Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

GIÁO TRÌNH THACH HOC mô tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 72 trang )

BÀI MỞ ĐẦU
1. Khái niệm về thạch học, đá và phân loại đá
1.1. Thạch học là gì?
Thạch học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về đá. Nội dung nghiên cứu
gồm: Thành phần hóa học, thành phần khoáng vật, kiến trúc, cấu tạo, đặc điểm dạng
nằm, sự phân bố, nguồn gốc, khoáng sản liên quan và công dụng thực tiễn của đá.
1. 2. Khái niệm về đá:
Đá là tập hợp khoáng vật tự nhiên có thành phần và cấu tạo xác định, được
thành tạo do kết quả của các quá trình địa chất và chúng là những thể địa chất nằm
độc lập trong vỏ Trái Đất. Rozenbut (1898) nhà bác học Đức đã quy định một thể địa
chất độc lập phải có 3 điều kiện sau:
1/ Thể đó phải được phân biệt rõ với các khối (đá) vây quanh và chứng tỏ rằng
nguồn gốc thành tạo của nó phải do những quá trình địa chất riêng (nghĩa là phải có
một dạng nằm đặc trưng trong vỏ Trái Đất).
2/ Vật chất tạo nên thể đó có thành phần xác định (thành phần khoáng vật và hoá
học) khác biệt với thành phần vật chất của các khối bao quanh, nghĩa là vật chất tạo
nên thể đó không thể lấy trực tiếp từ các thành tạo bao quanh.
3/ Bản chất của vật chất thành tạo nên thể đó (tức là thành phần khoáng vật),
cách thức kết hợp của vật chất đó (kiến trúc) và khoảng không gian chiếm (dạng địa
chất) phải phụ thuộc một cách nhân quả vào những hiện tượng địa chất phát sinh ra
nó.
A. N. Zavaritxki đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về đá như sau: “ đá là
những tập hợp khoáng vật tự nhiên (và một phần thủy tinh), gồm chủ yếu những nguyên
tố sinh đá”, tức là những hợp phần thông thường của các khoáng vật nhóm silicat.
Những nguyên tố sinh đá gồm O, Si, Al, Fe, Mg, Ca, Na, K, chiếm 99% trọng lượng của
vỏ Trái Đất. Theo định nghĩa này thì trong thực tế địa chất không phải bất kỳ một tập hợp
khoáng vật nào tạo nên thể địa chất độc lập cũng gọi là đá. Ví dụ: không thể gọi là “đá”
cho những quặng kim loại nặng, mặc dù thân quặng có thể đạt đến kích thước đáng kể.
- Đá có thể do một loại khoáng vật tạo nên gọi là đá đơn khoáng.
Ví dụ: Đá vôi, thành phần khoáng vật chủ yếu là canxit.
- Đá có thể do nhiều loại khoáng vật tạo nên gọi là đá đa khoáng.


Ví dụ: Đá granit, thành phần khoáng vật chủ yếu là Fenpat, thạch anh, mica.
Muốn xác định tên đá ta phải dựa vào nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất là dựa
vào thành phần khoáng vật, kiến trúc của đá. Do tỷ lệ khoáng vật trong đá không cố
định nên không thể biểu thị các đá bằng công thức hóa học được.
1. 3. Phân loại đá:
Căn cứ vào nguồn gốc và điều kiện địa chất thành tạo chúng mà người ta chia
thành 3 nhóm đá chính:
3.1. Đá magma: Thành tạo do sự đông đặc ở trên mặt hay dưới sâu của những dung
thể silicat nóng chảy.
3.2. Đá trầm tích: Thành tạo trong điều kiện ngoại sinh bề mặt, từ sản phẩm phá hủy
các đá thành tạo trước (như các vật liệu vụn hóa học, hữu cơ), với nhiệt độ và áp suất thấp.
3.2. Đá biến chất: Là sản phẩm tái kết tinh của các đá có trước bất kỳ nguồn gốc
nào, trong điều kiện nội sinh do nhiệt độ và áp suất tăng cao trong vỏ Trái Đất (tái kết
tinh trong môi trường cứng).
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

1


Tính theo trọng lượng vỏ Trái Đất, có khoảng 95% là đá magma và đá biến
chất, còn lại 5% là đá trầm tích.
Mỗi một loại đá được thành tạo trong những điều kiện địa chất nhất định, do
vậy chúng cũng khác nhau về thành phần khoáng vật, kiến trúc, cấu tạo, đặc điểm thể
nằm, khoáng sản liên quan.
Mặc dù các nhóm đá rất khác nhau, nhưng khi ta nghiên cứu bất cứ một loại đá
nào đều cần phải giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau:
1. Đá đó gặp ở trong tự nhiên như thế nào? Tức là vấn đề dạng nằm của nó và
quan hệ của nó với các đá khác.
2. Đá đó tạo nên bằng gì? Tức là thành phần khoáng vật của đá.
3. Các phần tử hợp thành đó sắp xếp như thế nào? Tức là vấn đề kiến trúc và cấu

tạo của đá.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thạch học
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của thạch học là nghiên cứu mối quan hệ
giữa các đá và khoáng sản. Đa số trường hợp đá là môi trường chứa quặng, nước
khoáng, dầu khí; trong khi đó một số loại đá lại chính là khoáng sản (đá vôi, cát, bazan
dùng làm luyện gang; đolomit dùng làm chất trợ dung luyện kim); hoặc là đối tượng
khai thác như apatit và photphorit, bauxit, đá xây dựng và đá trang sức; và cuối cùng là
đá nền móng cho các công trình xây dựng. Có những trường hợp đá và khoáng sản có
mối liên quan với nhau rất chặt chẽ vì chúng cùng được thành tạo trong một qúa trình
địa chất. Vì vậy thạch học là một môn khoa học địa chất, là môn học cơ sở mà nhà địa
chất, địa chất công trình và những người làm việc có liên quan tới đá cần phải có kiến
thức cơ bản về nó.
Từ đó cần phải nhấn mạnh rằng việc nghiên cứu thạch học không những có ý
nghĩa về mặt khoa học và còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Trước tiên ý nghĩa thực tiễn là ở chỗ trong quá trình điều tra địa chất và thăm
dò ở tất cả các giai đoạn, từ giai đoạn đo vẽ bản đồ địa chất tỷ lệ nhỏ đến giai đoạn
thăm dò chi tiết khoáng sản điều phải tiến hành nghiên cứu thạch học để xác định
chính xác các đá, giải thích điều kiện thành tạo chúng cũng như mối liên quan có thể
có với quá trình hình thành khoáng sản.
Lĩnh vực thứ hai của việc ứng dụng thạch học vào công tác tìm kiếm thăm dò là
nghiên cứu các đá bị biến đổi do sự thành tạo các thân khoáng gây nên. Các biến đổi gần
quặng như vậy là dấu hiệu rất quan trọng để tìm kiếm các khoáng sản cùng loại. Cuối
cùng ứng dụng thực tiễn của thạch học là sử dụng dấu hiệu thạch học để tìm kiếm khoáng
sản. Đó là quy luật cộng sinh của các kiểu đá với các kiểu khoáng sản nhất định.
Ví dụ: - Dầu mỏ, than đá thường liên quan đến đá trầm tích nên không tìm
chúng trong đá magma.
- Quặng thiếc, vonframit thường liên quan đến đá magma axit; kim cương liên quan
với đá kimbeclit.
Ngoài ra, bản thân đá là những vật liệu xây dựng tốt như đá granit làm vật liệu
xây dựng, quăczit làm gạch chịu lửa,…

3. Phương pháp nghiên cứu thạch học
Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu đá nhưng cơ bản là phương pháp nghiên
cứu ngoài trời và phương pháp nghiên cứu trong phòng.
3. 1. Phương pháp nghiên cứu ngoài trời:
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

2


Tiến hành nghiên cứu các đá và mối quan hệ giữa chúng với nhau ở ngoài thực
địa nhờ các vết lộ tự nhiên, các công trình khai đào hoặc lỗ khoan. Mục đích là giải
thích đặc điểm của đá, dạng nằm, đặc điểm giám định bằng mắt thường các đá (thành
phần khoáng vật và cấu trúc).
Mỗi một nhận xét đều phải ghi vào bên trái sổ nhật ký, bên phải để vẽ hình cần
thiết. Các loại đá khác nhau phải lấy mẫu theo kích thước 3 x 6 x 9 cm hay 4 x 8 x 12
cm. Mẫu lấy phải tươi, nghĩa là chưa bị phong hóa. Ngoài ra có thể lấy mẫu quang
phổ, lát mỏng để phân tích trong phòng theo kích thước 2 x 4 x 6 cm, lấy mẫu phân
tích tuổi tuyệt đối, phân tích hóa học,…
Kết quả về mặt địa chất là phải thể hiện được trên bản đồ địa chất, sơ đồ địa
chất, lát cắt địa chất, hình vẽ, ảnh, mẫu.
3. 2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng:
Phương pháp thông dụng nhất để nghiên cứu đá trong phòng là phương pháp
kính hiển vi phân cực, chủ yếu xác định thành phần, kiến trúc, cấu tạo, tỷ lệ khoáng
vật. Ngoài ra còn sử dụng nhiều phương pháp khác như: Phân tích quang phổ để xem
đá đó có nguyên tố hóa học nào; phương pháp xạ để tính tuổi tuyệt đối của đá; phương
pháp nhúng, nhiệt, quang phổ, rơngen để xác định chính xác hằng số quang học của
khoáng vật. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp chuyên môn để nghiên cứu tính
chất vật lý của đá như độ cứng, độ lỗ rỗng, từ, … có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu
địa chất công trình, địa chất thủy văn và địa vật lý, độ thấm, độ chứa.
Tóm lại: Việc kết hợp giữa nghiên cứu ngoài trời và nghiên cứu trong phòng

giúp ta xác định chính xác tên đá, nguồn gốc thành tạo, khoáng sản liên quan, tuổi,
diện phân bố của đá.

Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

3


PHẦN THỨ NHẤT: THẠCH HỌC MAGMA
Chương 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ CÁC ĐÁ MAGMA
1. 1. Khái niệm về đá magma
1. 1. 1. Định nghĩa đá magma
Đá magma là loại được thành tạo do sự đông đặc và kết tinh của dung thể
silicat nóng chảy gọi là magma. Khối magma nóng chảy có thành phần phức tạp, chủ
yếu là silicat, đôi khi là magma oxit, sunfua hoặc cacbonat và chứa những chất bay
hơi (CO2, F, Cl, OH,…) đã được hòa tan.
Cần phân biệt magma và dung nham (lava): Magma là dung thể silicat có thành
phần phức tạp, chủ yếu là silicat, đôi khi là magma oxit, sunfua hoặc cacbonat và
chứa những chất bay hơi (CO2, F, Cl, OH,…) đã được hòa tan. Dung nham là dung thể
silicat trào lên trên bề mặt vỏ Trái Đất, nó được phân biệt với magma bởi hàm lượng
các hợp phần bay hơi, chất bốc nhỏ hơn.
1. 1. 2. Phân loại đá magma:
Tùy theo điều kiện thành tạo người ta chia đá magma làm 3 loại:
1. 1. 2.1. Đá magma xâm nhập (đá sâu):
Là loại đá được thành tạo do khối magma xuyên lên chưa tới bề mặt vỏ Trái
Đất đã đông đặc, do nhiệt độ giảm rất chậm nên các khoáng vật trong đá có đủ thời
gian kết tinh, tạo thành đá có kiến trúc toàn tinh hạt từ thô đến mịn.
1. 1. 2. 2. Đá magma phun trào:
Là loại đá được thành tạo khi khối magma phun lên trên mặt vỏ Trái Đất mới
đông đặc. Đá phun trào thường có hai phần rõ rệt:

Những tinh thể lớn, có hình dạng rõ ràng gọi là: Ban tinh, chúng được thành tạo dưới sâu khi
magma chưa trào lên tới bề mặt vỏ Trái Đất.
Phần nền gồm thủy tinh, các tinh thể nhỏ (vi tinh): Nền được thành tạo sau khi magma đã
trào lên trên bề mặt vỏ Trái Đất, do nhiệt độ giảm nhanh chóng nên nên các khoáng vật không kịp kết
kết tinh hoặc kết tinh không rõ ràng, bằng mắt thường không quan sát được các khoáng vật trong
nền.
1. 1. 2. 3. Đá nông (đá mạch):
Là đá trung gian giữa hai loại đá sâu và đá phun trào.
1. 2. Thành phần vật chất của đá magma
Thành phần vật chất của đá magma biểu hiện dưới hai hình thức khác nhau:
Thành phần khoáng vật và thành phần hóa học.
1. 2. 1. Thành phần hóa học:
Có thể gặp nhiều nguyên tố trong đá magma với tỷ lệ bất kỳ, nhưng sự phân bố
của chúng ở trong đá lại khác nhau. Những nguyên tố thường gặp và phổ biến nhất là
oxy và silic, trong đó oxy chiếm đến nửa trọng lượng trong các nguyên tố khác.
Chính vì vậy tuyệt đại đa số đá trong magma là do silicat tạo nên. Các nguyên tố
chính thường gặp và phổ biến khác sau O và Si là Al, Fe, Ca, Mg, Na, K, H, đó là các
nguyên tố tạo đá chính. Những oxit có hàm lượng không dưới 1% trong đá gọi là các hợp
phần (oxit) tạo đá chính gồm: SiO2, Al2O3, Fe2O3, FeO, MgO, CaO, Na2O, K2O, H2O-,
H2O+. Ký hiệu H2O- chỉ lượng nước bốc hơi khi ta nung đá ở nhiệt độ 105 – 110 0C (viết
H2O-110), (bảng 1. 1). Ngoài ra, còn những oxit chứa trong đá với hàm lượng rất nhỏ gọi là
hợp phần thứ yếu như: MnO, P2O5, TiO2, ZrO2, BaO, SrO, CO2, Cl, F .
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

4


Các oxit trong đá magma thay đổi có quy luật, tỷ lệ SiO2 càng tăng thì tỷ lệ FeO,
MgO càng giảm.
Bảng 1. 1: Hàm lượng trung bình của các oxit phổ biến trong đá magma theo

Klark và Oasinton.
Oxit
Hàm lượng trung bình,
Hàm lượng giới hạn,
(% trọng lượng oxit)
(% trọng lượng oxit)
SiO2
59,12
35 - 80
Al2O3
15,34
0 - 25
Fe2O3
3,08
0 - 10
FeO
3,80
0 - 15
MgO
3,49
0 - 40
CaO
5,08
0 - 15
Na2O
3,82
0 - 15
K2O
3,13
0 - 15

H2O
1,15
0,3
1. 2. 2. Thành phần khoáng vật của đá magma:
Thành phần khoáng vật của đá magma rất phức tạp, cho nên có nhiều cách phân
loại, cụ thể sau:
1. 2. 2.1. Dựa vào vai trò tạo đá chia làm ra 3 loại:
- Khoáng vật chính: Chiếm chủ yếu trong đá (> 5% tổng số khoáng vật trong đá) như thạch anh,
fenpat, nephelin, mica, amphibon, pyroxen, olivin.
Ví dụ: Trong đá granit thì thạch anh là khoáng vật chủ yếu, nhưng trong các loại đá
khác thì thứ yếu.
- Khoáng vật thứ yếu: Chiếm trong đá < 5%.
- Khoáng vật phụ: Chiếm khối lượng rất ít, chỉ vài % trong đá nhưng là hợp phần thường xuyên của
chúng. Các khoáng vật phụ thường gặp là ziacon, apatit, titanit, ruti, octit,… Đôi khi trong đá có các
khoáng vật quặng như manhetit, titanomanhetit, inmenit, cromit, pyrit, pyrotin.
1. 2. 2. 2. Dựa vào nguồn gốc thành tạo chia làm 2 loại:
- Khoáng vật nguyên sinh: Là khoáng vật được thành tạo trực tiếp từ dung thể magma.
Ví dụ: Thạch anh, fenpat, pyroxen, olivin,…
- Khoáng vật thứ sinh: Là khoáng vật được thành tạo do biến đổi nhiệt dịch các đá và thay thế
khoáng vật nguyên sinh. Các khoáng vật thứ sinh thường gặp trong đá magma là anbit, epidot,
xerixit, clorit, secpentin, tan, kaolin.
1. 2. 2. 3. Dựa vào thành phần hóa học chia làm 3 nhóm:
- Nhóm khoáng vật salic (Từ “salic” được ghép từ hai chữ đầu của nguyên tố Si và Al): là khoáng
vật chứa nhiều silic và nhôm, thường là những khoáng vật sáng màu như thạch anh, fenpat, nephelin,
mutcovit.
- Nhóm khoáng vật femic (hay mafic): Chủ yếu gồm các khoáng vật chứa sắt và manhe, thường là
những khoáng vật sẫm màu như olivin, pyroxen, amfibon, biotit.
- Nhóm khoáng vật kiềm: Là những khoáng vật giàu Na và K, chia làm 2 loại:
+ Kiềm sáng màu: Anbit, fenpat K, nephelin, leuxit.
+ Kiềm sẫm màu: Amfibon kiềm, pyroxen kiềm.

Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

5


1. 2. 2. 4. Các khoáng vật thường gặp trong đá magma:
Khoảng 90% các khoáng vật trong đá magma thuộc các loại sau: Fenpat, thạch
anh, pyroxen, amfibon, olivin, mica, nephelin, leuxit, manhetit, apatit.
1. 2. 2. 5. Quy luật cộng sinh khoáng vật trong đá magma:
Khác với đá trầm tích, các khoáng vật trong đá magma kết hợp với nhau không
phải là ngẫu nhiên, mà là một cộng sinh khoáng vật quyết định bởi thành phần hóa học
của magma và các điều kiện hóa lý nhất định.
1. Thạch anh không có mặt trong các đá nghèo silic và nhất là trong các đá giàu
kiềm nó không thể cộng sinh với nephelin, leuxit, rất hiếm khi thấy nó đi với olivin.
Sở dĩ như vậy là vì chúng có phản ứng như sau:
Na[AlSiO4] + 2 SiO2 = Na[AlSi3O8]: Anbit.
Na[AlSi2O6] + SiO2 = K[AlSi3O8]: fenpat.
(Mg, Fe)2 [SiO4] + SiO2 = (Ma, Fe)2 [Si2O6: pyroxen.
Chỉ trong trường hợp đặc biệt, khi olivin kết tinh trước mà không bị biến đổi,
sau đó thạch anh kết tinh ở giai đoạn cuối, lúc đó ta mới có thể thấy olivin và thạch
anh.
2. Mutcovit không bao giờ xuất hiện là khoáng vật nguyên sinh cùng với pyroxen
hoặc amfibon.
3. Trong các đá giàu natri thường hiếm biotit và bị thay thế bằng pyroxen hoặc
amfibon. Granit thường chứa biotit, các đá trung tính syenit và diorit thường chứa
amfibon và gabro chứa pyroxen.
4. Vì amfibon và biotit có chứa gốc hydroxyl, điều kiện kết tinh của chúng trong
đa phun trào không được thuận lợi, cho nên trong đá phun trào chúng bị phá hủy và bị
thay thế bằng augit hoặc hypesten.
5. Trong các đá sâu giàu silic, amfibon thường có màu lục, hiếm khi nâu; trong đá

bazic, amfibon thường có màu nâu.
6. Pyroxen và amfibon giàu natri chỉ gặp trong các đá magma giàu kiềm, nghĩa là
thừa kiềm để tạo thành silicat kiềm nhôm.
Do vậy trong đá có những quy luật cộng sinh nhất định, những quy luật đó giúp
ích cho việc xác định khoáng vật trong đá.
1. 3. Kiến trúc và cấu tạo của đá magma
1. 3. 1. Kiến trúc của đá magma:
1. 3. 1. 1. Định nghĩa:
Kiến trúc của đá theo nghĩa rộng của nó là toàn bộ những dấu hiệu xác định
những đặc điểm về hình thái của từng hợp phần và quan hệ không gian giữa chúng với
nhau. Theo nghĩa hẹp, kiến trúc bao gồm những dấu hiệu quy định bởi trình độ kết
tinh, kích thước, hình dạng của các tinh thể, quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau và
giữa chúng với thủy tinh.
Kiến trúc phụ thuộc vào mức độ nguội lạnh của magma, thành phần bay hơi trong
chúng. Đá càng giàu chất bay hơi, tốc độ nguội lạnh chậm thì càng kết tinh tốt.
1. 3. 1. 2. Phân loại kiến trúc:
- Căn cứ vào trình độ kết tinh của các hợp phần: phân ra làm 3 loại:
1. Kiến trúc toàn tinh: đặc trưng khi đá magma hoàn toàn gồm những hợp phần kết
tinh và không chứa thủy tinh.
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

6


2. Kiến trúc thủy tinh: thành phần của đá hoàn toàn là thủy tinh.
3. Kiến trúc nửa thủy tinh (nửa kết tinh): khi đá có cả những hợp phần kết tinh và
những hợp phần không kết tinh (thủy tinh). Kiến trúc này đặc trưng cho đá phun trào.
- Căn cứ vào kích thước tương đối của các tinh thể (hạt tinh thể): Phân làm 2 loại:
1. Kiến trúc hạt đều: các khoáng vật trong đá có kích thước đều nhau.
2. Kiến trúc hạt không đều: phân làm 3 loại:

Kiến trúc dạng pocfia (dạng nổi ban): Ban tinh nổi trên nền hạt nhỏ, trong đó kích thước của ban
tinh lớn hơn vài lần so với thích thước của nền. Kiến trúc dạng pocfia điển hình cho đá kết tinh trong
điều kiện sâu vừa .
Kiến trúc pocfia (nổi ban): Gần giống kiến trúc dạng pocfia cũng đặc trưng có những ban tinh
nhưng khác ở chỗ là nổi ban trên nền hạt mịn (gồm các khoáng vật vi tinh, ẩn tinh và thủy tinh). Dưới
kính hiển vi thì mới phân biệt được các khoáng vật trong nền. Trong trường hợp nền có kiến trúc kết
tinh hoàn toàn (vi tinh). Nếu trong trường hợp nền có cả thủy tinh thì nó có kiến trúc nửa thủy tinh.
Kiến trúc không ban tinh (afia): Đá chỉ có nền không có ban tinh.
- Căn cứ vào kích thước tuyệt đối của hạt tinh thể: Phân làm 2 loại:
1. Kiến trúc hiển tinh: Các hạt riêng biệt có thể nhìn thấy được bằng mắt thường. Dựa
vào độ lớn của các hạt hiển tinh, chia làm 3 loại sau:
- Kiến trúc hạt thô (lớn): đường kính lớn hơn 5mm (Þ > 5mm).
- Kiến trúc hạt vừa: Þ = 1 - 5mm.
- Kiến trúc hạt nhỏ: Þ < 1mm.
2. Kiến túc ẩn tinh: Các phần tử hợp thành đá không thể thấy được bằng mắt thường.
Nếu dưới kính hiển vi vẫn còn phân biệt được ranh giới giữa các hạt thì gọi là kiến
trúc vi tinh, còn nếu không phân biệt được với nhau thì gọi là kiến trúc ẩn tinh.
- Căn cứ vào trình độ tự hình của các khoáng vật: Phân làm 3 loại:
1. Kiến trúc toàn tự hình: tất cả các khoáng vật trong đá đều có hình dạng tự hình.
2. Kiến trúc toàn tha hình: các khoáng vật tạo nên trong đá có hình dạng tha hình (méo
mó).
3. Kiến trúc nửa tự hình: một số tinh thể có hình dạng biểu hiện rõ, còn một số tinh thể
khác thì kém hơn hoặc tha hình.
1. 3. 2. Cấu tạo của đá
1. 3. 2. 1. Định nghĩa:
Cấu tạo của đá là những đặc điểm về sự phân bố, sắp xếp các thành phần của đá
trong không gian. Cấu tạo của đá magma được biểu hiện bởi các yếu tố sau:
1. Các nguyên nhân bên trong liên quan đến đặc điểm kết tinh của đá.
2. Anh hưởng của các yếu tố bên ngoài như trọng lực, chuyển động magma,
các dòng đối lưu và các áp lực một phía.

1. 3. 2. 2. Phân loại:
1. Cấu tạo khối đồng nhất: Đặc trưng bởi sự phân bố đồng đều của các khoáng vật
trên toàn bộ khối đá, không có sự định hướng và tất cả các bộ phận đều giống nhau.
2. Cấu tạo dị li (taxit): Các khoáng vật phân bố không đều đặn, khác nhau cả về
thành phần và lẫn kiến trúc.
3. Cấu tạo dòng chảy: Các khoáng vật sắp xếp định hướng theo dòng chảy (nguyên
nhân do lực ép hai bên hoặc do di chuyển của magma).
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

7


4. Cấu tạo cầu: Các khoáng vật thường sắp xếp theo khối đồng tâm xung quanh
một vài tâm nào đó. Các lớp đồng tâm phân biệt với nhau về thành phần và màu sắc.
Loại cấu tạo này thường gặp trong đá xâm nhập và đá phun trào.
5. Cấu tạo dải: Đặc trưng bởi sự xen kẻ các dải khoáng vật sáng màu và sẫm màu
có thành phần khác nhau
6. Cấu tạo lỗ hổng: Phát sinh do dung nham đông đặc có sự thoát khí dạng giọt để
lại những lỗ hổng có dạng cấu tạo hoặc dạng elipxoit. Nếu thể tích của đá vượt quá thể
tích lỗ hổng gọi là cấu tạo bọt. Nếu thể tích đá ít hơn thể tích lỗ hổng, vách lỗ hổng
mỏng gọi là cấu tạo tổ ong.
7. Cấu tạo hạnh nhân: Thành tạo khi các lỗ hổng được lấp đầy bởi các khoáng vật
thứ sinh. Khoáng vật lấp đầy lỗ hổng thường là clorit, epiđot, canxit, thạch anh,…
1. 4. Dạng nằm của đá magma
Dạng nằm của đá magma là một yếu tố quan trọng phản ánh điều kiện thành tạo của
đá magma, chúng phụ thuộc vào nguồn gốc, thành phần, điều kiện kết tinh của đá magma.
Do vậy dựa vào nguồn gốc thành tạo, hay dựa hình dạng và quan hệ của chúng với đá vây
quanh, người ta phân loại dạng nằm của đá magma.
1. 4. 1. Dạng nằm của đá magma nông (đá mạch):
1. Các thể tiêm nhập chỉnh hợp:

- Thể vỉa (sila): do magma có áp lực xuyên vào khoảng giữa hai lớp đá (hình 3. 1d).
- Thể nấm (lacolit): có dạng thấu kính dày lồi ở phần trên, không phá hủy tính phân lớp của
đá vây quanh (hình 3. 1a, b).
- Thể chậu (lopolit): coi như một thể thấu kính lớn phần trung tâm bị lõm xuống, song cũng
không phá hủy tính phân lớp đá vây quanh (hình 3. 1c).
- Thể thấu kính (phacolit): có dạng thấu kính với kích thước khác nhau, thường nằm ở phần
nhân nếp uốn (phức nếp lồi và phức nếp lõm) giữa các tầng biến vị mạnh.
2. Các thể tiêm nhập không chỉnh hợp:
- Thể tường (thể đai cơ): là thể lớp hay nhánh, phát sinh do magma lấp đầy các khe nứt cắt
qua đá vây quanh. Chiều dài của thể tường có thể đến vài mét, đôi khi tới vài kilomet, bề
dày trung bình từ vài centimét đến vài mét.
- Thể mạch.
- Thể nhánh.
- Thể cổ: được thành tạo do kết quả lấp đầy dung nham tại các họng núi lửa (thể họng).
- Thể mạch hình nón: Thành tạo xung quanh miệng núi lửa do kết qủa phun lên nhiều lần
của dung nham xen kẻ với các sản phẩm vụn núi lửa như bụi, tro, bom,…
Ngoài ra còn có một số loại ít gặp như: Thể phiễu, thể nem, thể rìu, thể liềm, thể thẹo.

Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

8


Hình 3. 1: Các thể tiêm nhập chỉnh hợp
a, b- thể nấm, c- thể chậu, d- thể vỉa, e- xâm nhập giữa các thành hệ:
1- Đá xâm nhập, 2- trầm tích cát, 3- đá phiến biến chất.
1. 4. 2. Dạng nằm của đá magma sâu:
1. Thể cán (stok): Diện tích 100 – 200 km2, đẳng thước (có dạng tròn hoặc elip)
theo tiết diện ngang, cắt qua các tầng vây quanh có dạng lớp, ở độ sâu liên hệ với
batolit (hình 3. 2).


Hình 3. 2: Theå caùn

2. Thể nền (batolit): Theo R. Deli (1936) batolit là dạng khối xâm nhập không
chỉnh hợp (như granit). Diện tích hàng trăm km đến hàng ngàn km 2 km2. Người ta dự
đoán batolit là thể không đáy, hiện nay đang phủ nhận đều này (hình 3. 3).

Hình 3. 3: Sơ đồ thể xâm nhập batolit granit.
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

9


1- granit; 2- trầm tích cát – sét; đá phiến biến chất.
1. 4. 3. Dạng nằm của đá phun trào:
1. Vòm phủ: Được thành tạo bởi dung nham magma có thành phần trung tính và
axit, chứa nhiều kiềm, độ nhớt cao do chứa nhiều SiO 2 và mất thành phần bay hơi. Khi
phun lên không chảy tỏa ra mà mọc lên thành vòm, đôi khi dạng kim.
2. Lớp phủ: Là một thể dải có diện phân bố rất rộng, bề dày mỏng, thường thành
tạo bởi dung nham magma bazơ (bazan) có hàm lượng SiO 2 thấp, độ nhớt thấp, dễ linh
động. Diện tích khoảng 100 – 1000km2, bề dày vài mét đến vài trăm mét.
3. Thể dòng: Có dạng dòng chảy kéo dài, bề dày tương đối nhỏ, được thành tạo do
sự đông cứng của dung nham, chủ yếu do các sườn dốc của núi lửa, do lấp đầy các
thung lũng và mương xói bởi dung nham. Thành phần dung nham quyết định hình
dạng và kích thước của dòng. Dòng dung nham axit thường dày (do có độ nhớt cao),
ngược lại dòng dung nham bazơ mỏng và kéo dài (độ nhớt thấp).

a)

b)


Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

10


c)

d)
Hình 3. 3: Một số dạng nằm của đá phun trào
a- vòm trachit ở Ovecnhơ (Pháp); b- lớp phủ dung nham ở Băng Đảo, c- dòng dung nham ở chân núi
Jupanvoi (Kamsatca); d- thể kim dung nham ở núi Pơle (Lacroix, 1907).

1. 5. Phân loại đá magma và cách gọi tên chúng
1. 5. 1. Phân loại đá magma:
Như đã biết, những đặc điểm của đá magma có ý nghĩa quan trọng trong phân loại
đó là thành phần hóa học, thành phần khoáng vật, kiến trúc, dạng nằm và mức độ biến đổi
trong đá. Trên cơ sở những dấu hiệu đó mà đã có rất nhiều bảng phân loại ra đời.

Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

11


1. Dựa vào dạng nằm của đá magma: chia làm 3 loại:
- Đá magma sâu: Dạng nằm thể nền, thể cán.
- Đá magma nông: Dạng nằm thể tường, thể vỉa, thể mạch.
- Đá magma phun trào: Dạng nằm lớp phủ, vòm phủ, dòng phủ.
2. Dựa vào thành phần hóa học: chủ yếu dựa vào tỷ lệ SiO2 và tỷ lệ kiềm (Na2O + K2O).
Nhóm đá magma

Tỷ lệ SiO2 (%)
Tỷ lệ kiềm (%)
Đá siêu bazơ
< 45%
Rất kiềm
Đá bazơ
45 – 52%
ít
Đá trung tính
52 – 65%
5 – 6%
Đá axit
65 – 75%
6 – 8%
Đá á kiềm
65 – 52%
8 – 10%
Đá kiềm
52 – 45%
10 – 15%
3. Dựa vào thành phần khoáng vật:
- Nhóm đá magma axit: Giàu khoáng vật thạch anh.
- Nhóm đá magma trung tính: Ít hoặc không có thạch anh.
- Nhóm đá magma bazơ: Giàu plagiocla bazơ và khoáng vật màu.
- Nhóm đá magma siêu bazơ: Giàu olivin và pyroxen, không chứa fenpat.
- Nhóm đá magma á kiềm: Tương tự như trung tính nhưng khác là giàu fenpat K.
- Nhóm đá magma kiềm: Chứa fenpat K và các khoáng vật kiềm khác.
1. 5. 2. Cách gọi tên đá magma:
Mỗi nhóm đá căn cứ vào dạng nằm của chúng, chia ra đá sâu, đá nông và đá phun trào. Tên
gọi các đá thường ghép giữa hai loại đá sâu và đá phun trào điển hình.

Ví dụ: Nhóm đá Granit – riolit, nhóm đá gabro – bazan.
- Các đá sâu bắt đầu bị biến chất thêm tiếp đầu ngữ là “apo”. Nếu đá phun trào
bắt đầu bị biến chất thì thêm tiếp đầu ngữ “meta”.
- Đá nông (đá mạch): Nếu đá nông giống thành phần đá sâu cùng nhóm gọi là đá mạch
không phân dị. Nếu thành phần đá nông khác thành phần đá sâu trong cùng nhóm gọi là đá mạch
phân dị. Trong đá mạch phân dị chia ra làm 2 loại sau:
+ Loại ít khoáng vật màu hơn so với đá sâu thì gọi là đá mạch phân dị sáng màu.
+ Loại nhiều khoáng vật màu hơn so với đá sâu thì gọi là đá mạch phân dị sẫm màu hay
lamprofia.
- Đá phun trào: chia 2 kiểu:
+ Đá phun trào kiểu mới: Các khoáng vật trong đá chưa bị hoặc rấr ít bị biến đổi thứ sinh,
thủy tinh núi lửa hầu như chưa bị biến đổi.
+ Đá phun trào kiểu cũ: Các khoáng vật trong đá chưa bị biến đổi mạnh, thủy tinh bị tái kết
tinh hoặc bị clorit hóa, quặng hóa,…
- Cách gọi tên đá phun trào kiểu cũ:
+ Đối với đá magma axit: Lấy tên đá phun trào kiểu mới cộng với “pocfia”. Ví dụ: Riolit
pocfia.
+ Đối với các đá magma khác: Lấy tên đá phun trào kiểu mới cộng với “pocfia”. Ví dụ:
Andezit pocfiarit hay cộng với “ meta”. Ví dụ: Metabazan.
1. 6. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu đá magma và phương pháp nghiên cứu chúng
1. 6. 1. Tầm quan trọng:
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

12


Đá magma và đá biến chất chiếm 95% trọng lượng vỏ Trái Đất, các đá trầm tích chỉ
chiếm 5%, nhưng xét cho cùng chúng cũng do đá magma bị phá hủy tạo thành.
Hầu hết các khoáng sản kim loại và không kim loại đều liên quan đến các đá magma.
Ví dụ: - Kim cương liên quan đến kimbeclit.

- Thiếc, vonfram liên quan đến đá magma axit.
- Mica liên quan đến pecmatit granit.
Bản thân đá magma cũng là vật liệu xây dựng tốt hay là nền móng cho các công
trình xây dựng. Do vậy nghiên cứu đá magma không những giúp ta xác định đúng đắn
phương hướng tìm kiếm thăm dò mỏ, mà còn giúp ta sử dụng chúng trong các công trình
xây dựng.
1. 6. 2. Phương pháp nghiên cứu đá magma: gồm 2 bước:
- Nghiên cứu ngoài trời.
- Nghiên cứu trong phòng.
1. Nghiên cứu ngoài trời:
Đá magma rất phổ biến trên trái đất, nó đóng vai trò hết sức quan trọng nhất là
các đá magma liên quan đến nhiều loại khoáng sản.
Do vậy muốn nghiên cứu đá magma trước hết cần nghiên cứu dạng nằm của
chúng trong tự nhiên bằng phương pháp lộ trình địa chất lập bản đồ: nhờ đó mà xác
định được ranh giới địa chất và quan hệ của chúng với đá vây quanh.
Xác định thành phần khoáng vật, hóa học, địa hóa cũng như kiến trúc, cấu tạo, màu
sắc của từng loại đá magma. Đo vẽ các hệ thống khe nứt, đứt gãy liên quan.
Ghi chép cẩn thận và vẽ những đặc điểm cần thiết vào sổ nhật ký. Lấy mẫu đá magma
theo kích thước qui định: 3x6x9cm hoặc 4x8x12cm, mẫu lấy phải tươi. Ngoài ra còn lấy
mẫu phân tích lát mỏng, phân tích tuổi tuyệt đối,…, với kích thước nhỏ (2x4x6cm).
2. Nghiên cứu trong phòng:
Kết hợp phương pháp nghiên cứu trong phòng: Phân tích lát mỏng, phân tích
quang phổ, phân tích hóa học,…. Nhằm xác định tên đá một cách chính xác. Phân tích
xạ để tính tuổi tuyệt đối của đá.

Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

13



Chương 2: MÔ TẢ CÁC ĐÁ MAGMA
2.1. Nhóm đá magma siêu bazơ (Siêu mafic)
(Nhóm đá magma không Fenpat)
2. 1. 1. Đặc điểm chung:
Nói chung nhóm đá siêu mafic ít phổ biến trong tự nhiên, chỉ chiếm khoảng
0,4% khối lượng chung toàn bộ đá magma. Các đá điển hình của nhóm này chỉ gặp ở
dạng xâm nhập, ít gặp đá phun trào (chỉ có loại kimbeclit là đá phún nổ thành dăm kết
núi lửa), trong đá chủ yếu là periđotit.
Đá thường có màu lục sẫm, đen nâu đến đen. Chúng thường phân bố ở phần
dưới cùng của khối magma.
2. 1. 2. Thành phần khoáng vật và hoá học:
2. 1. 2. 1. Thành phần khoáng vật:
1. Khoáng vật chính: Olivin, pyroxen thoi và pyroxen 1 nghiêng, đôi khi có hocblen.
2. Khoáng vật thứ yếu: Plagiocla bazơ, hocblen và biotit.
3. Khoáng vật phụ: Manhetit, cromit, inmenit, spinen, pirotin.
4. Khoáng vật thứ sinh: Secpentin, amfibon dạng sợi, tan, clorit,…
Đặc điểm địa hóa của đá siêu bazơ là nó chứa nhiều Cr, Ni, Ti.
2. 1. 2. 2. Thành phần hoá học:
Các đá siêu bazơ thuộc loại nghèo silic (hàm lượng SiO 2: 40 – 45%) vì không chứa
fenpat nhưng rất giàu oxit manhe (MgO: 45%); oxit sắt (FeO: 10 – 12%) và hầu hết vắng mặt
Al2O3, Na2O, K2O.
2. 1. 3. Mô tả đá:

2. 1. 3. 1. Các đá sâu:
1. Mô tả thạch học:
Dựa vào hàm lượng tương đối của các khoáng vật chính, đá siêu bazơ được chia ra
loạt các kiểu thạch học sau:
- Đunit và olivinit: Olivin = 100 – 75%; pyroxen = 0 – 30%.
- Periđotit: Olivin = 70 – 30%; pyroxen = 30 – 70%.
- Pyroxenit: Olivin = 30 – 0%; pyroxen = 30 – 100%.

- Hocblendit: Thành phần chủ yếu là hocblen.
 Đunit và olivinit:
Là loại đá sâu mà thành phần khoáng vật hầu như hoàn toàn là olivin. Khoáng vật
thứ yếu là pyroxen. Khoáng vật phụ là cromit, manhetit. Đá có màu đen hoặc màu xám
phớt lục, có kiến trúc toàn tinh, hạt mịn; cấu tạo khối.
Phân biệt đunit và olivinit có 2 quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất là dựa vào khoáng vật phụ:
+ Đunit thường chứa khoáng vật phụ là cromit.
+ Olivinit thường chứa khoáng vật phụ là manhetit.
- Quan điểm thứ hai là dựa vào tỷ lệ olivin và pyroxen:
+ Đunit: Pyroxen = 0 – 15%; Olivin = 0 – 85%.
+ Olivinit: Pyroxen = 15 – 30%; Olivin = 85 – 70%.
 Periđotit:
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

14


Thành phần khoáng vật chủ yếu là olivin và pyroxen. Olivin thường chiếm
nhiều hơn. Đá có màu lục sẫm, xám sẫm hay đen. Olivin thường có dạng hạt, màu
vàng lục, hình dạng không tự hình. Pyroxen có dạng tấm màu đen, đen nâu, ánh thủy
tinh. Khoáng vật phụ có: cromit, manhetit, inmenit, periđotit.
Tùy thuộc vào đặc điểm của pyroxen mà periđotit được chia ra các kiểu thạch học sau:
- Nếu đá có olivin và pyroxen thoi gọi là Hacbuagit (Olivin ≈ 65%,
pyroxen thoi ≈ 35).
- Nếu đá có olivin và pyroxen một nghiêng gọi là Veclit.
- Nếu đá có olivin, pyroxen thoi và pyroxen một nghiêng gọi là Leczolit.
 Pyroxenit:
Thành phần khoáng vật chủ yếu là pyroxen (cả pyroxen thoi và pyroxen một nghiêng).
Khoáng vật thứ yếu là olivin, amfibon, biotit. Khoáng vật phụ có manhetit, cromit,

inmenit. Đá có màu nâu, xám phớt lục, đôi khi phớt nâu. Kiến trúc toàn tinh, hạt từ trung
bình đến thô, đôi khi có kiến trúc dạng pocfia. Cấu tạo khối.
 Hocblendit:
Thành phần khoáng vật chủ yếu là hocblen, đôi khi có ít pyroxen dưới dạng sót
lại trong quá trình amfibon hóa, đá có màu đen phớt lục. Như vậy hocblendit được
thành tạo từ pyroxen bị biến đổi bởi qúa trình hậu magma.
2. Hiện tượng biến đổi thứ sinh:
Các đá sâu siêu bazơ thường bị biến đổi thứ sinh mạnh hơn các đá magma khác.
Các khoáng vật thứ sinh thường gặp secpentin, tan, manhezit, clorit, amfibon dạng sợi.
Secpentin là khoáng vật thứ sinh phổ biến nhất như: Olivin thường bị secpentin theo
các khe nứt của olivin, hay gặp secpentin hóa dạng sợi tức cryzotin. Có khi cả khối
siêu bazơ biến thành secpentinit. Ngoài ra còn có các quá trình biến đổi khác như clorit
hóa, uralit hóa (pyroxen biến thành amfibon dạng sợi).
3. Đặc điểm dạng nằm và khoáng sản liên quan:
* Đặc điểm dạng nằm:
Đá siêu bazơ thường tạo những thể xâm nhập nhỏ dạng thấu kính hoặc dạng nấm nằm
khớp đều (chỉnh hợp) với kiến trúc uốn nếp của đá vây quanh. Ở vùng hoạt động địa máng,
chúng thường lấp đầy những đứt gãy lớn cho nên có dạng kéo dài.
Đá siêu bazơ có thể thành những khối xâm nhập riêng lẻ, nhưng chúng thường đi
cùng với gabro tạo thành hệ gabro – periđotit, gabro – pyroxenit; phát sinh trong giai
đoạn đầu địa máng.
* Khoáng sản liên quan:
Khoáng sản liên quan với đá sâu siêu bazơ thường có platin, niken, coban, đồng,
crom. Liên quan với sản phẩm biến chất của đá siêu bazơ có khoáng sàng không kim
loại làm nguyên liệu chịu lửa như: Crizotin – atbet, tan, manhezit.
Việt nam có mỏ Cromit liên quan với đá siêu bazơ: Khối núi Nưa ở Cổ Định –
Thanh Hoá; Mỏ đồng – Niken liên quan với khối siêu bazơ ở Bảng Sang – Sơn La.
Ngoài ra, trong khối siêu bazơ còn gặp tan, manhezit, crizotin – atbet ở vùng
Hiệp Đức – Quảng Nam và tây đới Kontum.
2. 1. 3. 2. Các đá mạch và phun trào siêu bazơ:

Rất ít gặp chủ yếu có hai loại là picrit và kimbeclit.
 Picrit:
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

15


Là đá xâm nhập nông thường nằm trong tổ hợp địa chất với các đá phun trào
bazơ, sản phẩm phun trào nằm dưới đáy dòng dung nham hoặc thể vỉa. Thành phần
gồm: Olivin, pyroxen một nghiêng (augit), pyroxen thoi và đôi khi có ít plagiocla
bazơ, biotit. Đá có kiến trúc dạng pocfia với nền hạt nhỏ hoặc hạt vừa, màu lục sẫm.
Nó liên quan về không gian và nguồn gốc với điabaz.
 Kimbeclit:
Là loại đá phún nổ, có màu xám lục, xám – xanh hoặc nâu lấp đầy các ống nổ
chứa kim cương ở vùng Kimbeclei (Nam Phi). Đây là loại dăm kết cấu tạo từ các
mảnh dăm của đá siêu bazơ và các đá magma khác. Chúng được thành tạo sức nổ của
các ống nổ siêu bazơ phun các mảnh vụn lên trên mặt đất. Đường kính của ống nổ
kimbeclit rất khác nhau từ 30 – 100m. Các mảnh vụn đó được gắn kết bởi ximăng (vật
liệu ximăng đóng vai trò là nền gồm secpentin và cacbonat). Thành phần khoáng vật
chủ yếu gồm có: olivin, pyroxen, flogopit, kim cương, pirop, inmenit, ziricon, cromit.
Đá thường bị biến đổi tạo thành secpentin và cacbonat. Kimbeclit liên quan chặt chẽ
với các mỏ kim cương.
Trên thế giới có kimbeclit ở Kimbeclei (Nam Phi), Xebêri (Liên Xô) liên quan
đến khoáng sản kim cương.
2. 2. Nhóm đá magma bazơ (Nhóm đá magma mafic)
Nhóm đá Gabro-Bazan
2. 2. 1. Đặc điểm chung:
Nhóm đá gabro – bazan rất phổ biến và rất quan trọng trong vỏ Trái Đất. Trong
nhóm đá bazơ thì đá phun trào phổ biến hơn đá sâu, thể tích của nó gấp 5 lần tất cả các
loại đá phun trào khác còn lại (chúng chiếm diện tích hàng trăm đến hàng nghìn km 2).

Magma bazan không nhớt lắm nên khi kết tinh cho nhiều loại đá có trình độ kết
tinh khác nhau (như ở Ha oai), thường tạo thành những lớp phủ lớn.
Nhìn chung đá sẫm màu; tỷ trọng 2,6 – 3,27; khoáng vật màu trung bình 45 –
50%.
2. 2. 2. Thành phần khoáng vật và hoá học:
2. 2. 2. 1. Thành phần khoáng vật:
1. Khoáng vật chính:
Plagiocla bazơ (labrado – bitaunit - anoctit) chiếm 50%; Pyroxen 1 nghiêng và pyroxen thoi
(25 – 30%). Hiếm hơn trong số khoáng vật chính còn gặp olivin, hocblen, biotit.
2. Khoáng vật thứ yếu và phụ chiếm (1 – 6%):
Thạch anh, octocla, inmenit, manhetit, apatit, pirotin, penlandit.
3. Khoáng vật thứ sinh:
Anbit, clorit, tan, xerixit, zoizit, amfibon dạng sợi.
2. 2. 2. 2. Thành phần hoá học:
- SiO2 = 45 – 52%
- Al2O3 = 10 – 20%
- CaO = 9 – 15%
- FeO = 4 – 16%
- MgO = 1,5 – 2,5%.
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

16


So với nhóm đá magm siêu bazơ thì hàm lượng: SiO 2, Al2O3, CaO tăng lên rõ
rệt; còn FeO, MgO giảm đi rõ rệt.
2. 2. 3. Mô tả:
2. 2. 3. 1. Các đá sâu:
Theo thành phần khoáng vật trong họ gabroit có thể chia ra các kiểu thạch học
chính sau:

Gabro, norit, gabro – norit, troctolit, anoctozit, labrađorit.
1. Mô tả thạch học:
 Gabro:
Đá có kiến trúc thành tinh thể lớn đến vừa, màu đen hay xám sẫm. Cấu tạo khối.
Thành phần khoáng vật chủ yếu plagiocla bazơ (N 050 – 73), pyroxen 1 nghiêng (augit).
Nếu trong khoáng vật chính có cả olivin thì gọi tên là gabro olivin và hocblen (gabro
hocblen).
Khoáng vật phụ: manhetit, titanomanhetit, inmenit, apatit, cromit.
 Norit:
Thành phần chủ yếu gồm: Plagiocla bazơ, pyroxen 1 nghiêng và thoi (enstatit, bronzit,
hypecten); pyroxen thường có màu lục sẫm, dạng tấm và không đều.
 Gabro norit:
Thành phần khoáng vật chủ yếu gồm plagiocla và 2 loại pyroxen.
 Troctolit:
Thành phần khoáng vật chủ yếu gồm: Plagiocla bazơ, olivin, trong đó lượng plagiocla bazơ
và olivin như nhau. Khoáng vật thứ yếu là pyroxen thoi và pyroxen 1 nghiêng.
 Anoctozit:
Đá không có khoáng vật màu. Thành phần chủ yếu là plagiocla bazơ (N 050 – 90). Đá
thường có ánh xà cừ đẹp ở Uran – còn gọi là đá mặt trăng dùng trong kiến trúc rất đẹp.
Ví dụ: Lăng của Lê Nin được xây bằng đá này, đá có màu xám hay xám sẫm, kích
thước từ trung đến lớn.
 Labrađorit:
Thành phần chủ yếu là labrađo. Đá có kích thước hạt lớn, màu xám sẫm. Đặc biệt
trên mặt dễ tách của khoáng vật labrado có màu xanh khá đặc trưng. Đá này dễ đánh
bóng, dùng trong kiến trúc rất đẹp.
Ví dụ: Lăng của Lê Nin được xây bằng đá này.
Ngoài các loại đá trên còn có các loại đá trung gian giữa gabro và siêu bazơ như:
Gabro – periđotit, gabro – pyroxenit. Các đá trung gian giữa gabro và trung tính:
Gabro – điorit. Đá trung gian giữa gabro và đá á kiềm: Gabro – sienit.
2. Biến đổi thứ sinh:

Các đá magma bazơ thường phổ biến các hiện tượng biến đổi thứ sinh sau: Clorit
hóa, hiện tượng xotxurit hóa, uralit hóa.
- Pyroxen thường bị uralit hóa biến thành amfibon dạng sợi, clorit hóa biến thành clorit.
- Plagiocla bazơ thường bị xotxurit hóa biến thành tập hợp khoáng vật hạt nhỏ zoizit, epiđot, thạch
anh, xerixit, cacbonat.
3. Đặc điểm dạng nằm và khoáng sản liên quan:
* Đặc điểm dạng nằm:
Gabro thướng có các dạng: Dạng thấu kính, thể tường, thể vỉa, dạng khối riêng biệt.
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

17


* Khoáng sản liên quan:
Titanomanhetit thường thành những thể dị ly trong gabro, đôi khi có chứa
vaniđi nên có giá trị lớn. Các quặng sunfua Cu – Ni (pirotin, penlandit, chancopirit).
Bản thân của gabro còn là vật liệu xây dựng tốt với sức bền 1800 kG/cm 2. Labradorit
sử dụng trong kiến trúc do đặc điểm đặc biệt của nó.
Việt Nam có khối gabro núi Chúa (Bắc Thái) liên quan với quặng titanomanhetit. Ngoài
ra còn có ở cao Bằng, Thanh Hoá. Miền nam có gabro ở Phù Mỹ (Bình Định) chủ yếu là gabro
– amfibonlit. Tây nguyên có gabro ở Lâm Đồng, Kontum.
2. 2. 3. 2. Các đá mạch:
1. Đá mạch không phân dị:
Thành phần tương tự như gabro chỉ khác gabro về kiến trúc, gồm các loại sau:
 Vigabro (microgabro):
Đá có kiến trúc hạt nhỏ, tha hình, màu xám – xám lục. Thành phần chủ yếu là
plagiocla bazơ, pyroxen có ít olivin. Khoáng vật quặng: manhetit, inmenit. Loại đá này
không gặp đi cùng với đá sâu.
 Gabro pocfiarit:
Thành phần tương tự như gabro, chỉ khác đá có kiến trúc nổi ban, với ban tinh là

pyroxen 1 nghiêng; nền là plagiocla bazơ, pyroxen 1 nghiêng đôi khi có hypecten,
manhetit. Chúng thường tạo thành những mạch trong gabro.
 Điaba:
Thành phần tương tự gabro, gồm: Plagiocla bazơ (labrado), pyroxen 1 nghiêng (augit) có
thể có ít pyroxen thoi; khoáng vật thứ yếu là hocblen, biotit, olivin, thạch anh.
Gọi tên các loại đá điaba theo khoáng vật thứ yếu: Điaba olivin, conga điaba (điaba
có thạch anh). Đá có kiến trúc ofit (tức plagiocla tự hình hơn so với pyroxen). Các
khoáng vật của điaba thường bị biến đổi thứ sinh mạnh: Pyroxen biến thành amfibon,
clorit; plagiocla bị xotxurit hóa.
Điaba thường tạo dạng mạch, dạng vỉa.
 Gabro pecmatit:
Thành phần tương tự như gabro nhưng hạt rất lớn, thường tạo thành mạch trong gabro.
2. Các đá mạch phân dị (Phân dị sẫm màu – Lamprofia):
 Odinit:
Là loại đá Lamprofia màu xám lục, hạt nhỏ đôi khi có kiến trúc nổi ban, ban tinh là
augit, labrado đôi khi có hocblen. Nền là hocblen, plagiocla bazơ.
 Ixit:
Là loại đá mạch rất sẫm màu, thường tạo thành mạch nhỏ trong đunit. Thành
phần là anoctit, hocblen ít manhetit, apatit. Đá có kiến trúc hạt toàn tự hình.
2. 2. 3. 3. Các đá phun trào:
Các đá phun trào tương ứng với gabro có tên chung là bazan. Đây là loại đá phổ
biến rộng rãi nhất trong tất cả các loại đá phun trào. Bằng mắt thường các đá phun trào
thành phần bazơ có màu xám đen hoặc đen. Đá đặc xít hay nhỏ.
Thành phần khoáng vật của bazan tương tự gabro, gồm: Plagiocla bazơ, augit
và thủy tinh núi lửa, ít gặp hơn là olivin (bazan olivin), manhetit, inmenit. Sự có mặt
của thủy tinh trong bazan không cố định.
Đá có kiến trúc afia hoặc pocfia với ban tinh: Augit, olivin, plagiocla bazơ.
Nền có kiến trúc đolorit, micro đolorit.
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh


18


Đá có cấu tạo khối, bọt, tổ ong, hạnh nhân. Khoáng vật lấp đầy hạnh nhân là:
Canxit, epiđot, zoizit.
Tùy theo đặc điểm kiến trúc và mức độ biến đổi của đá người ta phân loại như sau:
1. Đá phun trào kiều mới:
 Đolerit: Là loại đá hạt hạt vừa đến nhỏ, có kiến trúc đolerit (Plagiocla dạng tấm tự
hình sắp xếp lộn xộn, giữa chúng là các hạt pyroxen tha hình) hoặc kiến trúc ofit.
 Anamezit:
Là loại đá bazan có kiến trúc hạt mịn, vi kiến trúc: đolerit hoặc ofit nhưng nhỏ
hơn so với đolerit.
 Toleit:
Cũng giống với đolerit đá có kiến trúc đolerit (hoặc điaba) nhưng có thủy tinh phân bố
cùng tập hợp khoáng vật màu lấp đầy khoảng trống giữa các vi tinh plgiocla.
 Bazan:
Là loại đá hoàn toàn ẩn tinh (nhìn bằng mắt thường) đôi khi có kiến trúc pocfia
với ban tinh augit, olivin, plagiocla. Nền có kiến trúc vi đolerit hoặc vi khảm, nếu nền
có nhiều thủy tinh gọi là Hialobazan. Đá thường có cấu tạo bọt, tổ ong, hạnh nhân.
2. Đá phun trào kiểu cũ:
 Điaba phun trào:
Không nên nhầm với điaba dạng mạch. Điaba phun trào là tên để gọi các loại đá
kiểu cổ tương ứng với đolerit, anamezit, bazan không ban tinh. Đá có màu xám, lục
xám. Nhìn bằng mắt thường có hạt vừa, nhỏ đều mịn. Đá hoàn toàn đặc xít, vi kiến
trúc ofit, đolerit. Các khoáng vật trong điaba phun trào bị biến đổi thứ sinh mạnh:
Augit bị uralit hóa, thủy tinh bị clorit hóa.
 Spilit:
Là loại đá bazan kiểu cổ có vị trí đặc biệt. Spilit là đá có màu xám, phớt lục, có
cấu tạo thành nhân lấp đầy đó là các khoáng vật thứ sinh: caxit, epiđot, clorit,
caxeđoan, opan,… Thành phần khoáng vật trong đá spilit bị biến đổi thứ sinh mạnh.

Hiện tượng cacbonat hóa, clorit hóa phổ biến, pyroxen biến thành amfibon, plagiocla
bazơ bị anbit hóa thành plagiocla axit (anbit). Đá có kiến trúc afia (kiến trúc hạt mịn).
Về nguồn gốc spilit có nhiều quan điểm khác nhau:
Có giả thuyết cho rằng spilit được thành tạo do bazan biến đổi thành. Tức do
dung dịch magma bazơ phun trào ngầm dưới đáy biển. Natri trong nước biển trao đổi
với plagiocla bazơ để tạo thành anbit.
Một số nhà Bác học khác cho rằng nó là đá phun trào bazơ kiềm, spilit thường đi
cùng với thành hệ spilit – keratofia, phát sinh trong giai đoạn đầu của hoạt động địa máng.
2. 2. 4. Đặc điểm dạng nằm và khoáng sản liên quan:
* Đặc điểm dạng nằm:
Bazan phân bố rất rộng rãi trên vỏ Trái Đất tạo thành những lớp phủ, vòm phủ,
dòng phủ trên một diện tích tích lớn như: Vành Đai Thái Bình Dương, khu vực Địa
Trung Hải và các đứt gãy miền nền. Ở miền nền bazan tạo lớp phủ khổng lồ như ở cao
nguyên Đe Can – An Độ chiếm diện tích 650,000 km 2; chiều dày ≈ 2 km. Ngoài ra
còn gặp những lớp phủ bazan khổng lồ ở đáy Đại Dương.
Ở Việt Nam bazan phân bố ở Điện Biên Phủ, Phủ Qùy (Nghệ An). Spilit có ở
Sông Đà, Lạng Sơn.
Miền Nam bazan tạo thành lớp phủ rộng hàng chục km2 ở Tây Nguyên, Lâm Đồng.
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

19


* Khoáng sản liên quan:
Liên quan với bazan có Spat Băng Đảo – một loại nguyên liệu quang học qúy.
Trong hạnh nhân của bazan kiểu cũ thường gặp thạch anh áp diện, cũng là nguyên
liệu quang học quan trọng. Đồng, chì, kẽm, pyrit,… liên quan với thành hệ spilit –
keratofia.
Bazan dùng để đúc đá (nung đến 1200 0C chảy), đặc biệt bazan có tính chống ăn
mòn cơ học và hóa học rất cao đối với các hợp chất có tính ăn mòn kim loại mạnh,

chất thải công nghiệp có độ cứng cao. Do vậy người ta sản xuất ống đá từ bazn dùng
làm đường ống dẫn thay ống dẫn bằng kim loại.
Bazan còn dùng làm vật liệu xây dựng do sức bền lớn như lát nền, xây cầu. Khai
thác từ khối nứt nguyên sinh hình cột của bazan pocfiarit để làm đá ốp lát.
Ngoài ra khi phong hóa bazan tạo đất trồng trọt rất màu mỡ
2. 3. Nhóm đá magma trung tính (Nhóm đá Điorit – Andezit)
2. 3. 1. Đặc điểm chung:
Nhóm đá trung tính tương đối phổ biến nhưng kém thua nhóm nhóm gabro – bazan.
Trong nhóm này thì đá phun trào phổ biến hơn đá sâu: Điorit (xâm nhập) chiếm khoảng
1,8% tổng số đá magma xâm nhập còn andezit chiếm khoảng 23% tổng số đá magma.
Nhóm đá điorit – andezit là nhóm đá giữa granit và gabro.
Nhìn chung đá sáng màu, đôi loại sẫm màu. Tỷ trọng trung bình 2,7 – 2,9.
2. 3. 2.Thành phần khoáng vật và hoá học:
2. 3. 2. 1. Thành phần khoáng vật:

1. Khoáng vật chính:
Plagicla trung tính, hocblen đôi khi có pyroxen, biotit, thạch anh.
2. Khoáng vật thứ yếu và phụ:
Thạch anh, Fenpat K, apatit, manhetit, titanit, titanomanhetit.
3. Khoáng vật thứ sinh:
Nhìn chung các khoáng vật sáng màu khoảng 65 – 70%; Khoáng vật sẫm màu
khoảng 30 – 35%, đá bắt đầu có thạch anh tự do.
2. 3. 2. 2. Thành phần hoá học:

- SiO2 = 52 – 65%
- Al2O3 = 16%
- Na2O3 + K2O = 5 – 6%
- FeO = Fe2O3 = 4 – 8%
- CaO = 5 – 7%.
2. 3. 3. Mô tả:

2. 3. 3. 1. Các đá sâu:
1. Mô tả thạch học: Các đá xâm nhập trung tính gồm: Điorit và điorit thạch anh.
 Điorit:
Là loại đá xâm nhập dạng hạt màu xám, xám phớt lục, xám đen. Thành phần
khoáng vật chủ yếu plagiocla trung tính chiếm 65 – 70%, chúng thường có dạng tấm,
màu trắng xám, xám lục. Khoáng vật sẫm màu thường là hocblen, có dạng kéo dài, đôi
khi có dạng lăng trụ màu lục sẫm đến đen. Đôi khi có pyroxen, biotit, khoáng vật sẫm
màu chiếm 30 – 35%. Có thể không hoặc không có thạch anh và fenpat K nhưng không
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

20


quá 5%. Khoáng vật phụ thường gặp là apatit, manhetit, titanit, titanomanhetit. Khoáng
vật thứ sinh: Clorit, epiđot, canxit.
 Điorit thạch anh:
Là đá có thành phần trung gian giữa điorit và granitoit, khác điorit là lượng
thạch anh 5 – 15%, còn fenpat K không lớn hơn điorit. Nếu fenpat K > 10% gọi là
granođiorit.
Người ta gọi tên điorit theo thành phần khoáng vật màu như: Điorit hocblen,
điorit biotit. Ngoài ra còn có cả điorit pyroxen – thạch anh, điorit hocblen – biotit.
Các đá điorit, điorit thạch anh thường có kiến trúc toàn tinh hạt từ nhỏ đến
trung bình. Cấu tạo khối, đôi khi có cấu tạo gơnai, cấu tạo dị li.
Điorit chiếm vị trí trung gian giữa đá bazơ và axit; liên quan với chúng có các
đá gabrođiorit, granođiorit.
2. Biến đổi thứ sinh:
Plagiocla trung tính bị xotxurit hóa thành tập hợp: canxit, xerixit, kaolin đôi khi
có epiđot. Hocblen, pyroxen, biotit bị clorit hóa; đôi khi pyroxen 1 nghiêng bị uralit
hóa; hocblen bị biến đổi thành actinolit.
3. Đặc điểm dạng nằm và khoáng sản liên quan:

* Đặc điểm dạng nằm:
Điorit rất ít khi tạo thể xâm nhập độc lập, mà thường đi với granit và
granođiorit phân bố ở ven rìa những thể xâm nhập tạo thành thể cán, thể mạch hoặc
khối nhỏ.
Ở Việt Nam điorit thường gặp cùng với granitoit khối Nậm Rốm – Điện Biên
Phủ, phức hệ Phia Bioăc và đới Đà Lạt.
* Khoáng sản liên quan:
Khoáng sản kim loại là sắt, đồng, vàng. Ngoài ra, có thể gặp quặng sắt và
quặng đồng ở đới tiếp xúc giữa điorit với đá vôi.
2. 3. 3. 2. Các đá mạch:
1. Đá mạch không phân dị:
 Vidiorit (Microđiorit):
Giống điorit nhưng có kiến trúc hạt nhỏ.
 Điorit pocfiarit:
Thành phần giống điorit nhưng đá có kiến trúc nối ban với ban tinh plagiocla
trung tính, ít hơn hocblen. Nếu là điorit hạt nhỏ hoặc vi tinh. Vi điorit, điorit pocfiarit
thường tạo thành những khối nhỏ hoặc ở dạng thể tường, thể mạch.
2. Đá mạch phân dị:
* Phân dị sáng màu:
 Điorit aplit:
Thành phần chủ yếu là plagiocla trung tính (andezin), hiếm hơn có hocblen
(<5%). Đá có kiến trúc aplit. Cấu tạo khối.
 Điorit pecmatit:
Ít gặp hơn, thành phần giống điorit aplit, khác đá có kiến trúc hạt thô. Cấu tạo khối.
* Phân dị sẫm màu:
Xpexatit: Đá sẫm màu, kiến trúc hạt nhỏ hoặc nổi ban

Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

21



Kecxantit: Đá sẫm màu. Thành phần chủ yếu là plagiocla trung tính (nếu có octocla đá
chuyển sang minet).
2. 3. 3. 3. Đá phun trào (Andezit – Andezit pocfiarit):
1. Mô tả thạch học:
 Andezit:
Là loại đá phun trào kiểu mới rất phổ biến, đá có màu xám sẫm, màu xám hay
nâu đen. Thành phần tương ứng với điorit. Kiến trúc pocfia với ban tinh plagiocla
trung tính còn tưới, khoáng vật màu là augit, ít hơn hocblen và biotit. Nền có thánh
phần tương tự như ban tinh, và thủy tinh núi lửa. Đá có cấu tạo khối, lỗ hổng, hạnh
nhân.
 Andezit pocfiarit (Metaandezit)
Là đá phun trào kiểu cũ. Thành phần giống andezit nhưng các khoáng vật đã bị
biến đổi thứ sinh mạnh, tạo nên các tập hợp khoáng vật:anbirt, epiđot, xerixit, clorit,
kaolin,… Kiến trúc, cấu tạo andezit.
2. Đặc điểm dạng nằm, khoáng sản liên quan:
* Đặc điểm dạng nằm:
Andezit và các đá phun trào tương ứng kiểu cũ phân bố rất rộng rãi, chúng
thường tạo thành dòng phủ, vòm phủ, vòm hình tháp. Đó là những đá phổ biến nhất ở
vành đai núi lửa Thái Binh Dương, các miền núi Hymalaya, Hungari.
Ở Việt Nam có andezit ở Điện Biên Phủ, Tú Lệ, Nha Trang (Đồng Đế), Lâm
Đồng, Đồng Nai.
* Khoáng sản liên quan:
Nói chung andezit ít liên quan đến mỏ, đôi khi liên quan đến vàng. Bản thân andezit
dùng làm vật liệu chịu lửa, các tuf andezit dùng làm phụ gia xi măng.
Tuy An – Phú Yên: Andezit thường có lỗ hổng nhỏ nên dùng làm phụ gia trong xi
măng (torat).
2. 4. Nhóm đá magma axit (Nhóm Granit-Riolit)
2. 4. 1. Đặc điểm chung:

Nhóm đá này phổ biến khá rộng rãi, khác với đá magma bazơ ở chỗ đá xâm
nhập đóng vai trò chủ yếu, gấp 4 lần đá phun trào. Trong nhóm đá này tỷ lệ SiO 2 cao
nhất (> 65%), giàu khoáng vật thạch anh tự do, lượng khoáng vật màu không đáng kể,
nhìn chung đá sáng màu, tỷ trọng 2,7.
2. 4. 2. Thành phần khoáng vật và hoá học:
2. 4. 2. 1. Thành phần khoáng vật:
- Khoáng vật chính: Thạch anh(25 – 35%), fenpat K(35 – 40%), plagiocla
axit(15 – 25%), biotit(5 – 15%), ít hơn là (mutcovit(0 – 3%), hocblen, pyroxen).
- Khoáng vật thứ yếu và phụ: Apatit, manhetit, ziricon, tuamalin.
- Khoáng vật thứ sinh: Xerixit, kaolin, clorit.
2. 4. 2. 2. Thành phần hoá học:
- SiO2 = 65 – 75%
- Al2O3 = 12 – 16%.
- FeO + MgO rất ít.
- K2O + Na2O = 6 – 8%.
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

22


- CaO = 8%.
2. 4. 3. Mô tả đá:
2. 4. 3. 1. Các đá sâu:
1. Mô tả thạch học:
 Granit:
Là loại đá xâm nhập sáng màu, kết tinh hoàn toàn. Các khoáng vật chủ yếu là:
Thạch anh, fenpat, mica(thường là biotit ít hơn mutcovit), đôi khi có hocblen. Thạch
anh có dạng hạt tha hình; màu trắng, xám, ám khói; ánh mỡ. Fenpat có dạng tấm
không đều; màu trắng xám, hồng, đỏ thịt. Màu của granit phụ thuộc vào màu fenpat.
Fenpat là: Microlin, octocla, plagiocla(thường oligocla); biotit tạo thành những tinh

thể dạng vảy nhỏ có màu đen. Các khoáng vật phụ là: Titanit, ziricon, aptit, rutin, octit.
Các khoáng vật ít gặp: Manhtit, pyrit. Đá có kiến trúc hạt trung bình, thô, nhỏ, dạng
nổi ban. Cấu tạo khối, dải, dạng gơnai.
Phân loại granit:
- Dựa vào thành phần hóa học chia granit làm 2 loại: Granit thường(kiềm vôi)
và granit kiềm.
Granit kiềm giàu Na2O hơn vì vậy nó chứa fenpat kiềm, amfibol kiềm pyroxen
kiềm. Granit kiềm hiếm gặp hơn nhiều so với granit thường.
- Dựa vào các khóang vật màu có trong đá để gọi tên như: Granit biotit, granit 2
mica, granit hocblen.
 Alatkit:
Là loại đá granit hoàn toàn sáng màu. Thành phần gồm: Fenpat kiềm và thạch anh.
 Plagiogranit:
Thành phần chủ yếu: Plagiocla axit, thạch anh, không có fenpat K.
 Granit rapakivi:
Đá có kiến trúc dạng pocfia, ban tinh là fenpat K có dạng hình quả trứng. Đá
dễ bị phong hóa (tên gọi từ tiếng Phần Lan “rapakivi”) là đá vữa, vì chúng được sử
dụng rộng rãi làm đá ốp tường rất đẹp.
Các đá chuyển tiếp:
 Granodiorit:
Là loại đá trung gian giữa granit và diorit. Khác với granit bởi plagiocla không phải
là oligocla mà là andezin với hàm lượng nhiều hơn fenpat K (tức fenpat K chiếm rất ít),
khoáng vật màu nhiều hơn ngoài biotit còn có hocblen, thạch anh ít hơn (hàm lượng 25 –
30).
 Granosienit:
Là đá chuyển tiếp giữa granit và sienit. Thành phần khoáng vật chủ yếu là: Fenpat K
(nhiều hơn so với plagiocla), plagicla, ít thạch anh (15 – 20). Khoáng vật màu hocblen.
Các đá gần gũi với granit về thành phần, kiến trúc, vị trí địa chất như: Điorit
thạch anh, granođiorit gọi là granitoit.
2. Biến đổi thứ sinh:

Do tác dụng phong hóa các đá granit bị vỡ vụn dưới dạng cơ học, trước hết ở dọc theo
các khe nứt, những khối đá còn lại giữa các khe nứt tiếp tục được phá hủy, mài nhẵn.
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

23


Do tác dụng phong hóa hóa học fenpat K bị phong hóa thành kaolin. Nhiều khi ở những
vùng nhiệt đới ẩm kaolin cũng bị phá hủy, oxit silic bị hòa tan, chỉ còn lại oxit nhôm.
Biotit phong hóa bị nhạt màu đi, thường biến thành clorit. Hocblen cũng biến
thành clorit. Cuối cùng các khoáng vật màu biến thành oxit sắt, cacbonat.
Dưới tác dụng nhiệt dịch nhiệt độ thấp trong granit xuất hiện các khoáng vật
thứ sinh: Xerixit, cacbonat, epiđot. Trong quá trình tự biến chất nhiệt độ cao hơn
granit biến thành greizen với thành phần chủ yếu: thạch anh, mutcovit và các khoáng
vật khác như tuamalin, topa, fluorit, rutin, caxiterit, apatit.
3. Đặc điểm dạng nằm và khoáng sản liên quan:
• Đặc điểm dạng nằm:
Granit thường tạo thành những khối xâm nhập lớn như: Thể nền (batolit) có
diện tích hàng trăm km2, thể cán có chiều ngang hàng trăm mét, thể mạch, nấm, tường.
Thành phần khoáng vật và kiến trúc của granit ít thay đổi trong phạm vi lớn, đó là
điểm khác biệt với gabro.
• Khoáng sản liên quan:
Ở đới tiếp xúc với đá vôi thường tạo thành quặng sắt, đồng, vonfram hoặc một
số kim loại như thiếc, molipđen liên quan với qúa trình tạo greizen của granit như
khối Piaoăc, Bà Nà, Ankroet. Liên quan với khoáng hóa Cu – Mo, Au, Ag, Uran,
Thori,… như phức hệ Đào Cả, Định Quán, Quế Sơn. Các khoáng sản có thể nằm ngay
trong khối xâm nhập. Việt Nam có nhiều mỏ đá ốp lát có giá trị như: Lăng của Chủ
Tịch Hồ Chí Minh được ốp bằng đá granit đỏ (ở Phú Lôi – Thanh Hóa). Các loại đá có
vân hoa đẹp như granit màu đỏ và vàng ở Phú Tài, granit màu tím ở Đèo Cả, “đá con
tằm” ở An Giang,… được sử dụng trong các công trình xây dựng lớn.

Ở Việt Nam granit phân bố rộng rãi, chiếm 90% tổng số đá magma. Chúng
phân bố chủ yếu ở đông bắc (Sông Chảy, Piaoăc, Chợ Chu); vùng tây bắc (Ca Vịnh,
Điện Biên Phủ, Fanxipan); trung bộ (đèo Hải Vân, Kon Tum); nam bộ và nam trung
bộ (Đại Lộc – Quế Sơn, Chu Lai, Đèo Cả, Định Quán, Ankroet,…); đông nam bộ (Bà
Rịa

Vũng
Tàu);
tây
nam
bộ
(núi
Sam
An
Giang).
2. 4. 3. 2. Các đá mạch:
1. Đá mạch không phân dị:
 Vigranit (Micro granit):
Thành phần giống granit nhưng kiến trúc vi hạt.
 Granit pocfia:
Thành phần giống granit, đá có kiến trúc nổi ban. Ban tinh là thạch anh, fenpat
K, đôi khi có biotit và hocblen. Nền hạt mịn. Đá thường tạo thành những khối nhỏ như
thể nấm, mạch, cán, có khi ở ven rìa những khối lớn.
 Granofia:
Là loại đá granit pocfia nhưng nền có thạch anh giống hình con giun.
 Granudit:
Là đá mạch ứng với granit kiềm, đá có kiến trúc nổi ban, ban tinh thường là
microclin đôi khi có anoctocla, hocblen kiềm, pyroxen kiềm (egirin).
2. Đá mạch phân dị:
 Phân dị sáng màu:

Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

24


 Aplit:
Là đá hạt nhỏ hoặc hạt mịn, chỉ gồm có khoáng vật sáng màu. Thành phần
khoáng vật chủ yếu là: Thạch anh, fenpat K, plagiocla axit. Đá có kiến trúc aplit
(thạch anh, fenpat tha hình, kích thước như nhau).
 Pecmatit:
Thành phần giống aplit nhưng kích thước hạt lớn đôi khi có kích thước khổng lồ.
Ví dụ: Tinh thể Beri nặng 18 tấn
Đá có kiến trúc pecmatit, kiến trúc vân chữ cổ (thạch anh xen vào fenpat K một
cách có quy luật, thường cùng một hướng (tắt đồng thời). Những giao thể thạch anh
thường có tiết diện ngang là những hình đa giác hoăc có góc cạnh, giống như chữ cổ
của người Do Thái nên gọi là pecmatit vân chữ cổ).
Trong pecmatit thường có nhiều khoáng vật chứa thành phần hay hơi như:
Mutcovit, lepidolit, tuamalin. Pecmatit thường liên quan chặt chẽ với granit, aplit. Nó
có thể mằm ở trung tâm hay phần vòm của khối granit.
Việt Nam có pecmatit ở Lào Cai, Thạch Khoán (Vĩnh Phú), Đại Lộc (Đà Nẵng).
Pecmatit liên quan đến khoáng sản: Miaca, thạch anh áp điện chúng thường có dạng
mạch.
 Đá mạch sẫm màu:
 Lamprofia:
Đá có kiến trúc pocfia, đặc trưng ban tinh là khoáng vật màu. Nền của lamprofia
đa số trường hợp có kiến trúc hạt toàn tinh tự hình. Đặc điểm đặc trưng của lamprofia là
sự phân hủy mạnh của khoáng vật màu nguyên thủy và phát triển rộng rãi quá trình
cacbonat hoá, clorit hoá. Khoáng vật màu khoảng 50%, gồm: biotit, hocblen nâu,
pyroxen.
2. 4. 3. 3. Các đá phun trào:

1. Các đá phun trào tương ứng với granit:
 Riolit:
Là đá phun trào kiểu mới còn riolit pocfia là đá phun trào kiểu cũ.
Thành phần khoáng vật gồm:
- Ban tinh: Fenpat K (sanidin), tức là fenpat K xiên đơn trong suốt như nước thành tạo ở
nhiệt độ cao, độ trật tự thấp và gần như đơn trục; plagiocla axit (từ oligocla đến andezin); thạch anh;
biotit.
- Nền: Thủy tinh núi lửa (vì độ axit và độ nhớt cao nên nền có nhiều thủy tinh, nếu thủy tinh
bị phá hủy thì được thay thế bởi plagiocla axit, fenpat K và thạch anh, vi tinh tương tự như
thành phần ban tinh. Đá có kiến trúc pocfia. Cấo tạo khối, dòng chảy, dải, lỗ hổng.
“Rio” là “chảy”; “Lit: là “đá”
 Riolit pocfia (Metariolit): Đá bị biến đổi thứ sinh mạnh.
- Ban tinh: Sanidin chuyển sang dạng có độ trật tự cao như microclin, octocla, plagiocla axit
thay thế bởi anbit, thạch anh. Khoáng vật màu như biotit bị clorit hóa; microclin bị kao lin
hoá; anbit bị xerixit hóa.
- Nền: Thủy tinh núi lửa thì tái kết tinh lại và thành tạo tập hợp hạt plagiocla axit, octocla,
microclin, thạch anh.
Kiến trúc và cấu tạo giống riolit.
Việt Nam có riolit ở Tam Đảo.
 Fenzit:
Giáo viên biên soạn: Nguyễn Thị Xuân Ánh

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×