêu, cư dân 3 dân tộc Việt – Khmer –
Hoa đã có quá trình cộng cư lâu đời, kể từ thời khai hoang mở đất.
Quá trình cộng cư hiển nhiên đã diễn ra sự giao lưu và tiếp biến văn
hóa.Tuy nhiên nguyên nhân của việc giao thoa, tiếp xúc và tiếp biến
các tôn giáo, tín ngưỡng giữa ba tộc người tại vùng ven biển Bạc
Liêu cũng còn nhiều điều phải bàn thêm. Chẳng hạn quá trình khai

8


hoang mở đất và bắt đầu sự cộng cư cũng là một yếu tố ảnh hưởng
đến việc giao thoa văn hóa.
Thứ tư, vấn đề mối quan hệ giữa tôn giáo với các tác nhân

bên ngoài, trong đó có kinh tế thị trường, cũng là một vấn đề nổi lên
hiện nay và được thể hiện trong nhiều nghiên cứu. Nếu như trước đây,
Léopold Cadière (1997) đã nhận thấy rằng, tại Việt Nam, mọi hình
thức tín ngưỡng được thực hành bằng những nghi lễ khác nhau thường
nhằm mục đích trong sáng là tìm sự an định tinh thần trong một thế
giới quá nhiều khổ ải. Thì bây giờ, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đang phải chịu tác động từ nhiều phía,
mà kinh tế thị trường là nhân tố ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ.
1.3. Địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Tên gọi Bạc Liêu
“Bạc Liêu” là một trong những địa danh có nhiều sự lý giải về
xuất xứ tên gọi. Việc truy tìm nguồn gốc tên gọi Bạc Liêu vì vậy
cũng sẽ mang đến sự hiểu biết phần nào về vùng đất Bạc Liêu, về văn
hóa Bạc Liêu, bởi vì địa danh vốn phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội,
địa lý tự nhiên của một vùng đất.
Địa danh Bạc Liêu được lý giải theo cách gọi của người Khmer,
người Hoa, nhưng cách lý giải của người Hoa là phổ biến nhất. Cho
dù là nguồn gốc tên gọi Bạc Liêu có từ tiếng Khmer hay từ tiếng Hoa
thì đến người Việt đều đọc là Bạc Liêu, một cái tên với nhiều sự lý
giải và một cách đọc thể hiện sự cộng cư, sự góp mặt của cả ba dân
tộc Kinh – Hoa – Khmer ngay từ buổi đầu khẩn hoang, lập làng lập
ấp, thể hiện sự đồng sức đồng lòng khai phá một vùng đất mới. Tên
gọi Bạc Liêu vì vậy rất đặc biệt, mang trong mình một dấu ấn văn
hóa của sự cộng cư, vừa khẳng định bản sắc vừa thể hiện sự hòa hợp
dân tộc.
1.3.2. Lịch sử hình thành Bạc Liêu và vùng ven biển Bạc
Liêu
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc Bán đảo Cà Mau, được hình thành
muộn hơn so với nhiều tỉnh Nam Bộ. Tuy được khai phá vào thế kỷ
9



XVII nhưng đến thế kỷ XIX thì mới có đông người đến và Bạc Liêu
mới phồn thịnh.Vùng đất mà các cư dân đầu tiên đến định cư là vùng
ven biển Bạc Liêu. Đời sống cư dân và ngư dân ven biển trong buổi
đầu khai hoang gặp rất nhiều nguy hiểm. Bởi đời sống ngoài khơi
quá hiểm nguy nên ngư dân đặc biệt yêu thương nhau, tương trợ lẫn
nhau, thương nhau còn hơn ruột thịt, họ sống với nhau bằng tinh thần
xả thân vì nghĩa. Cũng bởi đời sống may rủi không lường, cái chết
lửng lơ treo nơi đầu sóng ngọn gió, ai cũng có thể dễ dàng nhận lấy,
nên việc tín ngưỡng, cúng bái là rất thường xuyên với họ.
1.3.3. Các tộc người vùng ven biển Bạc Liêu
Vùng ven biển Bạc Liêu là dân tứ xứ đổ về, người dân hay nói
đùa là ngoài người nước khác tới thì cả 63 tỉnh thành đều có người
đại diện đến đây sinh sống. Các tộc người vùng ven biển Bạc Liêu
gồm có Kinh, Hoa, Khmer, Chăm. Tuy nhiên nơi đây có sự cộng cư
của ba dân tộc chính là Kinh, Hoa, Khmer, còn dân tộc Chăm chỉ
chiếm một số lượng rất ít, chỉ vài hộ dân. Do đó trong quá trình
nghiên cứu về các tộc người nơi đây, chúng tôi đã nghiên cứu sâu
hơn về ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer. Đây là các dân tộc có sự đóng
góp chính yếu vào quá trình khai hoang mở đất, cũng như quá trình
phát triển của Bạc Liêu ngày nay.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Tôn giáo, tín ngưỡng, thuộc lĩnh vực văn hóa tâm linh, vốn có
sức cuốn hút mạnh mẽ đối với nhiều nhà nghiên cứu. Bởi tôn giáo,
tín ngưỡng là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống con người,
nó cũng quan trọng như các yếu tố vật chất cần thiết cho con người.
Do đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh lĩnh
vực này. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận án quan tâm đến
các tài liệu luận về khái niệm tôn giáo, tín ngưỡng; về vai trò chức

năng của tôn giáo, tín ngưỡng; về giao lưu tiếp biến văn hóa qua tôn
giáo, tín ngưỡng; và một số vấn đề khác có liên quan.
Bạc Liêu là vùng đất được khai phá muộn màng.Tuy được khai
phá vào thế kỷ XVII nhưng đến thế kỷ XIX thì mới có đông người
10


đến và Bạc Liêu mới phồn thịnh.Vùng đất mà các cư dân đầu tiên
đến định cư là vùng ven biển Bạc Liêu.Vùng đất này tuy giàu tôm cá
nhưng cũng lắm khó khăn nhiều khắc nghiệt.Chủ yếu người dân khi
mới đến đều sống bằng nghề đi biển. Bởi đời sống ngoài khơi quá
hiểm nguy nên ngư dân đặc biệt yêu thương nhau, tương trợ lẫn nhau,
thương nhau còn hơn ruột thịt, họ sống với nhau bằng tinh thần xả
thân vì nghĩa. Đấy cũng là điều kiện cho việc giao lưu tiếp biến văn
hóa giữa các tộc người ven biển.

CHƯƠNG 2
NHẬN DIỆN TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG
CỦA CƯ DÂN VÙNG VEN BIỂN BẠC LIÊU
2.1. Khái quát chung về tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân
vùng ven biển Bạc Liêu
Vùng ven biển Bạc Liêu ngay từ thưở mới khai hoang đã vốn có
sự cộng cư của ba dân tộc Kinh – Hoa – Khmer. Trên bước đường
tìm về vùng đất mới, mỗi lưu dân xa xứ đều mang theo bên mình vốn
văn hóa của vùng đất tổ, trong đó có tôn giáo, tín ngưỡng, đến đây,
vốn văn hóa ấy hòa nhập với văn hóa bản địa, tạo nên sự đa dạng,
phong phú trong sinh hoạt văn hóa, đồng thời làm nảy sinh nhiều
dạng thức mới. Phật giáo là tôn giáo lớn, phổ biến tại Việt Nam. Tại
Bạc Liêu, cùng với quá trình khai phá khá muộn màng, Phật giáo vào
Bạc Liêu cũng muộn hơn những nơi khác (khoảng giữa thế kỷ

XVIII), nhưng vẫn là tôn giáo phát triển mạnh mẽ nhất, chi phối sâu
sắc nhất đến đời sống tâm linh người Bạc Liêu nói chung, cư dân
vùng ven biển Bạc Liêu nói riêng.
Có thể thấy sự đa dạng, phong phú của các loại hình tôn giáo,
tín ngưỡng nơi đây. Chẳng hạn như: Thờ Phật, có cả Bắc tông và
Nam tông; Thờ mẫu và nữ thần; Thờ cá Ông; Tín ngưỡng Thần Biển;
Tín ngưỡng thờ Thủy Tổ Ngư Nghiệp; Tín ngưỡng thờ Thành
Hoàng; Tín ngưỡng thờ Tiền Hiền – Hậu Hiền; Tín ngưỡng thờ Cậu
11


Tài – Cậu Quý; Tín ngưỡng thờ Na Tra - Hồng Hài Nhi; Tín ngưỡng
thờ Thần Tài – Thổ Địa; Tín ngưỡng thờ Hổ; Tín ngưỡng thờ Thạch
Thần; Tín ngưỡng thờ cây…
Tuy nhiên, khi mô tả trong công trình này, như trong phần phạm
vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu đã đề cập, chúng tôi chỉ khảo
sát, mô tả các tôn giáo, tín ngưỡng đặc thù của cư dân miền ven biển,
để thấy được nét đặc thù của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc
Liêu, qua đó góp phần nhận diện văn hóa biển Việt Nam.
Cụ thể, trong luận án này, chúng tôi tập trung mô tả nhiều nhất
về các tôn giáo, tín ngưỡng như: Quán Âm Nam Hải, Thiên Hậu, Cá
Ông và Thần Biển. Vì các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng này có ảnh
hưởng nhiều nhất đến đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng
ven biển Bạc Liêu. Đồng thời đây cũng là những hình thức có sức lan
tỏa mạnh mẽ nhất, thu hút đông đảo người dân trong và ngoài tỉnh
tham gia.
2.2. Một số tôn giáo, tín ngưỡng tiêu biểu
2.2.1. Quán Âm Nam Hải
Ở Bạc Liêu, tôn tượng Quán Âm Nam Hải đứng uy nghi giữa
nền trời xanh mây trắng, hướng nhìn ra biển đông lộng gió, nét mặt

tĩnh tại, an nhiên, tay phải cầm nhành dương liễu, tay trái cầm Thanh
tịnh bình, sẵn sàng rưới nước cam lồ cứu khổ khắp nhân gian. Hoạt
động tín ngưỡng Quán Âm Nam Hải ở Bạc Liêu diễn ra rộng khắp
với nhiều nghi lễ trong lễ hội Quán Âm Nam Hải và trong những
ngày thường. Trong tâm thức người dân Bạc Liêu nói riêng, người
dân ở khắp các vùng miền khác nói chung, Quán Âm Nam Hải có vị
trí vô cùng đặc biệt trong đời sống tâm linh của họ.
2.2.2. Thiên Hậu Thánh Mẫu
Vùng ven biển Bạc Liêu, nhất là thành phố Bạc Liêu có rất đông
người Hoa sinh sống. Hơn nữa khi mới đến lập nghiệp, người Hoa
cũng chọn vùng ven biển để định cư, nên tín ngưỡng Thiên Hậu phổ
biến rất mạnh mẽ ở vùng này. Suốt từ xã Hiệp Thành đến thị trấn
Gành Hào, nghĩa là dọc theo 56km đường bờ biển Bạc Liêu đều có
12


Miếu thờ Thiên Hậu. Mỗi năm người Hoa làm lễ vía Thiên Hậu
Thánh Mẫu vào 23 tháng 3 âm lịch. Lễ vía được tổ chức rất trọng thể.
Sau này khi người Việt trông coi một số miếu Bà Thiên Hậu vẫn giữ
lệ này.
2.2.3. Thờ Cá Ông
Thờ cúng cá Ông là tín ngưỡng đặc thù của cư dân vùng biển từ
duyên hải miền Trung đến miền Nam Việt Nam. Dọc theo đường bờ
biển, các đảo, đều có các cơ sở thờ tự cá Ông. Tại Bạc Liêu, dọc theo
vùng ven biển có chiều dài 56km, có ba cơ sở thờ tự cá Ông. Trong
đó Lễ hội Nghinh Ông diễn ra tại hai nơi thuộc xã Vĩnh Thịnh và thị
trấn Gành Hào.
2.2.4. Cúng Thần Biển
Tại Bạc Liêu, ngoài tín ngưỡng
Quán Âm Nam Hải, tín

ngưỡng Cá Ông, trong đó, người dân trao truyền niềm tin vào một
đối tượng cụ thể, có hình hài cụ thể. Duy nhất tại xã Hiệp Thành,
Thành Phố Bạc Liêu, người dân gửi niềm tin tâm linh vào một vị
Nhiên thần, đó là Thần Biển. Một điểm đặc biệt là, chỉ có người
Khmer ven biển Bạc Liêu mới tin tưởng và tôn thờ vị thần này, còn
người Việt và người Hoa thì chỉ tín ngưỡng Quán Âm Nam Hải và
Cá Ông. Lễ cúng thần Biển được diễn ra trong hai ngày, 15 và 16
tháng 4 âm lịch hằng năm.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Vùng ven biển Bạc Liêu ngay từ thưở mới khai hoang đã vốn có
sự cộng cư của ba dân tộc Kinh – Hoa – Khmer. Trên bước đường
tìm về vùng đất mới, mỗi lưu dân xa xứ đều mang theo bên mình vốn
văn hóa của vùng đất tổ, trong đó có tôn giáo, tín ngưỡng, đến đây,
vốn văn hóa ấy hòa nhập với văn hóa bản địa, tạo nên sự đa dạng,
phong phú trong sinh hoạt văn hóa, đồng thời làm nảy sinh nhiều
dạng thức mới.
Có thể thấy sự đa dạng, phong phú của các loại hình tôn giáo,
tín ngưỡng nơi đây. Chẳng hạn như: Thờ Phật, có cả Bắc tông và
Nam tông; Thờ mẫu và nữ thần; Thờ cá Ông; Tín ngưỡng Thần Biển;
13


Tín ngưỡng thờ Thủy Tổ Ngư Nghiệp; Tín ngưỡng thờ Thành
Hoàng; Tín ngưỡng thờ Tiền Hiền – Hậu Hiền; Tín ngưỡng thờ Cậu
Tài – Cậu Quý; Tín ngưỡng thờ Na Tra - Hồng Hài Nhi; Tín ngưỡng
thờ Thần Tài – Thổ Địa; Tín ngưỡng thờ Hổ; Tín ngưỡng thờ Thạch
Thần; Tín ngưỡng thờ cây…
Ở Bạc Liêu, tín ngưỡng Quán Âm Nam Hải đặc biệt phổ biến
mạnh mẽ nhất ở vùng ven biển, sau đó lan ra các khu vực lân cận. Và
đặc biệt hơn, theo sự tìm hiểu của chúng tôi, chỉ riêng Bạc Liêu tổ

chức lễ hội Quán Âm Nam Hải và trong cách tổ chức lễ hội lại có
những đặc trưng riêng, giàu giá trị văn hóa.
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM VÀ CHỨC NĂNG CỦA TÔN GIÁO, TÍN
NGƯỠNG VÙNG VEN BIỂN BẠC LIÊU
3.1. Đặc điểm của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu
3.1.1. Thể hiện tính trọng Mẫu và nữ thần vùng biển
Khảo sát tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu, một điều
chúng tôi rất lưu ý là trong tổng số 16 cơ sở thờ tự ven đường bờ biển
dài 56km, thì có đến 8 cơ sở thờ Mẫu và Nữ Thần biển. Trong 8 cơ
sở còn lại, có 2 cơ sở thờ cúng Cá Ông, và 6 cơ sở còn lại thờ Phật.
Như vậy, tất cả có 10 cơ sở thờ tự thờ các đối tượng theo tín ngưỡng
dân gian, đó là các Mẫu, Nữ Thần biển và Cá Ông. Riêng Thần Biển
của người Khmer không có cơ sở thờ tự. Kể cả khi thờ Cá Ông,
người Bạc Liêu cũng nhìn thấy trong Cá Ông hình tượng của Mẹ
Nam Hải, vị Bồ Tát đã xé áo cà sa rải xuống biển để cứu độ ngư dân
gặp hiểm nguy nơi đầu sóng ngọn gió.Trừ lễ hội Cúng Biển của
người Khmer, các lễ hội còn lại của vùng ven biển Bạc Liêu đều có ý
thức tôn sùng tính Mẫu.
3.1.2. Thể hiện triết lý âm dương
Những thực hành tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc
Liêu thể hiện rõ triết lý âm dương, trong dương có âm, trong âm có
dương, hai phạm trù này luôn gắn bó mật thiết với nhau và thể hiện
14


rõ nét trong cách phối thờ, cách bày trí không gian thờ tự và trong
thực hành nghi lễ.
3.1.3. Thể hiện sự tôn vinh văn hóa truyền thống của dân tộc
Trong một số thực hành văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven

biển Bạc Liêu, chúng tôi nhận thấy phương cách tổ chức của lễ hội
Quán Âm Nam Hải có điểm rất hay, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến
“Phiên chợ xưa” được tổ chức trong ba đêm diễn ra lễ hội. Đúng với
tên gọi, phiên chợ này tái hiện và tôn vinh văn hóa truyền thống của
dân tộc.
3.2. Chức năng của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu
3.2.1. Sự bảo trợ thiêng liêng và huyền bí
Chính vì người dân ven biển Bạc Liêu khẩn hoang trong điều
kiện thâm u, lắm bất trắc, nhiều nguy hiểm nơi biển cả nên việc cúng
bái diễn ra thường xuyên. Tôn giáo, tín ngưỡng lúc này với họ trở
thành một nhu cầu thiết yếu. Do vậy mà ở vùng ven biển Bạc Liêu,
nhiều dạng thức tôn giáo, tín ngưỡng gắn liền với đời sống người dân
ven biển đã được hình thành và tồn tại cho đến ngày nay. Đó là
những tôn giáo, tín ngưỡng như: Thờ cúng Quán Âm Nam Hải; Thờ
cúng Cá Ông; Cúng Thần Biển; Thờ cúng Cây Xoài 300 năm tuổi…
Những hoạt động cầu cúng trong những dạng tôn giáo, tín ngưỡng kể
trên rất phong phú, đa dạng, không chỉ trong những dịp lễ hội mà còn
trong cuộc sống thường ngày.
3.2.2. Hòa hợp tộc người và kết nối cộng đồng
Quá trình khai hoang mở cõi ở Bạc Liêu bắt đầu từ vùng ven
biển và từ sự chung tay góp sức của cả ba dân tộc Kinh – Hoa –
Khmer. Điều kiện khắc nghiệt thời mở đất và những chuyến đánh bắt
chốn xa khơi đẩy hiểm nguy đã hình thành một nhu cầu kết nối cộng
đồng, hòa hợp dân tộc để cùng tương thân tương ái, vượt qua cảnh
rừng thiêng nước độc, thú dữ bầy đàn, và cảnh đánh bắt chốn biển
khơi khi ngư cụ còn thô sơ. Nơi đây, tôn giáo, tín ngưỡng, như chất
keo gắn kết cộng đồng. Ngoài niềm tin tôn giáo, chức năng nối kết
15



cộng đồng còn đậm tính nhân văn, thể hiện vẻ đẹp truyền thống về
tình đoàn kết keo sơn từ bao đời nay của dân tộc ta.
3.2.3. Khẳng định và bảo tồn bản sắc tộc người
Trên bước đường mở đất, mỗi người đều mang theo nguồn cội
văn hóa của quê nhà, trong đó có văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng.
Những thực hành tôn giáo, tín ngưỡng giúp họ khẳng định dấu ấn dân
tộc mình trên vùng đất mới, trên quê hương mới, và họ luôn mong
muốn giữ gìn dấu ấn ấy, giữ gìn bản sắc văn hóa, giữ gìn nguồn cội
của mình. Người Hoa, người Khmer khi thờ tự, hoặc khi tổ chức các
lễ hội thường chú ý giữ nguyên các nghi lễ để truyền lại cho con cháu
bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
3.2.4. Điều chỉnh hành vi và bồi dưỡng tình cảm đạo đức
Ở vùng ven biển Bạc Liêu, tôn giáo, tín ngưỡng chi phối, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con người. Có thể nói là gắn bó
thiết thân với những hoạt động thường ngày của cư dân ven biển. Tại
xã Vĩnh Trạch Đông, thuộc Thành phố Bạc Liêu, một xã có đông
đồng bào Khmer sinh sống, Phật giáo Nam Tông chiếm vị trí đặc biệt
trong đời sống người dân. Ngôi chùa với người Khmer vừa là trường
học, vừa là nơi cử hành các lễ hội, là nơi gìn giữ những phong tục tập
quán của dân tộc.
Bên cạnh đó do đặc thù của lễ hội Nghinh Ông – Lễ hội của
miền biển, nên người dân chọn tôm giống để phóng sinh, vừa tích lũy
được công đức, vừa có thể tái tạo nguồn lợi thủy sản. Như vậy tôn
giáo, tín ngưỡng đã có tác động, giúp điều chỉnh hành vi, để người
dân miền biển biết thực hiện nhiều hoạt động có lợi cho môi trường,
và sau đó là cho cuộc sống của chính họ.
3.2.5. Du lịch tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu
trong đời sống đương đại
Hiện nay ở vùng ven biển Bạc Liêu, khi đời sống hiện đại, việc
đánh bắt xa bờ được hỗ trợ bởi nhiều trang thiết bị hiện đại, thì tôn

giáo, tín ngưỡng vẫn vô cùng cần thiết. Bởi sự lan tỏa mạnh mẽ của
tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu từ xưa đến nay, đặc biệt
16


là trong dịp lễ hội, nên Bạc Liêu đã quy hoạch và thực hiện việc phát
triển du lịch tôn giáo, tín ngưỡng. Hiện nay ở Bạc Liêu, lễ hội tâm
linh chính là nguồn tài nguyên du lịch văn hóa rất hấp dẫn và đang
được khai thác khá tốt.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Tôn giáo, tín ngưỡng là một trong những thành tố đặc biệt quan
trọng trong đời sống văn hóa của con người. Mỗi tôn giáo, tín
ngưỡng có những vai trò, chức năng khác nhau trong đời sống xã hội,
hoặc tham gia bình ổn xã hội, hoặc ổn định tâm lý, thỏa mãn những
nhu cầu tâm lý của con người. Mỗi tôn giáo, tín ngưỡng vì vậy đều
có những giá trị riêng. Các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng là hoạt
động gần như không thể thiếu trong đời sống văn hóa của con người,
đặc biệt là đối với người dân vùng biển đảo.
Ở vùng ven biển Bạc Liêu, ngay từ buổi đầu mở đất, cuộc sống
nơi đất mới quá khó khăn khắc nghiệt chính là nguyên do nảy sinh
nhiều hoạt động ma thuật. Đây lại là nơi cộng cư của nhiều tộc người
đến từ nhiều vùng miền khác nhau, kể cả trong và ngoài nước, nên
vùng đất này cũng là sự tập hợp vô cùng phong phú những loại hình
tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, tất cả tạo nên một bức tranh tôn giáo,
tín ngưỡng đa chiều, vừa thể hiện sự dung hòa, giao lưu tiếp biến,
hòa hợp dân tộc, lại vừa khẳng định những nét riêng, giữ gìn bản sắc
tộc người.

17



CHƯƠNG 4
GIAO LƯU VÀ TIẾP BIẾN VĂN HÓA QUA TÔN GIÁO,
TÍN NGƯỠNG VÙNG VEN BIỂN BẠC LIÊU
4.1. Những biểu hiện giao lưu và tiếp biến văn hóa qua tôn
giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu
3.2.1. Truyện tích về nguồn gốc tôn giáo, tín ngưỡng
Một trong những biểu hiện của giao lưu văn hóa qua tôn giáo,
tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu là việc tiếp nhận các thần tích của
đối tượng được thờ cúng. Ba dân tộc Kinh – Hoa – Khmer khi cần lý
giải về nguồn gốc các vị thần, phật, thì họ kể tất cả những truyện tích
được lưu truyền trong dân gian, sau đó tùy từng dân tộc sẽ biến đổi
một số tình tiết của truyện cho phù hợp với tâm thức của dân tộc
mình, đồng thời cho thấy vị thần, phật này vốn có nguồn gốc của dân
tộc mình. Quá trình biến đổi các tình tiết truyện là quá trình “dân tộc
hóa” vị thần, phật đang được thờ cúng. Xu hướng “dân tộc hóa”,
“bản địa hóa” đối tượng được thờ cúng thông qua truyện tích được
kể, chứng tỏ tâm thế mong muốn “làm chủ”, mong muốn khẳng định
quyền lực, sự chi phối, hay nói đúng hơn là tầm quan trọng của tộc
người, hay nhóm người đến từ nhiều vùng miền khác nhau đối với
các tộc người khác, hay nhóm người khác. Việc làm này vừa có mục
đích lý giải, huyền thoại hóa nguồn gốc đối tượng thờ cúng, vừa giúp
người kể chuyện khẳng định bản sắc tộc người.
3.2.2. Các hình thức phối thờ
Việc phối thờ trong các cơ sở thờ tự vùng ven biển Bạc Liêu là
rất phổ biến. Riêng ở Đồng bằng Sông Cửu Long, việc phối tự trong
các đình, chùa, miếu… là đậm đặc hơn cả.Vùng ven biển Bạc Liêu
cũng không ngoại lệ. Chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp những vị thần, phật
khác nhau được thờ cúng trong cùng một cơ sở thờ tự.
3.2.3. Nghi lễ và lễ hội

Một trong những biểu hiện rõ nét việc giao lưu văn hóa trong
tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu đó là những thực hành
nghi lễ của cả ba dân tộc Kinh – Hoa – Khmer ở vùng này. Khảo sát
18


tại các cơ sở thờ tự trong cả dịp lễ hội lẫn trong những ngày thường,
chúng tôi nhận thấy rằng người dân đa phần đều có những hành vi tín
ngưỡng, những thực hành nghi lễ tương tự nhau. Chẳng hạn nghi lễ
xoa nước từ đài sen của tượng Quán Âm Nam Hải hay xoa tay vào cá
Ông… Tất cả những nghi thức nói trên đều được người dân tự
nguyện thực hiện, tự nguyện học hỏi nhau, theo kiểu “nhập gia tùy
tục”, không có sự “cưỡng bức văn hóa”, không theo chủ định hướng
dẫn của bất kỳ ai. Họ thực hành nghi lễ để tìm kiếm sự bình an, tránh
bị qưở phạt, theo kiểu “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.
Có thể thấy, giao lưu văn hóa đã trở thành một nhu cầu của các
dân tộc sống cạnh nhau. Tuy nhiên trong quá trình giao lưu, tiếp nhận
tín ngưỡng của nhau, mỗi dân tộc thường dùng nhiều cách khác nhau,
trong đó có việc chuyển đổi các tình tiết truyện để biến cải tín
ngưỡng sao cho gần gũi nhất, phù hợp nhất với dân tộc mình. Đồng
thời còn để các dân tộc khác thấy được tầm quan trọng của dân tộc
mình trong quá trình cộng cư. Tuy nhiên chính điều này là một trong
những nguyên nhân gây nên hiện tượng đan xen, chồng chất các lớp
văn hóa, khiến người đời sau gặp lắm khó khăn khi bóc tách các lớp
văn hóa để nghiên cứu văn hóa bản địa của một tộc người, hay
nghiên cứu, truy nguyên nguồn gốc một tập tục, tín ngưỡng dân gian
đã tồn tại lâu đời.
4.2. Những nhân tố tác động đến giao lưu và tiếp biến văn
hóa qua tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu
Gồm có những nhân tố chính yếu như: Sự tác động của cơ

chế chính sách ở Bạc Liêu về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng và vấn đề
dân tộc; Quá trình di chuyển và định cư của cư dân vùng ven biển;
Tâm thức cộng cư để sinh tồn.
4.3. Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc
Liêu và một số vấn đề đặt ra
4.3.1. Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển
Bạc Liêu

19


Ngày nay, những tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân ven biển Bạc
Liêu đã lan tỏa ngày càng mạnh mẽ đến toàn thể người dân trong tỉnh
và một số tỉnh thành khác. Chủ yếu là tôn giáo, tín ngưỡng của người
Việt và người Hoa, như: Quán Âm Nam Hải, Cá Ông, Thiên Hậu.
Hiện nay, tại khu Quán Âm Phật Đài, không chỉ trong dịp lễ tết, mà
trong những ngày thường, vẫn thường xuyên có người dân trong và
ngoài tỉnh đến thắp hương, cầu nguyện. Đối tượng khách đến chùa
thuộc tất cả các tầng lớp khác nhau trong xã hội, thuộc tất cả các
ngành nghề khác nhau, và họ đến cầu nguyện tất cả mọi việc xảy ra
trong đời sống của họ. Vậy là từ vị Bồ Tát đóng vai trò là chỗ dựa
linh thiêng cho cư dân ven biển, dần dần đã chuyển đổi vị thế, trở
thành vị Bồ Tát của tất cả mọi người. Điều kiện kinh tế - xã hội càng
hiện đại, các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng sẽ thay đổi để phù hợp
thời đại.
4.3.2. Một số vấn đề đặt ra
Hiện nay, việc tổ chức lễ hội vùng ven biển Bạc Liêu đang biến
đổi theo hướng “đồng bộ hóa” các hoạt động lễ hội. Nghĩa là các lễ
hội thường có sẵn kịch bản, hoặc thuê người viết kịch bản lễ hội. Bên
cạnh đó, Ban Tổ chức lễ hội thường đi đến những nơi có lễ hội giống

lễ hội ở địa phương mình để học hỏi kinh nghiệm, học cách tổ chức
lễ hội, học các nghi thức, các hoạt động diễn ra trong lễ hội. Chẳng
hạn như khi đến với lễ hội Nghinh Ông ở Gành Hào, chúng ta sẽ thấy
giống với Nghinh Ông ở Vĩnh Thịnh, giống với Nghinh Ông ở Sông
Đốc – Cà Mau. Điều đó được Ban Tổ chức giải thích rằng đó là biểu
hiện giao lưu văn hóa giữa các nơi khác nhau, nhưng thật ra sự giao
lưu đó chính là biểu hiện của sự “hòa tan”, rập khuôn các thực hành
tôn giáo, tín ngưỡng. Do vậy có thể nói, việc học hỏi lẫn nhau giữa
các lễ hội đã trở thành một thói quen. Tuy rằng điều đó làm phong
phú các hoạt động lễ hội, thu hút khách du lịch, nhưng vì thế cũng có
thể làm mất đi đặc trưng của lễ hội ở mỗi nơi.
Ngoài ra, một vấn đề khác cũng cần phải nói thêm, do có quá
nhiều cơ sở thờ tự ven biển tổ chức vía Bà đúng ngày 23 tháng 3 âm
20


lịch, điều đó thể hiện sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các tộc
người, ở chi tiết ngày cúng 23 tháng 3, nhưng cũng tạo nên cách tổ
chức “ăn theo”, đánh mất bản sắc của đối tượng chính được thờ cúng
trong lễ hội. Đồng thời việc nhiều cơ sở thờ tự tổ chức lễ hội cùng
một ngày tuy tạo nên một mùa lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng nhộn nhịp,
nhưng vì thế cũng làm nảy sinh một số vấn đề về an ninh lễ hội, về
sự lựa chọn của người đi lễ đối với các cơ sở thờ tự. Điều đó có khả
năng xảy ra những sự lôi kéo lượng khách đến với lễ hội ở cơ sở thờ
tự của mình bằng nhiều cách, như cách tổ chức nhiều hoạt động
thương mại không nhằm mục đích tâm linh, điều đó làm mất vẻ đẹp,
giá trị, ý nghĩa vốn có của lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Nguồn gốc cư dân vùng ven biển Bạc Liêu có sự hòa trộn từ
nhiều tộc người, và những cư dân này đến từ nhiều vùng văn hóa

khác nhau. Với sự chung sống, tiếp xúc lâu dài trong không gian
cộng cư vùng ven biển, quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa đã diễn
ra vô cùng mạnh mẽ, trong đó có giao lưu tiếp biển văn hóa qua tôn
giáo, tín ngưỡng.
Tại vùng ven biển Bạc Liêu, sự giao lưu tiếp biến văn hóa qua
tôn giáo, tín ngưỡng không có biểu hiện của sự đồng hóa, cũng
không có những phản ứng nghịch, mà có sự tiếp nhận một cách tự
nguyện, trên tinh thần dung hòa các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng
của các tộc người khác nhau trong cùng một khu vực, làm giàu cho
vốn văn hóa của địa phương. Sự giao lưu tiếp biến văn hóa qua tôn
giáo, tín ngưỡng nơi đây được biểu hiện chủ yếu qua truyện tích về
nguồn gốc tôn giáo, tín ngưỡng; qua các hình thức phối thờ; qua các
nghi lễ và lễ hội.
Bởi sự lan tỏa mạnh mẽ của tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển
Bạc Liêu từ xưa đến nay, đặc biệt là trong dịp lễ hội, nên Bạc Liêu đã
quy hoạch và thực hiện việc phát triển du lịch tôn giáo, tín ngưỡng.
Điều này đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp và đấy cũng chính là một
21


trong những nguyên nhân khiến cho tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven
biển Bạc Liêu ngày càng lan tỏa đến nhiều miền tổ quốc. Hiện nay,
tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu đã được đông đảo người
dân trong và ngoài tỉnh tham gia chứ không còn là tôn giáo, tín
ngưỡng của riêng cư dân và ngư dân vùng ven biển Bạc Liêu.
KẾT LUẬN
1. Trải qua quá trình cộng cư, người dân vùng ven biển Bạc
Liêu đã dần hình thành và phát triển văn hóa truyền thống của địa
phương. Trên bước đường khai hoang mở đất, mỗi lưu dân đều đã
mang theo bên mình vốn văn hóa ở quê cha đất tổ, do vậy, văn hóa

vùng ven biển Bạc Liêu nói chung, tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven
biển Bạc Liêu nói riêng, có nhiều nét tương đồng với tôn giáo, tín
ngưỡng của các vùng ven biển khác trong cả nước. Chẳng hạn như cư
dân ven biển Bạc Liêu cũng có tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ
cúng Cá Ông, tín ngưỡng thờ Thủy Thần, tín ngưỡng thờ Cậu, tục
cúng âm hồn trên biển.v.v…
2. Tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc Liêu đã thực hiện
nhiều chức năng quan trọng. Đó là các chức năng như: Sự bảo trợ
thiêng liêng và huyền bí; Hòa hợp tộc người và kết nối cộng đồng;
Khẳng định và bảo tồn bản sắc tộc người; Điều chỉnh hành vi và bồi
dưỡng tình cảm đạo đức; Du lịch tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển
Bạc Liêu trong đời sống đương đại.Trong đó chức năng là sự bảo trợ
thiêng liêng và huyền bí có tầm quan trọng đặc biệt. Hầu hết người đi
lễ, đi du lịch đến các cơ sở thờ tự đều bảo rằng họ muốn đến thắp
hương khấn nguyện trước rồi mới thực hiện các hoạt động khác.Thực
hành tôn giáo, tín ngưỡng giúp lòng họ thư thái, có động lực để tiếp
tục sống và làm việc.
Song song đó, các tôn giáo, tín ngưỡng vùng ven biển Bạc
Liêu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giữ vững và làm phong
phú đời sống văn hóa của cư dân ven biển, định hướng phát triển du
22


×