Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo sau đại học trường Đại học Xây Dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.97 KB, 46 trang )

Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Văn Đỉnh - Trưởng phòng
tổ chức cán bộ và PGS.TS Nguyễn Bình Hà - Trưởng khoa Đào tạo Sau đại
học, cùng các cán bộ, nhân viên khoa Đào tạo Sau đại học của trường Đại
học Xây dựng đã tạo điều kiện, giúp đỡ, hướng dẫn tận tình trong quá trình
tôi thực tập tại đây.
Sinh viên thực tập
Nguyễn Ánh Hồng Minh

1

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

MỤC LỤC
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Văn Đỉnh - Trưởng
phòng tổ chức cán bộ và PGS.TS Nguyễn Bình Hà - Trưởng khoa Đào tạo
Sau đại học, cùng các cán bộ, nhân viên khoa Đào tạo Sau đại học của
trường Đại học Xây dựng đã tạo điều kiện, giúp đỡ, hướng dẫn tận tình
trong quá trình tôi thực tập tại đây. .................................................................1
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.....................................................................4
Cơ sở lý luận của đề tài nhằm làm rõ một số khái niệm cơ bản và sự cần thiết,


tầm quan trọng của công tác đào tạo - mà cụ thể trong báo cáo này muốn nói tới
đào tạo Sau đại học - đối với phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội...........................................4
1.1. Các khái niệm cơ bản...............................................................................................4
1.2. Một số tư tưởng của C.Mác, P.Ăngghen, I.V.Lênin về giáo dục, đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực .......................................................................................................11
1.3. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề giáo dục,
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ...........................................................................18

CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TẠI KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
XÂY DỰNG.......................................................................................................23
2.1. Giới thiệu khái quát về khoa Đào tạo Sau đại học của trường Đại học Xây
Dựng Hà Nội...................................................................................................................23
2.2. Hiện trạng phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học của trường
Đại học Xây dựng...........................................................................................................26
2.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học của trường
Đại học Xây dựng trong thời kỳ mới.............................................................................37

KẾT LUẬN.......................................................................................................43
............................................................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................44
PHỤ LỤC...........................................................................................................45

2

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh


Báo cáo thực tập

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn báo cáo
Triết học luôn quan tâm đến vấn đề con người. Định nghĩa con người
không hề dễ dàng vì có rất nhiều các hiểu khác nhau về con người. Triết học
không đem đến cho chúng ta câu trả lời cho câu hỏi “Con người là gì?” như một
số người lầm tưởng, bởi khó có thể có được một câu trả lời thỏa đáng, nó tùy
thuộc vào việc các nhà nghiên cứu tiếp cận từ góc độ và mục đích nào. Trong
khi đó, triết học không chỉ dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà còn đi sâu vào
tìm hiểu nguyên nhân bên trong. Triết học mang đến cho chúng ta thế giới quan,
phương pháp luận hay nói cách khác là một cách thức để chúng ta tự chiêm
nghiệm và đi tìm câu trả lời trong những lĩnh vực, hoàn cảnh cụ thể, từ đó chúng
ta mới có những cách thức để phát triển con người một cách toàn diện và bền
vững. Hiểu con người là gì là một vấn đề rất quan trọng vì những hiểu biết lệch
lạc về con người sẽ dẫn đến những chính sách sai đối với phát triển nguồn lực
con người.
Trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã xác định “phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba
khâu đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2020. Để phát
triển nhanh nguồn nhân lực cả về lượng và chất, Đại hội XI chỉ rõ việc phát triển
nguồn nhân lực phải được gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ cũng như việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân.
Trải qua hơn 45 năm hình thành và phát triển, trường Đại học Xây dựng
đã ngày càng lớn mạnh, không chỉ trở thành một cơ sở đào tạo đại học và sau
đại học đầu ngành mà còn là một trung tâm nghiên cứu khoa học và triển khai
ứng dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ trong lĩnh vực xây dựng. Đây cũng
là một trong những trường đầu tiên được Thủ tướng Chính Phủ giao nhiệm vụ
đào tạo nghiên cứu sinh đồng thời cũng thành lập khoa Đào tạo Sau đại học từ

khá sớm. Cho tới nay, trường Đại học Xây dựng đã và đang góp phần đào tạo
1

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

cán bộ kỹ thuật trình độ cao cho đất nước nói chung và cho lĩnh vực xây dựng
nói riêng, tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy cho nhiều trường đại học,
cao đẳng trong cả nước, là đối tác tiềm năng, tin cậy trong các dự án đào tạo
quốc tế. Bởi vậy, công tác phát triển nguồn nhân lực, đặt biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao tại trường Đại học Xây dựng rất đáng được quan tâm, tìm hiểu,
nghiên cứu những thành tựu trường đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại để từ
đó chỉ ra được nguyên nhân, rút ra được bài học để phát huy những thế mạnh
cũng như có những giải pháp hiệu quả nhất để khắc phục những yếu điểm, tiếp
tục sáng tạo hơn nữa trong hoạt động thực tế. Muốn phân tích những điều đó ta
không thể chỉ dừng lại ở những số liệu thống kê đơn thuần mà còn cần đến
phương pháp luận của triết học.
Với những lý do nêu trên, trong quá trình thực tập tại khoa Đào tạo Sau
đại học của trường Đại học Xây dựng, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển nguồn
nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng” làm báo
cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Báo cáo nghiên cứu thực trạng để chỉ rõ được nguyên nhân của những
mặt tích cực và hạn chế trong công tác phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào
tạo Sau đại học của trường Đại học Xây dựng, từ đó, đưa ra một số giải pháp,
phương hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Báo cáo làm rõ một số cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực, sau đó,
phân tích, đánh giá thực trạng công tác phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào
tạo Sau đại học của trường Đại học Xây dựng để đưa ra phương hướng, giải
pháp nâng cao năng lực của nguồn nhân lực cả về lượng và chất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng thể hiện qua cơ sở vật
2

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

chất, đội ngũ cán bộ giảng dạy, quy mô tuyển sinh, chương trình đào tạo và chất
lượng đầu ra,...
+ Phạm vi nghiên cứu: Các hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao của khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo khoa học sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp cụ thể như: phương
pháp nghiên cứu văn bản, tổng hợp, phân tích tài liệu, thống kê số liệu, phương
pháp lịch sử và logic, v.v
6. Ý nghĩa của nghiên cứu
Báo cáo góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao tại khoa Đào tạo Sau đại học của trường Đại học Xây
dựng nói riêng và tại các trường đại học nói chung trong việc thực hiện chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước..
Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào
tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng về quy mô và chất lượng đào tạo.
Phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong công tác phát triển
nguồn nhân lực của khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng nhằm
chỉ ra được nguyên nhân, từ đó đề xuất được những giải pháp, định hướng để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo, nâng cao hiệu quả công việc,
đáp ứng được những mục tiêu đề ra trong Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày
19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển nhân lực Việt
Nam thời kỳ 2011 – 2020.
7. Kết cấu của báo cáo thực tập
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
Nội dung báo cáo thực tập bao gồm 2 chương, 6 tiết.

3

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Cơ sở lý luận của đề tài nhằm làm rõ một số khái niệm cơ bản và sự cần
thiết, tầm quan trọng của công tác đào tạo - mà cụ thể trong báo cáo này
muốn nói tới đào tạo Sau đại học - đối với phát triển nguồn nhân lực, đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực (hay nguồn lực con người) được hiểu là tổng thể tiềm
năng lao động của một cộng đồng, một đất nước gồm dân số cả trong độ tuổi lao
động và ngoài độ tuổi lao động.
*Nguồn nhân lực được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh:
+ Nguồn nhân lực với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội
bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm
khuyết hoặc bị dị tật bẩm sinh).
+ Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã
hội là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này,
nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động.
+ Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp những cá nhân cụ thể tham
gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và tinh thần được
huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao gồm
những người trong độ tuổi lao động.
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về xác định quy mô nguồn nhân lực,
song đều hiểu nguồn nhân lực nói lên khả năng lao động của xã hội.
*Thành phần chính của nguồn nhân lực gồm có:
- Nhân lực nông nghiệp;
4

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

- Nhân lực công nghiệp;

- Nhân lực hành chính;
- Nhân lực dịch vụ;
- Nhân lực kinh doanh;
- Nhân lực khoa học, công nghệ;
- Nhân lực văn hóa, nghệ thuật;
- Nhân lực lãnh đạo, quản lý.
*Nguồn nhân lực thường được xem xét về số lượng và chất lượng:
- Số lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua chỉ số quy mô và tốc
độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ số quy mô
và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì
quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, mối
quan hệ này chỉ được biểu hiện sau một thời gian nhất định.
- Chất lượng nguồn nhân lực được xem xét dựa trên trạng thái sức khỏe,
trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất.
+ Trạng thái sức khỏe không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật
mà còn thể hiện qua sự thoải mái về vật chất, tinh thần và xã hội. Sức
khỏe là tổng hòa các yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể
chất và tinh thần.
+ Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người
lao động thể hiện ở kiến thức phổ thông về tự nhiên, xã hội. Trình độ văn
hóa của dân số thường biểu hiện bằng mặt bằng dân trí của người dân
quốc gia đó. Một số tiêu chí như sau:
• Số lượng người biết chữ và chưa biết chữ
• Số người có trình độ tiểu học
• Số người có trình độ phổ thông cơ sở
• Số người có trình độ phổ thông trung học
• Số người có trình độ đại học và trên đại học
5

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng



Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

Trình độ văn hóa là một chỉ tiêu hết sức quan trọng, nó phản ánh chất
lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã
hội.
+ Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về
một chuyên môn nào đó được đào tạo ở các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý
một công việc chuyên môn nhất định. Do đó, trình độ chuyên môn của
nguồn nhân lực được đo bằng các chỉ tiêu sau:
◦ Tỷ lệ cán bộ trung cấp
◦ Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học
◦ Tỷ lệ cán bộ trên đại học
Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác phản ảnh chất lượng nguồn nhân lực
như: chỉ số phát triển con người, năng lực phẩm chất của người lao động.
*Về nhân lực trình độ cao, ta có thể hiểu như sau:
+ Có học giả cho rằng nhân lực trình độ cao theo nghĩa rộng là tất cả
những người lao động kể cả công nhân kỹ thuật lành nghề có trình độ cao, phải
có trình độ tương đương cao đẳng và kỹ sư thực hành mới được coi là trình độ
cao.
+ Trên thế giới còn có nhiều khái niệm lân cận “nguồn nhân lực cao cấp”
gồm những ai có trình độ giáo dục ít nhất từ bậc trung học phổ thông hoặc tương
đương trở lên, là những người nắm giữ vị trí có tầm chiến lược trong xã hội hiện
đại, đảm bảo vai trò lãnh đạo cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Theo cách tiếp cận từ cấu trúc hệ thống giáo dục, có thể hiểu rằng nhân
lực trình độ cao là những người đạt trình độ đào tạo thuộc hệ thống giáo dục đại

học (từ cao đẳng trở lên), nắm vững chuyên môn nghề nghiệp cả về lý thuyết và
thực hành, có khả năng làm việc độc lập, tổ chức triển khai những công trình
quan trọng với phương pháp khoa học, công nghệ tiên tiến.

6

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

+ Đặc điểm của nguồn nhân lực trình độ cao là đội ngũ này được tuyển
chọn và đào tạo bài bản qua các bậc học, có tinh thần làm chủ và sáng tạo,
thường được gọi là đội ngũ tri thức.
Nguồn nhân lực trình độ cao có vai trò làm nòng cốt, có khả năng khởi
xướng và dẫn dắt các đổi mới công nghệ, quy trình quản lý sản xuất, giữ vai trò
then chốt trong sự phát triển lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh hội nhập và
kinh tế tri thức, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao - nguồn vốn nhân lực quý
hiếm - là vấn đề trọng tâm của chiến lược phát triển ở mỗi quốc gia.
1.1.2. Khái niệm về giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là quá trình tạo lập và phát triển
năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện
bản thân mỗi con người; nó là kết quả tổng hợp của cả ba bộ phận cấu thành
gồm: Giáo dục, Đào tạo và Phát triển.
Năng lực của người lao động ở đây được thể hiện ở ba yếu tố: kiến thức,
kỹ năng và thái độ của người lao động đó ứng với mỗi mục tiêu công việc cần
một loại năng lực nhất định.
+ Kiến thức của người lao động: là những hiểu biết có được

hoặc do từng trải, hoặc nhờ học tập. Kiến thức gồm ba yếu tố: kiến
thức tổng hợp (những hiểu biết chung), kiến thức chuyên ngành (về một
lĩnh vực đặc trưng) và kiến thức đặc thù (do người lao động trực tiếp tham
gia hoặc được đào tạo mà có).
+ Kỹ năng của người lao động: là sự thành thạo, tinh thông về các
thao tác, động tác, nghiệp vụ trong quá trình hoàn thành một công việc cụ
thể nào đó. Những kỹ năng sẽ giúp cho người công nhân đó hoàn thành
tốt công việc của mình, quy định tính hiệu quả của công việc.
+ Thái độ của người lao động: cho thấy cách nhìn nhận của
người đó về vai trò, trách nhiệm, mức độ nhiệt tình đối với các công
việc, điều này sẽ được thể hiện qua các hành vi của họ.
7

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

Như vậy, trong ba yếu tố nói lên năng lực của nguời lao động thì thái độ
là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của người lao động với công việc
cũng như với tổ chức. Một người có thể có kiến thức sâu, có kỹ năng tốt nhưng
thái độ không đúng thì hiệu quả đóng góp sẽ không cao (ví dụ như thái độ bàng
quan, vô trách nhiệm, làm ăn qua loa, hám lợi thì chưa chắc đã làm tốt công
việc).
*Khái niệm giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực:
Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và
lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người...”1
Giáo dục nguồn nhân lực được hiểu là hoạt động học tập để chuẩn bị cho

con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang nghề mới, thích hợp
hơn trong tương lai.
Đào tạo là hoạt động học tập nhằm giúp cho con người có nhiều hiểu biết
về kỹ năng những tiêu chuẩn và yêu cầu nhất định, để làm cho người lao động
nắm vững các kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn để thực hiện các nhiệm vụ một
cách hiệu quả trong công tác của họ.
Từ đó, ta có thể hiểu đào tạo nguồn nhân lực như sau:
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về
chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một
công việc nhất định.
Trong hoạt động có tổ chức, đào tạo nguồn nhân lực được thực hiện trong
một thời gian nhất định và nhằm đem đến sự thay đổi nhân cách và nâng cao
năng lực của con người. Đào tạo: 1) là quá trình đào tạo con người chuẩn bị cho
tương lai để học có thể chuyển tới công việc mới trong một thời gian thích hợp;
2) là quá trình học tập nhằm mở ra cho mỗi cá nhân một công việc mới dựa trên
những định hướng tương lai của tổ chức. Theo quan niệm này, đào tạo nguồn

1

Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.9

8

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập


nhân lực nhằm trang bị cho người lao động kiến thức phổ thông, kiến thức
chuyên nghiệp, kiến thức quản lý...
Đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho sự thành công của tổ chức và sự
phát triển chức năng của con người. Việc đào tạo nguồn nhân lực khôn gchỉ
được thực hiện bên trong một tổ chức mà còn gồm những hoạt động khác bên
ngoài như: học việc, học nghề, hành nghề.
Trong thực tế, mọi người đều hướng tới phát triển đào tạo vì phát triển
đào tạo mở ra cho con người (ở đây là con người lao động) những kỹ năng mới
hoặc phát triển khả năng nghề nghiệp theo một hướng mới để họ có thể đảm
nhận và hoàn thành công việc dựa trên cơ sở định hướng tương lai của một đơn
vị công tác của một tổ chức, một doanh nghiệp. Qua đào tạo, người lao động có
sự hiểu biết về lý thuyết, về kỹ thuật sản xuất và kỹ năng để hoàn thành công
việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc về một nghề nghiệp chuyên môn nào
đó để n gười lao động có trình độ lành nghề.
- Nghề: là một hình thức phân công lao động, đòi hỏi kiến thức lý
thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công
việc nhất định.
- Chuyên môn: là hình thức phân công lao động sâu sắc hơn do sự
chia nhỏ của nghề. Do đó, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết và thói
quen trong phạm vi hẹp hơn, sâu hơn. Một nghề thường có nhiều
chuyên môn.
Kết quả của quá trình đào tạo nguồn nhân lực sẽ nâng cao chất lượng,
phát triển nguồn nhân lực.
*Khái niệm phát triển nguồn nhân lực:
Phát triển là quá trình biến đổi, hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ
hẹp đến rộng, từ thấp đến cao; là quá trình học tập nhằm mở ra cho cá nhân công
việc mới dựa theo định hướng tương lai của tổ chức.

9


Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

Có nhiều cách hiểu về phát triển nguồn nhân lực như sau:
- Phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm chuẩn bị cho nhân viên
theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển.
- Phát triển nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về
chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động nhằm đảm nhận được công việc nhất
định.
- Phát triển nguồn nhân lực là truyền đạt các kiến thức, thay đổi quan
điểm, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động trong tương lai.
- Quan niệm của Tổ chức Giáo dục – khoa học và văn hóa của Liên hợp
quốc (UNESCO): Phát triển nguồn nhân lực được đặc trưng bởi toàn bộ sự lành
nghề của dân cư, trong mối quan hệ phát triển của đất nước.
- Quan niệm của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO): Phát triển con người một cách có hệ thống vừa là mục tiêu vừa là đối
tượng của sự phát triển của một quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh kinh tế và
khía cạnh xã hội. Như nâng cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả
năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua giáo dục, đào tạo nghiên
cứu và hoạt động thực tiễn.
- Quan niệm của Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Liên hợp quốc
(FAO): Sự phát triển nguồn nhân lực như một quá trình mở rộng các khả năng
tham gia hiệu quả vào phát triển nông thôn, bao gồm cả tăng năng lực sản xuất.
- Quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Phát triển nguồn nhân
lực, bao hàm một phạm vi rộng lớn hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh ngành
nghề, hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở nhận

thức rằng: con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới có được
việc làm hiệu quả, cũng như những thỏa mãn về nghề nghiệp và cuộc sống cá
nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong quá
trình sống, làm việc, nhằm đáp ứng kỳ vọng của con người.

10

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

Như vậy, việc phát triển nguồn nhân lực thực chất là để tìm cách nâng cao
chất lượng của nguồn nhân lực đó. Nói cách khác, nếu tăng quy mô là tăng số
lượng nguồn nhân lực thì phát triển nguồn nhân lực là quan tâm đến tăng chất
lượng của nguồn nhân lực đó.
1.2. Một số tư tưởng của C.Mác, P.Ăngghen, I.V.Lênin về giáo dục,
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Con người là đại diện chính cho lực lượng sản xuất vật chất và lĩnh vực
kinh tế và vì vậy nó là động lực chủ yếu của tiến bộ xã hội. Mặc dù khoa học
cùng với những thành tựu công nghệ, những tư tưởng tiên tiến cũng đóng một
vai trò quan trọng, tác động mạnh đến sự phát triển xã hội nhưng xét đến cùng
mọi thành tựu đó cũng đều do con người sáng tạo mà thành. Bởi lẽ, thông qua
hoạt động thực tiễn của con người, thông qua sự tác động của nó đến quá trình
sản xuất và thông qua trình độ hiểu biết khoa học của người lao động thì các tiến
bộ khoa học kỹ thuật mới được đưa vào thực tiễn. Bởi vì lợi ích kinh tế luôn là
động lực phát triển quan hệ sản xuất nên lực lượng sản xuất theo đó cũng phải
có những thay đổi tích cực về mặt nhận thức để thúc đẩy xã hội phát triển.

Nói về quan hệ giữa trình độ lao động với sự phát triển xã hội ta phải kể
đến quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất.
1.2.1. Nội dung Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
*Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài
người. Đó là kết quả hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình tác động
vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển
của chính mình.

11

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Trong đó,
tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Nếu như đối
tượng lao động là một phần của giới tự nhiên được con người chuyển hoá và
sáng tạo nhằm không ngừng mở rộng khả năng sản xuất thì tư liệu lao động
trong đó công cụ lao động được coi là “Hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản
xuất” là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người. Tuy nhiên, tư liệu
lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng
kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và năng lực của mình đã
chế tạo ra tư liệu lao động và sử dụng nó để thực hiện sản xuất. V. I. Lênin từng

viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người
lao động”.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. Sự
hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí tuệ, sự hiểu biết và kinh nghiệm
của con người. Ngược lại, con người cùng với tri thức khoa học không ngừng
sáng tạo ra các tư liệu lao động mới nhằm hoàn thiện kỹ thuật và phương pháp
sản xuất. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư
liệu lao động thích ứng với bản thân con người, với sự phát triển văn hoá, khoa
học, kỹ thuật của mình.
Năng suất lao động xã hội là thước đo trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Đồng thời, xét đến cùng nó là nhân tố quan trọng nhất cho mọi sự
thắng lợi của một trật tự xã hội mới.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra bước nhảy
vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Khoa học thực sự trở thành một lực lượng sản
xuất trực tiếp, đóng vai trò quan trọng. Thực chất của cuộc cách mạng này là mở
ra một kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hoá với việc phát triển và ứng dụng
điều khiển học tự động và vô tuyến điện tử. Khoa học trở thành điểm xuất phát
cho những biến đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuất, tạo ra những ngành sản xuất
mới, kết hợp với khoa học thành một thể thống nhất, đưa đến những phương
12

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

pháp công nghệ tiên tiến đem lại hiệu quả cao. Việc phát hiện, khai thác và chế
tạo các nguồn năng lượng mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời,

hay như sự thay thế dần người lao động trong sản xuất bằng tự động hóa và
người máy đã tạo ra sự biến đổi lớn trong chức năng của người sản xuất. Dần
dần con người không còn phải thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ
yếu là sáng tạo và điều khiển quá trình đó một cách chủ động: tri thức khoa học
trở thành một tất yếu trong hoạt động của người sản xuất thay cho thói quen và
kinh nghiệm thông thường. Tri thức khoa học được vật chất hoá, được kết tinh
vào mọi nhân tố của lực lượng sản xuất từ đối tượng lao động, tư liệu lao động
đến kỹ thuật, phương pháp công nghệ và nó được gọi là “Khoa học hoá trong
sản xuất”.
Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà cấu thành lực
lượng sản xuất cũng thay đổi. Lực lượng lao động không chỉ bao gồm lao động
chân tay, mà còn bao gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và những cán bộ khoa học. Để
đạt mục tiêu kinh tế nhất và sự tiến bộ xã hội thì việc nâng cao dần trình độ của
người lao động là nhu cầu cấp thiết hiện nay.
*Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất
của xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ chúng tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức của con người. Quan hệ sản xuất bao gồm những
mặt cơ bản sau:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ tổ chức quản lý.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bởi lẽ

13

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng



Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những
tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết và phân bố như thế nào.
Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong
một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị trong
mỗi hình thái kinh tế - xã hội quyết định tính chất và bộ mặt hình thái kinh tế xã hội ấy. Vì vậy, khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái xã hội
nào thì không chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà còn phải
xét đến tính chất của quan hệ sản xuất.
*Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành
quy luật xã hội.
* Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
Tính chất của lực lượng sản xuất do tính chất của tư liệu sản xuất và của
lao động quyết định. Tính chất cá nhân thể hiện ở sự kết hợp giữa sử dụng công
cụ thủ công với hoạt động riêng lẻ của con người, trong khi tính chất xã hội lại
là sự hợp tác của nhiều người cùng với các thiết bị máy móc để hoàn thành một
sản phẩm.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao
động, của kỹ năng lao động, công nghệ sản xuất, trình độ phân công lao động xã
hội. Ngày nay, trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện rõ ràng nhất qua
trình độ phát triển của phân công lao động.
*Quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi, phát triển được quyết định bởi
lực lượng sản xuất:
Trong quá trình sản xuất, con người không ngừng sáng tạo và cải thiện

công cụ lao động cũng như điều kiện sản xuất để giảm thiểu chi phí sản xuất và
tối đa hóa lợi nhuận. Cùng với sự biến đổi này thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ
14

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

năng sản xuất và kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ theo. Lực lượng
sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất trong khi đó thì quan
hệ sản xuất lại tương đối ổn định, có khuynh hướng bảo thủ hơn. Lực lượng sản
xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức xã
hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết
định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung thay đổi trước sau
đó hình thức mới biến đổi theo. Tất nhiên trong quan hệ với nội dung, hình thức
không phải là mặt thụ động mà nó cũng có tác động trở lại đối với sự phát triển
của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình
thành và biến đổi sao cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Tuy vậy, tất yếu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ
nảy sinh. Bởi lẽ khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan
hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa sẽ trở thành chướng ngại đối với
sự phát triển và vì vậy quan hệ sản xuất cũ bị phá vỡ, quan hệ sản xuất mới sẽ
nảy sinh để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Sự hình thành, biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã

hội, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ
quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì
nó quy định mục đích của sản xuất, hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý
xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người
lao động được hưởng. Do đó nó tác động trực tiếp vào đúng nhu cầu kinh tế của
người lao động- lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội; nó tạo ra những điều
kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, học tập nâng
cao trình độ chuyên môn, hợp tác và phân công lao động. Tuy nhiên, không nên
hiểu quan hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu. Mỗi kiểu quan
15

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm cả 3 mặt: quan hệ sở
hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó quan hệ quan
hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát
triển sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động
của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất:
Công xã nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã
hội Chủ nghĩa.
1.2.2. Nội dung về mối quan hệ giữa con người và xã hội:
Trong lịch sử tư tưởng triết học có rất nhiều quan điểm khác nhau về con
người. Quan điểm duy tâm giải thích con người từ sự sáng tạo của thần thánh

hoặc ý niệm trừu tượng siêu nhiên, quan điểm duy vật siêu hình lại có khuynh
hướng tìm hiểu con người từ góc độ tộc loại sinh học với những ham muốn bản
năng, còn quan điểm duy vật lịch sử cho rằng con người là một thực thể thống
nhất của sinh học và xã hội là đưa ra tầm nhìn khái quát nhất về con người.
* Con người là một thực thể sinh học:
Nói đến yếu tố sinh học ở đây là ta muốn nói đến các yếu tố hữu sinh, hữu
cơ, cái làm cho con người hình thành và hoạt động như một cá thể sống. Nói
cách khác đó chính là cơ thể con người với bản chất tâm sinh lý, ý thức khác
biệt hẳn so với giới động vật.
* Con người là một thực thể xã hội:
Yếu tố xã hội là tất cả những mối quan hệ, những quy định xã hội tạo nên
cá nhân con người. Sự hình thành bản chất xã hội của con người chính là thông
qua lao động sản xuất. Các Mác từng nói: “Bản thân con người bắt đầu bằng sự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình”2. Bởi vì:
2

C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập (1995), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr.29

16

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

- Lao động là nguồn gốc của nền văn minh vật chất và tinh thần.
- Lao động là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý thức.

- Trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất,
phân công và phân phối sản phẩm.
Nói như vậy để thấy rằng, xã hội không phải là thực thể tồn tại độc lập
bên ngoài cái bản tính sinh học của con người mà xã hội là phương thức (hình
thức) cho con người thỏa mãn những nhu cầu sinh học.
* Quan hệ biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội:
Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra mối quan hệ giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội trong con người. Ông viết: “Bàn tay không chỉ là khí quan dùng
để lao động mà còn là sản phẩm của lao động” và “Trước hết là lao động; sau
lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu
đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển
thành bộ óc con người”3. Đến khi C.Mác vạch ra luận điểm: “Bản chất con
người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”
thì Lênin cũng thừa nhận yếu tố xã hội là cái thường xuyên tác động và có ảnh
hưởng lớn đến bản chất và sự phát triển của con người. Lênin không tán thành
quan điểm cho rằng mọi người đều giống nhau về mặt sinh học, có chăng chỉ là
bình đẳng xã hội. Bởi lẽ: “Thực hiện một sự bình đẳng về sức lực và tài năng
của con người thì đó là một điều ngu xuẩn. Nói tới bình đẳng thì đó là sự bình
đẳng xã hội chứ quyết không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực cá nhân”4.
Con người là một hệ thống hoàn chỉnh trong đó mối tương tác qua lại giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội được thể hiện rõ. Con người phải lao động để
duy trì sự tồn tại và thoả mãn các nhu cầu sinh học (nhu cầu tự nhiên) của mình,
đồng thời không ngừng hoàn thiện mình trước sự phát triển của xã hội nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh học ngày càng tăng. Chính vì vậy, bản chất của con người
3
4

C. Mác và Ph. Ănggen: Toàn tập (1995), NXB chính trị quốc gia Hà Nội, tập20, tr.646
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ Mátxcơva 1986, tập 24, tr.440


17

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

cũng không phải là cái đã sinh ra một lần là xong mà nó là quá trình con người
tự hoàn thiện mình để thích nghi và cải thiện xã hội. Một sự ngưng trệ trong
nhận thức, cũng như quan điểm bảo thủ cứng nhắc của con người trước sự thay
đổi chóng mặt của giới tự nhiên sẽ chỉ làm cho con người bị đào thải và loại bỏ
khỏi xã hội đó. Việc nhận thức đúng đắn chiến lược giáo dục, đào tạo con người
trong thời đại mới có ý nghĩa tích cực cho cuộc sống của con người và cho sự
tiến bộ xã hội.
1.3. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn
đề giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Tuy có sự khác nhau về mặt địa lý, trình độ phát triển nhưng các nước
trên thế giới ngày nay đang bị cuốn hút vào cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại. Tri thức khoa học xâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội và
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Hàm lượng chất xám trong sản phẩm lao
động ngày càng cao, khoa học trở thành nguồn tăng trưởng kinh tế, nền sản xuất
vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc. Tình hình
đó vừa tạo ra thời cơ để rút ngắn quá trình phát triển, vừa đặt ra những thách
thức gay gắt đối với những quốc gia đang còn lạc hậu về kinh tế. Với đặc điểm
nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ
qua chế độ Tư bản chủ nghĩa (TBCN), nên ngay từ đầu chúng ta đã gặp rất
nhiều khó khăn. Như V.I.Lênin viết: “Cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu

dài từ CNTB lên CNXH vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời
gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống, và vì phải trải qua một cuộc sống đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể
thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư
sản. Bởi vậy, C.Mác có nói đến cả một thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kì quá
độ từ CNTB lên CNXH”
Hàng loạt những thách thức đang đặt ra đối với chúng ta là làm sao vừa
phát triển đất nước đi đúng con đường CNXH, vừa đưa đất nước đạt được mục
18

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá một cách nhanh nhất. Đồng thời phải biết
phát huy những lợi thế đất nước, tận dụng mọi tiềm lực để đạt trình độ công
nghệ tiên tiến, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ
biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ. Nhu cầu cấp thiết đó đã
đặt ra cho Đảng ta ngay từ những năm đầu phát triển đất nước là: “Cần chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ,
tạo ra năng suất lao động xã hội cao” và để đạt được mục tiêu đó thì “Cùng với
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Thực tiễn sản xuất ở nước ta trong những năm vừa qua còn nhiều yếu kém

là do chưa làm chủ được bí quyết công nghệ, trình độ công nhân còn chưa cao
và vì vậy tuy có thiết bị hiện đại, có dây chuyền tiên tiến nhập về, nhưng sản
phẩm làm ra vẫn không đạt yêu cầu chất lượng như mong muốn, công suất thiết
bị máy móc sử dụng ở mức còn quá thấp, chưa tận dụng được mọi tính năng. Để
làm ra những sản phẩm được thị trường chấp nhận, có sức cạnh tranh ngày một
cao, thì việc trang bị dây chuyền thiết bị tốt thôi chưa đủ mà còn phải có những
kỹ sư, công nhân có tay nghề cao, nắm được bí quyết công nghệ. Đồng thời phải
có một bộ máy quản lý năng động đủ sức nắm bắt nhu cầu biến động của thị
trường, có khả năng nhanh chóng tổ chức lại dây chuyền sản xuất linh hoạt, phù
hợp với yêu cầu khách hàng để chế tạo ra những sản phẩm mới. Điều này đặc
biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà công nghệ đã thực sự trở thành
nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước
và thế giới.
Trong điều kiện cách mạng công nghệ hiện nay, sự đẩy nhanh về số lượng
của nguồn lao động đơn giản hoặc tay nghề thấp sẽ ngày càng mất dần ý nghĩa
19

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

của nó và lợi thế sẽ thuộc về những quốc gia nào có nguồn nhân lực trí tuệ cao,
có kỹ năng vững vàng, có khả năng sáng tạo theo kịp sự phát triển của khoa học
công nghệ hiện đại. Vì vậy, trong các kỳ Đại hội, Đảng và Nhà nước ta luôn
coi Giáo dục, Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực là khâu then chốt, là điều
kiện cần để đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo và vững mạnh trên con đường
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước.

Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII có đoạn
viết: “Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối
với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Nguồn
lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất
tốt đẹp được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn
liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại. Giáo dục phải làm tốt nhiệm vụ
đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học công
nghệ”. Chính với quan niệm này, từ lâu Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện
mục tiêu giáo dục “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” và
coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển xã hội chứ không đơn thuần là đầu tư
cho phúc lợi xã hội.
Một trong những ưu thế của Việt Nam là nguồn nhân lực dồi dào, tỷ lệ lao
động nhóm trẻ cao (tỷ lệ lao động từ 18-34 tuổi chiếm khoảng 25% lực lượng
lao động). Tuy là nước có mức thu nhập Quốc dân bình quân đầu người thấp
(400 USD) nhưng trình độ học vấn và dân trí của Việt Nam lại khá cao. Hiện
nay, tỷ lệ dân số biết chữ chiếm khoảng 94%, tỷ lệ lao động biết chữ khoảng
97%, số năm đi học trung bình là 7,3; lao động Việt Nam có truyền thống cần
cù, sáng tạo và đang từng bước được giải phóng; giá công lao động lại khá thấp.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực Việt Nam nhìn chung sức khỏe còn hạn chế, đa số
lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật dẫn đến năng suất lao động
thấp. Đến năm 2002 mới có 25% lao động qua đào tạo, trong đó 15,5% được
đào tạo nghề, thiếu nghiêm trọng lao động trình độ cao.
20

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập


Để đánh giá ưu thế cạnh tranh của nguồn nhân lực, các tổ chức quốc tế
dựa vào các chỉ số đánh giá chất lượng hệ thống giáo dục (vì Giáo dục và Đào
tạo là chìa khóa để nâng cao chất lượng lao động). Đó là các chỉ số đánh giá
mức độ sẵn có lao động sản xuất, lao động hành chính, cán bộ quản lý, lao động
thành thạo công nghệ có chất lượng cao và mức độ thành thạo tiếng Anh. Nếu
điểm 10 là điểm cao nhất thì chỉ số tổng hợp của Việt Nam là 3,79 cụ thể mức
độ sẵn có lao động sản xuất là 3,25 điểm; đối với lao động hành chính là 3,50
điểm; đối với lao động quản lý là 2,75 điểm; sự thành thạo tiếng Anh là 2,62
điểm và lao động thành thạo công nghệ cao là 2,50 điểm. Trong khi chỉ số tổng
hợp ở Hàn Quốc là 6,91; Trung Quốc 5,73; Malayxia là 5,59.5
So với quốc tế, mặc dù Việt Nam có giá công lao động thấp, tuy nhiên lợi
thế này đang mất dần do năng suất lao động không cao, quản lý còn yếu kém. So
với các nước, năng suất lao động của Việt Nam khoảng 743USD một lao
động/năm, thấp hơn cả Bangladesh (1.711USD 1 lao động/ năm), Trung Quốc
(2.885 USD 1 lao động/ năm), chỉ bằng 3,7% Thái Lan, 0,91% Mỹ; 0,8% Nhật
Bản. Đội ngũ cán bộ quản lý thiếu kinh nghiệm, non kém về trình độ. Chính vì
nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn Nhân lực trong thời kỳ chuyển đổi nền
kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta luôn coi “Vốn con người” là yếu tố
quyết định nhất của sự phát triển.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định rõ mục tiêu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng để đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, chúng ta sẽ tiến theo con
đường công nghiệp hoá rút ngắn, trên cơ sở kết hợp linh hoạt và hợp lý những
bước đi tuần tự với những bước đi nhảy vọt, đặc biệt chú trọng những ngành
5


Nguồn dự án hỗ trợ kỹ thuật kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục bậc trung học

21

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

mũi nhọn như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới.
Tuy nhiên, nếu không có nguồn nhân lực tương xứng thì nước ta sẽ tự biến mình
thành bãi thải công nghệ của các nước phát triển và ngay cả những thiết bị công
nghệ tối tân nhất cũng không thể phát huy hết tác dụng. Do vậy, để đảm bảo cho
đất nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các
văn kiện của Đại hội lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo
được coi là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp Công
nghiệp hoá, Hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, phát triển
khoa học công nghệ cùng với phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực thúc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Đặc biệt, việc “Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm
là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ” đã được xác định là một trong ba
khâu đột phá then chốt để làm chuyển động toàn bộ tình hình nền kinh tế - xã
hội Việt Nam.
Trong Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020
đã chỉ rõ: “Mục tiêu tổng quát phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020
là đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát

triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ năng
lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến
trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế
giới.”

22

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


Nguyễn Ánh Hồng Minh

Báo cáo thực tập

CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TẠI KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC XÂY DỰNG
2.1. Giới thiệu khái quát về khoa Đào tạo Sau đại học của trường Đại
học Xây Dựng Hà Nội
*Giới thiệu về trường Đại học Xây dựng:
Trường Đại học Xây dựng được thành lập năm 1966 theo Quyết định số
144/CP ngày 08/08/1966 của Hội đồng Chính phủ, trên cơ sở khoa Xây
dựng, trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Quá trình phát triển của nhà trường được chia thành 3 thời kỳ:
+ Từ 1956-1966: Thời kỳ Khoa Xây dựng trong trường Đại học Bách
Khoa (Qụân Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội) tiền thân của trường Đại
học Xây dựng ngày nay.
+ Từ 1966-1983: Thời kỳ thành lập và sơ tán ở nhiều địa điểm ngoài Hà
Nội.
+ Từ 1983-nay: Thời kỳ ổn định và phát triển tại Hà Nội. Cơ sở chính số

55 đường Giải Phóng, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng và một số
cơ sở khác thuộc Hà Nội (Cổ Nhuế, Phúc Xá, Bách Khoa).
Đến nay, nhà trường cơ bản đã tạo dựng được cơ sở vật chất hiện đại, đáp
ứng yêu cầu về quy mô và chất lượng đào tạo của một trường đại học. Nhà
trường đã thiết lập quan hệ quốc tế với hơn 30 trường đại học và các tổ chức
quốc tế ở châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Úc. Các quan hệ với các tổng công ty
xây dựng, đầu tư trong nước cũng đang từng bước được thiết lập. Điều nay đã
mở ra các cơ hội phát triển, hình thành mũi nhọn đào tạo và nâng cao vị thế của
nhà trường trong xã hội và quốc tế.
Với đội ngũ với 948 cán bộ viên chức, trong đó có 740 cán bộ giảng dạy
và 208 cán bộ hành chính, theo chức danh và trình độ có 27 giáo sư, 91 phó giáo
23

Phát triển nguồn nhân lực tại khoa Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Xây dựng


×