Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Thẩm định khía cạnh kinh tế xã hội của dự án đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.62 KB, 27 trang )

Trường Đại học kinh tế quốc dân
Khoa Đầu tư

BÀI TẬP LỚN

Thẩm định khía cạnh kinh tế xã hội
của dự án đầu tư

Nhóm 5

Hà Nội, 4-2017


Các thành viên của nhóm 5
1. Nguyễn Thị Thùy Linh – 11142494
2. Hà Hoài Ngân – 11143036
3. Hoàng Thị Mai Anh – 11145601
4. Nguyễn Hữu Kiên - 11142187
5. Lê Anh Đức - 11140906
6. Lê Thu Hà - 11145606
7. Nguyễn Ngọc Trâm - 11144709
8. Nguyễn Sỹ Hoàng - 11141619
9. Đặng Hoàng Anh - 1114

2


MỤC LỤC

3



LỜI MỞ ĐẦU
Thẩm định khía cạnh kinh tế xã hội của dự án là một nội dung mà các cơ
quan quản lý nhà nước rất quan tâm, xem xét lợi ích mà dự án mang lại cho nền
kinh tế và tìm cách tối đa hoá lợi ích đó. Nguyên tắc thẩm định cũng giống như
thẩm định tài chính, đó là so sánh giữa lợi ích và chi phí của dự án. Song điểm
khác biệt ở đây là quan niệm về lợi ích và chi phí trên góc độ xã hội: lợi ích và
những đóng góp thực sự của dự án vào phúc lợi chung của quốc gia, chi phí là
những khoản tiêu hao nguồn lực thực sự của nền kinh tế. Do đó khi lấy những
chi tiêu từ thẩm định tài chính phải có những điều chỉnh nhất định về giá tính
toán, về thuế… Bên cạnh đó phải đánh giá một cách đầy đủ, nghiêm túc tác
động của môi trường - xem mức độ gây ô nhiễm môi trường có thể chấp nhận
được hay không và khả năng, giải pháp cải thiện nhằm hướng tới một sự “phát
triển bền vững”.

4


A. Lý luận chung về thẩm định khía cạnh kinh tế xã hội của dự án đầu tư
1. Mục đích
Là việc đánh giá về mặt kinh tế quốc gia và lợi ích xã hội mà dự án mang
lại cho nền kinh tế thông qua việc xem xét các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả và
KTXH mà dự án mang lại.
Sự cần thiết phải xem xét khía cạnh kinh tế xã hội dự án đầu tư:
Phân tích khía cạnh kinh tế xã hội của dự án đầu tư là một trong những
nội dung trong quá trình lập và thẩm định dự án đầu tư. Việc phân tích này có
tác dụng không chỉ đối với nhà đầu tư mà còn có ý nghĩa đối với cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước và các định chế tài chính.
Đối với nhà đầu tư, phân tích khía cạn kinh tế xã hội là căn cứ chủ yếu để
nhà đầu tư thuyết phục các cơ quan có thẩm quyền chấp thuận dự án và thuyết

phục các định chế tài chính (ngân hàng, các cơ quan viện trợ song phương và đa
phương) tài trợ vốn.
Đối với nhà nước: đây là một căn cứ quan trọng để quyết định cho phép
đầu tư. Đối với các nhà đầu tư, mục tiêu chủ yếu của họ là lợi nhuận. Khả năng
sinh lợi do một dự án nào đó mang lại chính là thước đo chủ yếu và là động lực
thúc đẩy bỏ vốn của nhà đầu tư. Song đối với nhà nước, trên phương diện của
một quốc gia thì lợi ích kinh tế xã hội mà dự án mang lại chính là căn cứ để xem
xét và cho phép đầu tư. Một dự án sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn nếu nó thực
sự có đóng góp cho nền kinh tế và xã hội cũng như nó đáp ứng được các yêu cầu
đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Đối với các định chế tài chính: phân tích khía cạnh kinh tế xã hội cũng là
căn cứ chủ yếu để họ quyết định có tài trợ vốn hay không. Bất kỳ dự án đầu tư
phát triển nào muốn tìm đến sự tài trợ của các định chế tài chính quốc gia cũng
như các định chế tài chính quốc tế (như ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển
Châu Á…) thì đòi hỏi đầu tiên là phải chứng minh được một cách chắc chắn dự

5


án sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế và xã hội. Nếu không chứng minh được
các lợi ích kinh tế xã hội thì họ sẽ không tài trợ.
2. Các căn cứ thẩm định kinh tế xã hội dự án đầu tư
2.1. Hồ sơ dự án
Hồ sơ sự án trình thẩm định gồm: hồ sơ dự án trình thẩm định xin phê
duyệt chủ trường đầu tư và hồ sơ dự án trình thẩm định xin cấp giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư.
Hồ sơ dự án trình thẩm định xin quyết định chủ trương đầu tư của UBND
cấp tỉnh gồm:
- Văn bản đề nghị thực hiện dự án đầu tư
- Tài liệu chứng minh tư cách pháp lý của nhà đầu tư: bản sao

CMNT nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu với chủ đầu tư là cá
nhân; bản sao Giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương đương
khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức.
- Dự án đầu tư: tên nhà thầu thực hiện dự án, mục tiêu đầu tư, quy
mô đầu tư, nốn đầu tư và phương án huy động vốn về lao động, đề
xuất hưởng ưu đãi đầu tư, đánh giá tác động, hiệu quả kinh tế - xã
hội của dự án
- Bản sao một trong các tài liệu chính minh năng lực tài chính của
nhà đầu tư: báo cáo tài chính 2 năm gần nhất; cam kết hỗ trợ tài
chính của công ty mẹ; cma kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài
chính; bảo lãnh về năng lực tài hính của nhà đầu tư
- Đề cuất nhuc ầu sử dụng đất; trường hợp dự án không đề nghị Nhà
nước giao đất, cho thuê đát, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
thì nộp bản sao thỏa thuận thuê địa điểm hoặc tài liệu khác xác
nhận nhà đầu tư có quyền sử dụng đất.
- Giải trình cề sử dụng công nghệ
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BBC) nếu dự án đầu tư theo hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Hồ sơ dự án trình thẩm định xin quyết định chủ trương đầu tư của
Thủ tướng Chính phủ bổ sung thêm:
6


- Phương án giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư (nếu có)
- Đánh giá sơ bộ tác động môi trường, các giải pháp bảo vệ môi
trường
- Đánh giá tác động, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư
- Hồ sơ dự án trình thẩm định xin quyết định chủ trương đầu tư của

2.2.


Quốc hội bổ sung thêm:
- Đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù (nếu có)
Quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương
- Các văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết, quyết định về chủ trương,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Quốc hội và Chính phủ
liên quan đến Vùng, địa phương, ngành, lĩnh vực, sản phẩm.
- Các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương hoặc Bộ quản lý ngành đặt ra.
- Các quy hoạch liên quan còn hiệu lực thi hành.
- Các văn bản hướng dẫn về công tác quy hoạch và các quy định hiện
hành có liên quan.
Ví dụ:
- Nghị định 92/2006/NĐ-CP của Chính phủ: Về lập, phê duyệt và
quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP của Chính phủ : Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm
2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội.
- Nghị định số 44/2015/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết một
số nội dung về quy hoạch xây dựng.
- Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ: Phê duyệt

2.3.

chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Chính sách, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa
phương
- Các văn bản quy phạm pháp luật, thông tư hướng dẫn, chủ trương của
Nhà Nước về phát triển kinh tế - xã hội.

7


- Các chính sách còn hiệu lực thi hành.
Ví dụ:
- Quyết định số 04/2016/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bình Dương: Về
việc ban hành quy định chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp theo
hướng nông nghiệp đô thị - nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2016-2020
- Nghị định số 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ: Về chính sách khuyến
khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế,
văn hóa, thể thao, môi trường
Hiện nay, định hướng chung của nước ta là định hướng xã hội chủ nghĩa;
hoàn thiện kinh tế thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực
cho phát triển kinh tế - xã hội; phát triển bền vững văn hóa, xã hội, y tế trên cơ
sở gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Tùy thuộc vào đặc điểm của mõi dự án, cần căn cứ theo các chính sách,
định hướng, quy hoạch và chiến lược của từng vùng, từng ngành. Các nhà đầu tư
có thể tham khảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trên các cổng thông
tin của chính phủ ( của các ban ngành liên quan hoặc
địa phương thực hiện dự án.

3. Nội dung
3.2. Thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
3.2.1. Giá trị gia tăng thuần túy quốc gia (NNVA – National Net Value
Added)
8



Đối với các dự án đầu tư có liên quan đến việc sử dụng vốn của nước
ngoài (vay, liên doanh hay góp vốn cổ phần), NVA gồm:
- Giá trị gia tăng thuần túy quốc gia: chính là phần giá trị tăng được sử
dụng trong nước (NNVA)
- Giá trị gia tăng thuần túy được chuyển ra nước ngoài (RP – Repatriated
Payments) bao gồm tiền lương, thưởng, trả lãi vay vốn, lợi nhuận thuần, lãi cổ
phần của người nước ngoài, các khoản thanh toán ngoại tệ khác không được dựa
vào trong đầu vào nguyên vật liệu.
NNVA là chỉ tiêu biểu thị sự đóng góp của đầu tư đối với nến kinh tế của
đất nước. Công thức tính NNVA như sau:

Lưu ý: Khi tính tổng NVA (hay NNVA) của cả đời dự án hoặc tính NVA
(Hay NNVA) bình quân năm phải tính chuyển O, MI, D của từng năm về cùng
một mặt bằng thời gian (thường là đầu thời kỳ phân tích, với việc sử dụng tỷ
suất chiết khấu xã hội (rs)
Về mặt lý thuyết thì rs chính là chi phí xã hội thực tế của vốn sử dụng cho
dự án. Tỷ suất chiết khấu xã hội được ước tính trên cơ sở của mức lãi suất dài
hạn trên thị trường vốn quốc tế có sự điều chỉnh theo tình hình chính trị và các
chính sách kinh tế của nước sở tại.
Tỷ suất chiết khấu xã hội cần định kỳ xem xét và điều chỉnh cho phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế trong và ngoài nước (tỷ lệ tăng trưởng, tỷ lệ lạm
phát, mức lãi suất, các chính sách kinh tế và các lợi thế…). Việc xem xét lại các
tỷ suất chiết khấu được tiến hành khi soạn thảo kế hoạch phát triển trung hạn khi
có những thay đổi chủ yếu trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
3.2.2. Giá trị hiện tại ròng kinh tế NPV(E)
9


Giá trị hiện tại ròng kinh tế là chỉ tiêu phản ánh tổng lợi ích thuần của cả

đời dự án trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế quy về mặt bằng thời gian hiện tại.
Công thức tính:

Trong đó:
- BEi là lợi ích kinh tế của dự án tại năm thứ i của đời dự án. Đây chính
là các khoản thu của dự án sau khi đã có những điều chỉnh về nội dung
các khoản mục được coi là thu và về giá cả theo yêu cầu của phân tích
kinh tế.
- CEi là chi phí kinh tế của dự án tại năm thứ I của đời dự án. Đây chính
là các khoản chi của dự án sau khi đã có những điều chỉnh về nội dung
các khoản mục được coi là chi và về giá cả theo yêu cầu của phân tích
kinh tế
- rs là tỷ suất chiết khấu xã hội
Dự án được chấp nhận trên góc độ hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế khi
NPV(E) > 0. Tức là khi đó tổng thu kinh tế của cả đời dự án lớn hơn tổng chi
của cả đời dự án quy về mặt bằng thời gian hiện tại. Nếu NPVE <= 0 thì có thể
bác bỏ hoặc điều chỉnh lại dự án đứng trên góc độ lợi ích của toàn bộ nền kinh
tế.
3.2.3. Tỷ số lợi ích – chi phí kinh tế (B/C)
Khái niệm: Tỷ lệ lợi ích/chi phi là tỷ số giữa giá trị hiện tại của lợi ích
thu được với giá trị hiện tại của chi phí bỏ ra.
Công thức:

10


Đánh giá: Nếu dự án có B/C lớn hơn hoặc bằng 1 thì dự án có hiệu quả về
mặt tài chính. Trong trường hợp có nhiều phương án loại bỏ nhau thì B/C là một
tiêu chuẩn để xếp hạng phương án theo nguyên tắc xếp vị trí cao hơn cho
phương án có B/C lớn hơn.

3.2.4. Mức tích kiệm và tăng thu ngoại tệ
Tiết kiệm ngoại tệ và tăng nguồn thu ngoại tệ sở hữu nhằm hạn chế dần
sự phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài và tạo nên cán cân thanh toán hợp lý là hết
sức cần thiết nhất là đối với các nước đang phát triển như nước ta. Vì vậy đây
cũng là một chỉ tiêu rất đáng quan tâm khi phân tích một dự án đầu tư. Để tính
được chỉ tiêu này phải tính được tổng số ngoại tệ tiết kiệm và kiếm được sau đó
trừ đi tổng phí tổn về ngoại tệ trong quá trình triển khai dự án. Trình tự xác định
chỉ tiêu này như sau:
Bước 1: xác định các khoản thu, chi ngoại tệ từng năm và của cả đời dự
án của dự án đang xem xét (thu, chi ngoại tệ trực tiếp)
Bước 2: xác định các khoản thu, chi ngoại tệ từng năm và cả đời dự án
của các dự án liên đới (thu, chi ngoại tệ gián tiếp)
Bước 3: xác định tổng thu, tổng chi ngoại tệ (trực tiếp và gián tiếp) từng
năm và cả đời dự án. Sau đó quy chuyển giá trị này về mặt bằng thời gian hiện
tại.
Bước 4: xác định số ngoại tệ tiết kiệm do sản xuất hàng thay thế nhập
khẩu không phải nhập hàng từ nước ngoài (theo mặt bằng thời gian hiện tại)
Bước 5: tính tổng toàn bộ số ngoại tệ tiết kiệm và thu được ở bước 3 và
bước 4 (ký hiệu là NPFE). Nếu kết quả NPFE>0, dự án tác động tích cực làm
11


tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. Nếu kết quả NPFE 0 thì dự án làm bội chi
ngoại tệ hay dự án không có tác động tích cực đến việc làm tăng nguồn ngoại tệ
cho đất nước.
3.2.5. Tác động đến khả năng cạnh tranh quốc tế (International
Competitiveness – IC)
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự
án sản xuất ra trên thị trường quốc tế.
Phương pháp xác định chỉ tiêu này như sau:

Bước 1: xác định tổng số ngoại tệ tiết kiệm và thu được do thực
hiện dự án đã tính chuyển về mặt bằng thời gian hiện tại (NPFE)
Bước 2: tính đầu vào của dự án từ các nguồn trong nước (vốn đầu
tư, nguyên vật liệu, dịch vụ kết cấu hạ tầng, tiền lương trả cho
người lao động trong nước…) phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu
hay thay thế nhập khẩu. Giá trị các đầu vào này tính theo giá trị thị
trường trong nước điều chỉnh, ở mặt bằng thời gian hiện tại và tỷ
giá hối đoái mờ.

Bước 3: tính tỷ số IC thông qua việc so sánh số ngoại tệ tiết kiệm
với giá trị các đầu vào trong nước. Công thức tính toán có dạng sau
đây:
IC = NPFE/DR
Trong đó:
IC – là chỉ tiêu biểu thị khả năng cạnh tranh quốc tế của dự
án.
DR – Là tổng giá trị các đầu vào trong nước dùng để sản xuất
sản phẩm xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu (đã quy chuyển về
12


mặt bằng thời gian hiện tại). Nói chung thì IC càng lớn thì khả năng
cạnh tranh càng mạnh (IC>1)
3.3. Thẩm định tác động về mặt xã hội
3.3.1. Mức giá trị gia tăng phân phối cho các nhóm dân cư và vùng lãnh
thổ
Đây là một chỉ tiêu quan trọng, nó giúp đánh giá được sự đóng góp của dự
án vào việc thực hiện mục tiêu phân phối và xác định được những tác động của
dự án đến quá trình điều tiết thu nhập theo nhóm dân cư và theo vùng lãnh thổ.
Thực chất của chỉ tiêu này là xem xét xem phần gia trị gia tăng của dự án và các

dự án liên đới (nếu có) sẽ được phân phối cho các nhóm đối tượng khác nhau
(bao gồm người làm công ăn lương, người hưởng lợi nhuận, nhà nước) hoặc
giữa các vùng lãnh thổ như thế nào, có đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội trong giai đoạn nhất định hay không
Để đánh giá chỉ tiêu này, phải thực hiện theo quy trình sau:
Bước 1: xác định nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ (i) được phân
phối giá trị tăng thêm (NNVA) của dự án.
Bước 2: tiếp đến xác định phần giá trị tăng thêm do dự án tạo ra mà
nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ nhận được (NNVAi)
Bước 3: tính tỷ lệ giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc mỗi
vùng lãnh thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở năm hoạt động bình
thường của dự án (BDi) theo công thức sau:

Trong đó:
-NNVAi là phần giá trị gia tăng mà nhóm dân cư hay vùng lãnh thổ
I nhận được nhờ thực hiện dự án (đối với nhóm những người làm công ăn
lương thì đó là tiền lương và trợ cấp hàng năm, đối với nhóm những
13


người hưởng lợi nhuận đó là cổ tức hay tiền lãi vay; đối với nhà nước thì
đó là tiền thuế phải nộp, cổ tức từ cổ phần của nhà nước, lãi vay trả cho
các khoản vay của nhà nước…)
-NNVA là tổng giá trị gia tăng sản phẩm quốc gia thuần túy của dự
án và các dự án liên đới (nếu có).
-BDi là tỷ lệ phân phối thu nhập cho nhóm dân cư hoặc vùng lãnh
thổ.
Sau khi tính được tỷ lệ BD cho các nhóm dân cư và vùng lãnh thổ, tiến
hành so sánh tỷ lệ này của các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ với nhau sẽ thấy
được tình hình phân phối giá trị gia tăng do dự án tạo ra giữa các nhóm dân cư

và vùng lãnh thổ trong nước. Việc đánh giá các chỉ tiêu này phụ thuộc vào chính
sách kinh tế xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
3.3.2. Tác động đến lao động và việc làm
Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng đều trong tình
trạng yếu kém về kỹ thuật sản xuất và công nghệ nhưng lại dư thừa nhân công.
Chính vì vậy chỉ tiêu gia tăng công ăn việc làm cũng là một chỉ tiêu quan trọng
trong việc đánh giá các dự án đầu tư. Để đánh giá tác động của dự án đến lao
động và việc làm có thể xem xét cả các chỉ tiêu tuyệt đối và các chỉ tiêu tương
đối đó là: chỉ tiêu số lao độnng có việc làm do thực hiện dự án và chỉ tiêu số lao
động có việc làm tính trên 1 đơn vị giá trị vốn đầu tư.
3.3.2.1.

Số lao động có việc làm

Bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có
việc làm ở các dự án liên đới (số lao động có việc làm gián tiếp). Các dự án liên
đới là các dự án khác được thực hiện do sự đòi hỏi của dự án đang được xem
xét.
Trình tự xác định số lao động (trực tiếp và gián tiếp) có việc làm do thực
hiện dự án như sau:
14


Bước 1: xác định số lao động cần thiết cho dự án đang xem xét tại
năm hoạt động bình thường của đời dự án
Bước 2: xác định số lao động cần thiết cho việc tăng thêm ở các dự
án liên đới cả về đầu vào và đầu ra. Đây chính là số lao động có việc làm
gián tiếp nhờ thực hiện dự án đang xem xét.
Bước 3: tổng hợp số lao động trực tiếp và gián tiếp có việc làm trên
đây chính là tổng lao động có việc làm nhờ thực hiện dự án.

Trong khi tạo việc làm cho một số lao động, thì sự hoạt động của dự án
mới cũng có thể làm cho một số lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh
dịch vụ khác bị mất việc do các cơ sở này không cạnh tranh nổi với sản phẩm
của dự án mới, phải thu hẹp sản xuất. Trong số các lao động làm việc trong dự
án, có thể có một số là người nước ngoài. Do đó số lao động của đất nước có
việc làm nhờ thực hiện dự án sẽ chỉ bao gồm số lao động trực tiếp và gián tiếp
phục vụ cho dự án trừ đi số lao động bị mất việc ở các cơ sở có liên quan và số
người nước ngoài làm việc cho dự án.
3.3.2.2.

Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư

Để tính chỉ tiêu số lao động có việc làm trên 1 đơn vị giá trị vốn đầu tư,
cũng tương tự như đối với lao động, ta phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự
án đang xem xét và vốn đầu tư của các dự án liên đới (vốn đầu tư đầy đủ). Tiếp
đó tính các chỉ tiêu sau đây:
- Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu
tự trực tiếp (Id)

Id= Ld/ Ivd
Trong đó:
Ld – số lao động có việc làm trực tiếp của dự án
Ivd – số vốn đầu tư trực tiếp của dự án.

15


-Toàn bộ số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu
tư đầy đủ (IT)


IT= LT/ IVt
Trong đó:
LT – toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp
(LT=Ld + Lind¬¬¬)
IvT là số vố đầu tư đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự án
liên đới (IvT = Ivd + Ivind)
Lind¬¬¬ – là số lao động có việc làm gián tiếp
Ivind – là số vốn đầu tư gián tiếp
Nói chung tiêu chuẩn đánh giá là các chỉ tiêu này có giá trị càng cao thì
dự án càng có tác lớn đến nền kinh tế và xã hội
3.3.3. Mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thuế
3.3.3.1. Đối với Nhà nuớc
NSNN là nguồn tài chính để duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nuớc, giúp
cho nhà nuớc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong cơ chế thị truờng,
NSNN đuợc nhà nuớc sử dụng làm công cụ quan trọng để điều chỉnh vĩ mô nền
kinh tế xã hội. Đây là vai trò tất yếu và quan trọng của NSNN ở mọi thời đại và
mọi mô hình kinh tế.
3.3.3.2. Đối với sự ổn định của nền kinh tế
Quan trọng là kiềm chế lạm phát, ổn định công ăn việc làm và đảm bảo
công bằng xã hội. Trong điều kiện của nền kinh tế thị truờng, giá cả chủ yếu phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu. Vì vậy để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động
vào cung hoặc cầu hàng hoá trên thị truờng thông qua chính sách thuế và chính
sách chi tiêu của NSNN. Chính phủ sử dụng NSNN nhằm khống chế lạm phát
một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt Ngân sách,
tức là cắt giảm các khoản chi, chống tình trạng bao
16


cấp, lãng phí trong chi tiêu, giảm thuế đầu tu....Bên cạnh đó chính phủ có
thể phát hành công cụ nợ, vay nhân dân để bù đắp thiếu hụt NSNN, góp phần to

lớn vào việc làm giảm tốc độ lạm phát trong nền kinh tế mở.
3.3.3.3. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Nhờ NSNN nhà nước có thể điều chỉnh được cơ cấu kinh tế bằng cách
dùng vốn của mình để tăng cường đầu tư, chi tiêu vào các ngành, lĩnh vực cần
thúc đẩy phát triển. Ví dụ hiện nay chúng ta đang dần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng hiện đại, đó là tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong
đóng góp vào GDP và giảm tỷ trọng của nông nghiệp.
3.3.3.4. Tăng trưởng kinh tế
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cùng với việc nhà nước
can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò của NSNN trong
việc điều hành các hoạt động hết sức thụ động. NSNN chỉ là một cái túi đựng sổ
thu, rồi thực hiện bao cấp tràn lan như: cấp vốn cố định, cấp bù lỗ, bù giá
Chuyển sang cơ chế thị trường , Nhà nước định hướng đổi mới cơ cấu
kinh tế, kích thích phát triển sản xuất và chống độc quyền, thực hiện thông qua
chính sách thuế và chính sách chi tiêu của Ngân sách chính phủ, vừa kích thích
vừa gây sức ép, nhằm kích thích tăng trưỏng kinh tế.
3.3.3.5. Tạo sự phát triển về mặt xã hội
Tập trung vào các lĩnh vực như vãn hoá giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, Nhà nước đã trợ giúp trực tiếp cho
những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi trợ cấp xã hội,
trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, chi thực hiện chính sách dân số, chính sách
việc làm, chống mù chữ, chống thiên tai dịch bệnh... Bên cạnh các khoản chi
này, thuế cũng được sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm
bảo công bằng xã hội. Trong điều kiện kinh tế nước ta với nguồn thu còn hạn
hẹp mà nhu cầu chi tiêu lại quá lớn. Vì vậy việc chi tiêu NSNN đòi hỏi phải tiết
kiệm, sử dụng có hiệu qủa, chi đúng đối tượng cho các vấn đề xã hội là việc
17


đáng quan tâm.

Ta thấy rằng ngân sách quốc gia càng tăng nhanh thì càng có lợi cho sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do nguồn ngân sách chủ yếu được sử
dụng để đầu tư vào các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, trợ
giúp các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, trợ giúp các
ngành vì lợi ích chung của xã hội và cần thiết phải phát triển. Vì vậy, dự án
đầu tư nào càng đóng góp nhiều cho ngân sách qua các loại thuế và các
khoản thu khác thì hiệu quả của nó càng lớn khi xét về sự đóng góp vào lợi
ích kinh tế xã hội của dự án. Để xem xét hiệu quả của sự đóng góp vào ngân
sách của dự án, chúng ta có thể sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ đóng góp vào ngân sách
trên tổng vốn đầu tư.
3.3.4. Tác động đến sự phát triển của các ngành, địa phương và vùng lãnh
thổ
Ảnh hưởng dây chuyền : do xu hướng phát triển của phân công lao động
xã hội, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng trong nền kinh tế ngày càng gắn bó
chặt chẽ. Vì vậy, lợi ích kinh tế xã hội của một dự án không chỉ đóng góp cho
bản thân ngành được đầu tư mà còn cò ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển của các
ngành khác. Ví dụ như khi có một dự án đầu tư vào ngành khai thác quặng sắt,
thì nó cũng sẽ có tác động nhất định đến các ngành luyện kim hay cơ khí chế
tạo. Hoặc với một dự án sản xuất đường có thể có tác động nhất định đến việc
sản xuất mía tại địa phương. Tuy nhiên ảnh hưởng dây chuyền này không chỉ có
ý nghĩa tích cực mà trong một số trường hợp nó cũng có các tác động tiêu cực.
Vì vậy khi phân tích thẩm định dự án phải tính đến cả hai yếu tố này.
Những ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và kết
cấu hạ tầng: có những dự án mà ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế và
xã hội của địa phương là rất rõ rệt. Đặc biệt là đối với các dự án tại các địa
phương nghèo, vùng núi, nông thôn với mức sống và trình độ dân trí thấp. Nếu
dự án được triển khai tại các địa phương trên, tất yếu sẽ kéo theo việc xây dựng
các công trình kết cấu hạ tầng. Những năng lực mới của kết cấu hạ tầng được tạo
18



ra từ các dự án nói trên, không những chỉ có tác dụng đối với chính dự án đó mà
còn ảnh hưởng đến các dự án khác và sự phát triển của địa phương. Dự án đầu
tư trong lĩnh vực bưu chính viễn thông ngoài lợi ích về tài chính còn có thể giúp
tăng cường và cải thiện cơ sở hạ tầng viễn thông tại Việt Nam. Tăng cường khả
năng và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế.
Một khía cạnh nữa cũng khá quan trọng trong việc xem xét dự án có nên
đầu tư hay không đó là thẩm định yếu tố môi trường. Việc thực hiện một dự án
thường có tác động nhất định đến môi trường sinh thái. Tác động này có thể là
tích cực nhưng cũng có thể là tiêu cực. Tác động tích cực là làm đẹp cảnh quan
còn tác động tiêu cực là gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại tài nguyên thiên
nhiên, làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi trường bao gồm:
a, Chỉ dẫn về xuất xứ của dự án, chủ dự án, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự
án; nguồn thông tin, dữ liệu và phương pháp sử dụng; việc tổ chức và tiến hành
lập báo cáo đánh giá tác động môi trường; việc tham vấn cộng đồng trong quá
trình lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.
b, Liệt kê, mô tả chi tiết các hoạt động, hạng mục công trình của dự án có nguy
cơ gây tác động xấu đến môi trường; công nghệ vận hành của từng hạng mục
công trình và của dự án.
c, Đánh giá chung về hiện trạng môi trường nơi thực hiện dự án và vùng kế cận.
d, Đánh giá, dự báo tác động của dự án đến các điều kiện tự nhiên, thành phần
môi trường tự nhiên, các yếu tố kinh tế - xã hội có liên quan.
đ, Đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác động xấu đến các điều kiện tự nhiên,
thành phần môi trường tự nhiên, sức khỏe cộng đồng và các yếu tố kinh tế - xã
hội có liên quan.
e, Danh mục công trình, chương trình quản lý và giám sát các vấn đề môi trường
trong quá trình thực hiện dự án.
19



g, Dự toán kinh phí xây dựng các hạng mục công trình bảo vệ môi trường trong
tổng dự toán kinh phí dự án.
h, Cam kết của chủ dự án về việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường
trong quá trình xây dựng và vận hành dự án đã đề xuất trong báo cáo đánh giá
tác động môi trường và những quy định khác về bảo vệ môi trường có liên quan
đến dự án.
4. Phương pháp đánh giá lợi ích kinh tế xã hội khi thực hiện dự án đầu tư
Xuất phát từ góc độ nhà đầu tư :
Dưới góc độ nhà đầu tư, lợi ích kinh tế xã hội của dự án được xem xét biệt
lập với các tác động của nền kinh tế đối với dự án (như trợ giá đầu vào, bù lỗ
đầu ra của Nhà nước). Trong trường hợp này, phương pháp áp dụng là dựa
trực tiếp vào số liệu của các báo cáo tài chính của dự án để tính các chỉ tiêu
định lượng và thực hiện các xem xét mang tính chất định tính sau:
+ Mức đóng góp cho ngân sách (các khoản nộp vào ngân sách khi dự án
bắt đầu hoạt động như thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu,
thuế đất...) từng năm và cả đời dự án.
+ Số chỗ làm việc tăng thêm từng năm và cả đời dự án.
+ Mức tăng năng suất lao động sau khi có dự án so với trước khi có dự án
từng năm và bình quân cả đời dự án.
+ Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường của dự án.
+ Nâng cao trình độ kĩ thuật của sản xuất: thể hiện ở mức thay đổi cấp
bậc công việc bình quân sau khi có dự án so với trước khi có dự án và mức
thay đổi này tính trên mỗi đơn vị đầu tư.
+ Nâng cao trình độ quản lý: thể hiện ở thay đổi mức đảm nhiệm quản lý
sản xuất, quản lý lao động, quản lý sau khi có dự án so với trước khi có dự án.
+ Các tác động đến môi trường sinh thái.

20



+ Đáp ứng việc thực hiện mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong
từng thời kỳ.
Xuất phát từ góc độ quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Đối với cấp quản lý vĩ mô của Nhà nước, khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội
của dự án phải tính đến mọi chi phí trực tiếp và gián tiếp thu được do dự án
đem lại.
Chi phí ở đây chi phí của nhà đầu tư, của địa phương, của ngành và của
đất nước. Các lợi ích ở đây bao gồm lợi ích mà nhà đầu tư, người lao động, địa
phương và cả nền kinh tế được hưởng.
Để xác định chi phí, lợi ích đầy đủ của các dự án đầu tư phải sử dụng các
báo cáo tài chính, tính lại đầu vào đầu ra theo xã hội. Không sử dụng giá thị
trường để tình chi phí và lợi ích kinh tế xã hội và giá thị trường chịu sự chi
phối của các chính sách tài chính, kinh tế, hành chính của Nhà nước. Do đó giá
thị trường không phản ánh đúng chi phí xã hội thực tế.
Vì vậy, khi tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của những dự án có tầm cỡ
lớn, bao quát một vùng, một ngành rộng lớn hay quan trọng của nền kinh tế
thì phải điều chỉnh giá này theo giá xã hội, phải lưu ý đến yếu tố bên ngoài có
ảnh hưởng đến dự án và ngược lại.
5. Sự khác nhau giữa phân tích kinh tế và phân tích tài chính của dự án.
Về quan điểm:
Phân tích tài chính là xem xét hiệu quả ở tầm vi mô, tầm doanh nghiệp còn
phân tích kinh tế xã hội là xem xét ở tầm vĩ mô, tầm xã hội.
Phân tích tài chính xuất phát từ lợi ích của nhà đầu tư, còn phân tích kinh
tế xã hội là xuất phát từ lợi ích của cả xã hội, cả cộng đồng.

21



Mục tiêu trong phân tích tài chính là tối đa hoá lợi nhuận cho nhà đầu tư,
còn mục tiêu của phân tích hiệu quả kinh tế xã hội là tối đa hoá phúc lợi của
toàn xã hội.
Chính vì có sự khác biệt đó nên trong thực tế, một dự án đầu tư có thể thoả
mãn tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp nhưng có thể nó không đồng thời tối
đa hoá phúc lợi cho xã hội, những lợi ích mà nó đem lại cho xã hội có khi không
tương xứng, thậm chí có thể còn có hại cho xã hội.
Mặc dù đã phân tích tài chính đầy đủ, một dự án đầu tư vẫn phải phân tích
về mặt hiệu quả kinh tế xã hội vì đối với Nhà nước đây lại là căn cứ chủ yếu để
Nhà nước cấp giấy phép đầu tư và ngân hàng xem xét tài trợ vốn cho dự án.
Về mục đích:
Mục đích của phân tích tài chính là quan tâm tới tối đa hoá lợi ích của chủ
đầu tư và các nhà tài trợ .Do đó, họ quan tâm đến lợi nhuận, hiệu quả đầu tư, sản
lương tối đa hoá lợi nhuận. Ngoài ra, họ hầu như không quan tâm đến tác động
của dự án đến nền kinh tế xã hội nói chung. Trái lại, mục đích của phân tích
kinh tế là quan tâm đến lợi ích của đem lại cho nền kinh tế, tức là xem xét dự án
đóng góp thực sự cho nền kinh tế quốc dân là bao nhiêu và tìm cách tối đa hoá
lợi ích đó.
Từ sự khác nhau về mục đích nói trên, dẫn đến quan niệm khác nhau về lợi
ích và chi phí trong phân tích tài chính và trong phân tích kinh tế. Trong phân
tích kinh tế chi phí được quan niệm là những khoản chi làm tiêu hao nguồn lực
thực sự của nền kinh tế, còn lợi ích là những khoản đóng góp thực sự của dự án
vào phúc lợi chung của quốc gia. Tất cả những khoản chi phí và lợi ích đơn
thuần mang tích chất chuyển giao từ thực thể kinh tế này sang thực thể kinh tế
khác trong nền kinh tế đều bị loại ra khỏi phân tích kinh tế.
Chính vì quan niệm về lợi ích và chi phí kinh tế như vậy, cho nên giá cả sử
dụng trong phân tích kinh tế phải là giá cả phản ánh đúng sự khan hiếm nguồn
lực. Thế nhưng ở hầu hết các nước đang phát triển, giá cả thị trường của hàng
22



hoá, dịch vụ, vốn, ngoại hối, đất đai ...đều bị bóp méo vì những lí do khác nhau.
Có trường hợp, giá cả thị trường bị bóp méo do thất bại của thị trường, trường
hợp khác có sự can thiệp của chính phủ. Vì lẽ đó, không thể sử dụng giá thị
trường để phân tích kinh tế, mà cần thiết phải điều chỉnh giá thị trường sang một
giá phản ánh đúng sự khan hiếm nguồn lực của nền kinh tế - đó là giá kinh tế.

23


B. Thẩm định khía cạnh kinh tế xã hội của dự án xây dựng tổ hợp nhà cao
tầng của Công ty xây dựng công trình văn hóa.
1. Giới thiệu về dự án xây dựng tổ hợp nhà cao tầng
Nhằm tận dụng hết thế mạnh về đất đai, khai thác hiệu quả những tiềm
năng hiện có, tạo chỗ dựa vững chắc cho công tác sản xuất kinh doanh, thực
hiện tốt các nhiệm vụ, nâng cao mức nộp ngân sách Nhà nước. Công ty Xây
dựng công trình Văn hoá kính trình Bộ Văn hoá cho phép công ty được lập và
xúc tiến triển khai dự án đầu tư xây dựng một tổ hợp nhà cao tầng đa năng ngay
trên diện tích mà công ty đang sử dụng để làm trụ sở, nhà ở, nhà xưởng theo
chủ trương của Nhà nước.
Sản phẩm của dự án: Tổ hợp nhà cao tầng A B C D từ 9-17 tầng
1.1. Sự cần thiết của dự án.
Việc thực hiện dự án sẽ đem lại những lợi ích kinh tế, xã hội thiết thực và
đồng thời cũng tạo ra bước phát triển đột phá cho công ty, cụ thể là:
- Tạo ra một khu nhà ở khang trang, hiện đại bên cạnh đại lộ lớn, cải thiện
cảnh quan môi trường đô thị. Người dân trong khu vực hưởng lợi dự án là từ
việc được sử dụng hệ thống giao thông sạch đẹp, hệ thống cấp thoát nước tốt,
chất lượng cuộc sống được nâng cao, an toàn.
- Tăng quỹ nhà ở cho Bộ và thành phố thêm 15 060 m2... Góp phần giảm
bớt khó khăn về vấn đề nhà ở của thành phố hiện nay.

- Tăng nguồn ngân sách Nhà nước.
- Tăng nguồn vốn của công ty.
1.2. Căn cứ để thẩm định dự án.
Căn cứ pháp lý:
-Căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước: “Tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp phát huy hết khả năng, tận dụng những ưu thế sẵn có
24


của doanh nghiệp nhằm ổn định và phát triển sản xuất, góp phần xây dựng đất
nước, nâng cao đời ssống người lao động”.
-Căn cứ vào nghị định71/2001/ NĐ - CP ngày 5/10/2001 về ưu đãi đầu tư
xây dựng nhà ở để bán và cho thuê, thông tư số 20/2002 TT-BTC hướng dẫn thi
hành nghị định 71/2001/NĐ- CP.
-Căn cứ chủ trương của thành phố Hà Nội khuyến khích hỗ trợ những dự
án tạo thêm quỹ nhà ở, nhất là nhà cao tầng hiện đại nhằm giải quyết nhu cầu
nhà ở đang bức suc hiện nay trong khi quỹ đất thành phố còn hạn chế.
Căn cứ thực tế: Căn cứ vào tiềm năng và khả năng của công ty về đất đai
hiện có, tuy không lớn nhưng ở vị trí thuận lợi. Bộ máy điều hành quản lý ổn
định và co uy tín trong sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố.
2. Thẩm định hiệu quả kinh tế xã hội của dự án
Với quy mô dự án là nhỏ, cũng như khả năng thu thập số liệu và xác định
tỷ suất chiết khấu để đưa ra các chỉ tiêu phân tích kinh tế xã hội hoàn chỉnh như:
NVA, NNVA, Ec, EFC ...là rất khó khăn. Cho nên dự án chỉ đi sâu vào phân
tích một số khía cạnh do dự án tác động.
2.1.Lợi ích kinh tế cho công ty.
Khi dự án hoàn thành làm cho bộ mặt của công ty được cải thiện, nguồn
vốn tăng lên rất lớn. Công ty sẽ sở hữu một trụ sở, văn phòng, cửa hàng khang
trang với giá trị ước tính là 2400 m2 * 7.5 triệu = 18 000 triệu đồng. Uy tín của
công ty ngày càng được nâng cao trên thị trường. Cán bộ công nhân của công ty

được nâng cao trình độ chuyên môn tay nghề thông qua viêc lập và thực hiện dự
án.
2.2.Việc làm.
Như chúng ta đã biết, với một dự án như vậy ra đời sẽ giải quyết trước mắt
số lao động khá lớn trực tiếp, những người này sẽ tham gia trực tiếp vào quá
trình xây dựng thi công công trình. Nếu không có dự án thì những người này có
25


×