Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

chuyên đề một số vấn đề chung về công tác nghiên cứu dư luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.91 KB, 12 trang )

Chuyên đề
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU DƯ LUẬN XÃ HỘI
1. Một số vấn đề lý luận về dư luận xã hội
1.1. Khái niệm
Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng đời sống xã hội quen thuộc mà mỗi
cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng ngày, thường phải
quan tâm và tính toán đến. Phần đông các nhà nghiên cứu định nghĩa DLXH là sự
phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội đối với các vấn đề
mà họ quan tâm. Có thể liệt kê ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về dư luận xã hội
nhưng khái niệm về dư luận xã hội sau đây tương đối phù hợp với thực tiễn Việt
Nam hiện nay: “Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn
đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự, có liên quan đến lợi ích, các mối quan tâm
của công chúng”.
* Một số lưu ý:
- Dư luận xã hội như là sản phẩm của ý thức xã hội thể hiện trên các mặt
nhận thức, cảm xúc, ý chí (đôi khi cả trong hành động). Mỗi luồng ý kiến là một tập
hợp các ý kiến cá nhân giống nhau; Dư luận xã hội có thể bao gồm nhiều luồng ý
kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau; Luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại đa số, đa
số, nhiều ý kiến) hoặc hẹp (một số ý kiến).
- Khách thể của dư luận xã hội là những sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã
hội và gắn với lợi ích của các nhóm xã hội. Chỉ có những sự kiện, hiện tượng, vấn
đề xã hội có tính thời sự, liên quan đến lợi ích, các mối quan tâm hiện có của nhiều
người mới có khả năng tạo ra dư luận xã hội.
- Chủ thể của dư luận xã hội là các tầng lớp nhân dân, những người có liên
quan hoặc có mối quan tâm đến các sự kiện hiện tượng nói trên.
- Phương thức thể hiện của dư luận xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức: công
khai hoặc ngấm ngầm không công khai. Xét về khía cạnh nhận thức, dư luận không
tuân theo qui tắc nghiêm ngặt của nhận thức chân lý, trong dư luận luôn có cái đúng
và cái sai.
* Phân biệt dư luận xã hội với tin đồn:
- Tin đồn là dạng thông tin không chính thức (thường là bịa đặt) được lan


truyền từ người này sang người khác. Trong quá trình lan truyền, luôn có sự thêm
thắt, thêu dệt, cường điệu hóa. Tin đồn loang càng xa, nội dung của nó càng khác
với nội dung ban đầu.

1


+ Đặc điểm tin đồn: Khó kiểm chứng; khó xác định được điểm xuất phát ban
đầu; người nhận thông tin đồng thời cũng là người phát tin; thường mang tính giật
gân, mới lạ, kích động; gắn với động cơ, mục đích nhất định của người phát tin.
+ Nguồn thông tin ban đầu của tin đồn: Loại 1: Thông tin bắt nguồn từ sự
kiện, hiện tượng, tin tức không có thật, hư cấu, bịa đặt; Loại 2: Thông tin bắt nguồn
từ sự kiện, hiện tượng, tin tức có thật nào đó, nhưng đã bị làm méo mó (thêm thắt,
thêu dệt, cường điệu hoá…) bởi người phát tin.
+ Sức mạnh của tin đồn: R = I.A
R: Sức mạnh của tin đồn
I: Tầm quan trọng của vấn đề đối với mối quan tâm của cá nhân
A: Tính không xác định của bằng chứng gắn với nguồn gốc xuất hiện của nó
Sức mạnh của tin đồn đôi khi “đánh bại tin thật”; “thành thật”.
+ Tác động tiêu cực của tin đồn: Gây mất ổn định an ninh, trật tự; làm mất
hoặc suy giảm uy tín cá nhân và tổ chức; phá hoại kinh tế, ảnh hưởng đến hoạt động
kinh tế…
+ Kênh phổ biến tin đồn: Truyền miệng; mạng xã hội; báo chí…
- Giữa tin đồn và DLXH có những điểm khác nhau cơ bản sau đây:
1) Nguồn thông tin: Nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất phát từ
người khác (tôi nghe người này nói, người kia nói); nguồn thông tin của DLXH lại
xuất phát từ chính là bản thân người phát ngôn (theo ý kiến của tôi thì…);
2) Tin đồn càng loang xa thì càng có nhiều biến thái, do nó không ngừng
được thêm thắt. DLXH, lúc đầu thường rất phân tán, sau đó, thông qua sự trao đổi,
tranh luận, tính thống nhất của DLXH thường tăng lên;

3) Tin đồn thường có tính “thất thiệt” (mặc dù có những tin đồn về cơ bản là
sự thật), trong khi đó, DLXH phản ánh trung thực suy nghĩ, tình cảm, thái độ của
chủ thể.
Giữa DLXH và tin đồn không có sự ngăn cách không vượt qua được. Tin đồn
có thể làm nảy sinh DLXH khi trên cơ sở tin đồn người ta đưa ra những phán xét,
đánh giá bày tỏ thái độ của mình. Tin đồn thường xuất hiện khi người ta thiếu hoặc
thừa thông tin.
1.2. Các thuộc tính của dư luận xã hội
- Khuynh hướng: Thái độ của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện tượng,
quá trình xã hội có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định: tán thành, phản
đối hay băn khoăn, lưỡng lự, chưa rõ thái độ. Cũng có thể phân chia dư luận theo
các khuynh hướng như tích cực, tiêu cực; tiến bộ, lạc hậu, "cấp tiến", "bảo thủ"....

2


- Cường độ: Thể hiện “sức căng” của mỗi khuynh hướng. Ví dụ, khuynh
hướng phản đối có thể biểu hiện ở các sức căng khác nhau: phản đối gay gắt; phản
đối, nhưng không gay gắt….
- Sự thống nhất và xung đột của dư luận xã hội: Theo các nhà xã hội học, đồ
thị phân bố dư luận xã hội hình chữ U (có hai luồng ý kiến chính, trái ngược nhau,
tỷ lệ ủng hộ mỗi luồng ý kiến này ngang bằng hoặc xấp xỉ nhau) biểu thị sự xung
đột, hình chữ L (trong số các luồng ý kiến, nổi lên một luồng ý kiến được đa số ủng
hộ) biểu thị sự thống nhất cao .
- Tính bền vững: Một số tác giả thường khẳng định dư luận xã hội có tính dễ
biến đổi. Tuy nhiên khẳng định này mới chỉ đúng một phần. Có những dư luận xã
hội chỉ qua một đêm là thay đổi, nhưng cũng có những dư luận hàng chục năm
không thay đổi.
- Sự tiềm ẩn: Dư luận xã hội về những vấn đề của cuộc sống xã hội có thể ở
trạng thái tiềm ẩn, không bộc lộ bằng lời.

1.3. Cơ sở nhận thức và cơ sở xã hội của dư luận xã hội
- Cơ sở nhận thức của dư luận xã hội: Nội dung và sắc thái của dư luận xã hội
được quy định trước hết bởi trình độ hiểu biết của công chúng, nhóm xã hội. Sự hiểu
biết nhiều hay ít, sâu sắc hay không sâu sắc của công chúng, nhóm xã hội đối với
vấn đề, hiện tượng, sự kiện quyết định sự đánh giá đúng hay sai của công chúng,
nhóm xã hội đối với vấn đề, sự kiện, hiện tượng đó. Một trong những yếu tố nhận
thức có ảnh hưởng khá phổ biến đến sự phán xét của dư luận xã hội, đó là khuôn
mẫu tư duy xã hội. Khuôn mẫu tư duy xã hội là những quan niệm, suy lý, phán xét
khái quát, giản đơn, hữu hạn nhưng có tính phổ biến và tương đối bền vững trong
một cộng đồng xã hội.
- Cơ sở xã hội của dư luận xã hội: Các yếu tố xã hội, trước hết là lợi ích
nhóm, tầng lớp, giai cấp, quốc gia, dân tộc có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung và
sắc thái của dư luận xã hội. Trong một nhà nước mạnh, chính quyền và nhân dân
gắn bó với nhau, lợi ích quốc gia, dân tộc thường được coi trọng hơn các lợi ích
khác (cá nhân, nhóm, tầng lớp, giai cấp); trước các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã
hội, người ta thường lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng làm cơ sở để
đưa ra sự nhận xét, đánh giá, bày tỏ thái độ của mình. Trong một nhà nước yếu, dân
chủ không được coi trọng, pháp luật, kỷ cương bị buông lỏng, chủ nghĩa cá nhân
phát triển, người ta thường nhân danh lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng để đưa ra
ý kiến này, ý kiến kia, nhưng nếu phân tích kỹ thì không phải như vậy, lợi ích cá
nhân, cục bộ mới chính là căn cứ của các ý kiến đó. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều lợi ích khác nhau. Về bản chất, các lợi ích
này là thống nhất với nhau. Tuy nhiên, ngoài các lợi ích cá nhân, đặc thù hợp lý của
các cá nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội (các lợi ích gắn liền với lợi ích quốc
gia, dân tộc), các cá nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội có thể chạy theo các lợi
ích cá nhân, đặc thù cực đoan, có lợi cho mình nhưng đi ngược lại lợi ích của quốc
3


gia, dân tộc nói chung, của các cá nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội khác nói

riêng.
1.4. Cơ chế hình thành dư luận xã hội
* Các giai đoạn trong quá trình hình thành của dư luận xã hội:
Các nhà xã hội học thường coi quá trình hình thành dư luận xã hội gồm 4 giai
đoạn:
- Giai đoạn tiếp nhận thông tin
- Giai đoạn hình thành các ý kiến cá nhân
- Giai đoạn trao đổi ý kiến giữa các cá nhân
- Giai đoạn hình thành các luồng ý kiến chung (dư luận xã hội).
Trong giai đoạn đầu, thông tin về sự kiện, theo nhiều con đường khác nhau,
đuợc truyền đạt đến các cá nhân. Trong giai đoạn thứ 2, trên cơ sở nhận thức của
mình, các cá nhân bắt đầu đưa ra các ý kiến phán xét, đánh giá có thể rất khác nhau,
thậm chí đối lập nhau về sự kiện. Sự trao đổi, cọ sát ý kiến giữa các cá nhân trong
giai đoạn 3 sẽ dẫn tới sự hình thành các luồng ý kiến chung, hay nói cách khác, đó là
dư luận xã hội.
Tuy nhiên, theo các nhà tâm lý học, cơ chế hình thành dư luận xã hội không
đơn giản như vậy. Trong thực tế, sự hình thành dư luận xã hội thường diễn ra rất
nhanh. Khi có các thông tin về sự kiện, các phán xét giống nhau ở mọi người được
“bật ra” hầu như cùng một lúc, giống như phản ứng dây chuyền, không cần giai
đoạn tranh luận, trao đổi thông tin. Nền tảng của các phản ứng này là các khuôn
mẫu tư duy xã hội đã được định hình, tồn tại trong tiềm thức và gắn kết với tâm thế
xã hội.
* Các yếu tố tác động đến quá trình hình thành dư luận xã hội:
Tất cả các yếu tố có ảnh hưởng đến nhận thức, có liên quan đến lợi ích của
công chúng trước các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội, như chúng ta đã phân tích
ở mục 4 (Cơ sở nhận thức và cơ sở xã hội của dư luận xã hội), ít nhiều đều có tác
động đến quá trình hình thành dư luận xã hội. Một trong những yếu tố có tác động
mạnh đến quá trình hình thành dư luận xã hội là tác động của truyền thông, thông tin
trên báo chí.
Hiệu quả của truyền thông đến quá trình hình thành dư luận xã hội phụ thuộc

vào nhiều yếu tố như uy tín của nguồn thông tin; thời điểm phát tin (nhiều nghiên
cứu cho thấy, nguồn thông tin sớm nhất có tác động lớn nhất đến việc hình thành dư
luận xã hội, ai đưa ra thông tin sớm nhất, người đó dễ có khả năng làm chủ được dư
luận xã hội); liều lượng thông tin, cách thức thông tin…
Các yếu tố xã hội khác có thể có nhiều ảnh hưởng đến quá trình hình thành dư
luận xã hội là: gia đình, nhóm xã hội, tầng lớp, giai cấp, địa vị và uy tín xã hội...
4


1.5. Chức năng của dư luận xã hội
Theo các nhà nghiên cứu, dư luận xã hội có những chức năng cơ bản sau đây:
Chức năng đánh giá: Dư luận xã hội thể hiện thái độ phán xét đánh giá của
công chúng đối với các sự kiện, hiện tượng, sự vật, vấn đề cuộc sống. Dư luận xã
hội có vai trò quan trọng trong việc hình thành thang giá trị xã hội. Trên thực tế,
người ta thường chạy theo các giá trị mà dư luận xã hội đề cao.
Chức năng điều tiết các mối quan hệ xã hội: Dư luận xã hội rất nhạy cảm với
các hành vi xâm phạm lợi ích chung, lợi ích của toàn xã hội, nhất là hành vi của các
phần tử, các nhóm cực đoan, lên án kịp thời và gay gắt các hành vi này, làm cho cho
các cá nhân, các nhóm cực đoan phải “chùn tay”; dư luận xã hội cũng rất quan tâm
đến các hành vi có lợi cho toàn xã hội, kịp thời cổ vũ, các cá nhân, nhóm xã hội thực
hiện các hành vi này. Nhờ sự lên tiếng kịp thời, dư luận xã hội góp phần duy trì trật
tự xã hội, mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và xã hội cũng như giữa các nhóm xã
hội.
Chức năng giáo dục: Nhờ có uy tín lớn, sự khen chê, khuyên bảo của dư luận
xã hội có tác động rất mạnh đến ý thức và hành vi của con người, nhất là đối với các
thế hệ trẻ. Bằng sự khen, chê, khuyên can kịp thời đối với các hành vi phù hợp hoặc
không phù hợp với lợi ích, các giá trị xã hội, nhất là các giá trị đạo đức, luân lý, dư
luận xã hội có vai trò rất lớn trong việc giáo dục cho các thế hệ ý thức về sự phải trái, đúng - sai, thiện - ác, đẹp - xấu.
Chức năng giám sát: Dư luận xã hội có vai trò giám sát hoạt động của nhà
nước và các tổ chức xã hội, gây sức ép lớn đối với tệ tham nhũng, quan liêu, tắc

trách. Các quan chức tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ rất “ghét” báo chí, dư luận
xã hội vì báo chí, dư luận xã hội luôn “nhòm ngó” vào các công việc mờ ám của họ,
sẵn sàng lên án, tố cáo họ.
Chức năng tư vấn, phản biện: Trước những vấn đề nan giải của đất nước, dư
luận xã hội có thể đưa ra những khuyến nghị sáng suốt mà các cơ quan tham mưu
cho chính quyền có thể chưa nghĩ ra được. Dư luận xã hội cũng có khả năng đưa ra
các ý kiến phản biện xác đáng đối với các quyết định của các cơ quan đảng, chính
quyền, tổ chức chính trị - xã hội.
Chức năng giải toả tâm lý xã hội: Theo các nhà tâm lý học, sự bất bình, các
nỗi niềm oan ức của con người, nếu không được giãi bày, nói ra, sẽ không mất đi mà
lắng chìm xuống tầng vô thức trong tâm thức của con người và có thể trở thành
những mầm mống bệnh hoạn nghiêm trọng về tinh thần, đến một lúc nào đó sẽ bộc
phát thành những hành vi, phản ứng bất thường không thể kiểm soát được. Sự giãi
bày, bày tỏ thành lời có thể giải toả nỗi bất bình, uất ức của con người. Bị oan ức mà
nói ra được người ta sẽ cảm thấy nhẹ nhõm.
2. Vai trò, các nhiệm vụ của công tác nghiên cứu dư luận xã hội
2.1. Vai trò của công tác nghiên cứu dư luận xã hội
5


- Tham mưu cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý trong việc soạn thảo, ban
hành, tổ chức thực hiện quyết định; thông tin, tuyên truyền định hướng dư luận xã
hội
+ Nhờ phản ánh khách quan, trung thực và khả năng dự báo chính xác tình
hình tâm trạng, tư tưởng, thái độ, nguyện vọng của các tầng lớp xã hội trước các sự
kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội, nhất là các vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo,
quản lý đất nước, các báo cáo tổng hợp, phân tích tình hình dư luận xã hội là căn cứ
thông tin quan trọng phục vụ quá trình soạn thảo, ban hành, tổ chức thực hiện chủ
trương, quyết sách của các cơ quan lãnh đạo, quản lý đất nước. Các cơ quan lãnh
đạo, quản lý đất nước khó có thể ban hành được các chủ trương, quyết sách sát thực,

có sức sống, có tính khả thi nếu không nắm chắc được tâm trạng, tư tưởng của đối
tượng có liên quan đến các chủ trương, quyết sách đó. Công tác nghiên cứu dư luận
xã hội giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý giải đáp các câu hỏi như: các vấn đề bức
xúc mà thực tiễn đất nước (hoặc ở địa phương, ngành) đòi hỏi phải giải quyết là gì?
Các chủ trương, quyết sách dự định được ban hành (của cơ quan lãnh đạo, quản lý)
có được người dân ủng hộ không? Nếu không thì tại sao? Có cần dừng việc thông
qua không? Nếu không dừng thì cần có các biện pháp thông tin, tuyên truyền cụ thể
gì để tạo sự ủng hộ của nhân dân?...
+ Trên cơ sở lý luận về cơ chế hình thành dư luận xã hội và các thông tin cụ
thể về các băn khoăn, thắc mắc của nhân dân, công tác nghiên cứu dư luận xã hội có
khả năng đề xuất các giải pháp thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội
có hiệu quả.
- Góp phần củng cố và mở rộng nền dân chủ trong Đảng, trong xã hội
+ Tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên và nhân dân đóng góp ý kiến, tham gia
vào các công việc của Đảng, Nhà nước: việc tiếp xúc của các cộng tác viên nghiên
cứu dư luận xã hội với người dân để nắm bắt ý kiến của họ, nhất là các cuộc điều
tra, thăm dò dư luận xã hội là cơ hội để người dân bày tỏ chính kiến, tham gia ý kiến
đối với các công việc điều hành, quản lý đất nước của các cấp ủy đảng và chính
quyền, nâng cao ý thức làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của họ.
+ Phát huy vai trò phản biện xã hội, vai trò kiểm tra, giám sát của cán bộ,
đảng viên và nhân dân: khi người dân cảm thấy ý kiến của mình được lắng nghe,
được coi trọng thì trách nhiệm phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của họ cũng
được nâng cao. Nhân dân có “trăm tai, nghìn mắt” nên có thể nhìn rõ mọi vấn đề, sự
vật dưới nhiều góc độ. Sự phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của nhân dân giúp
các cơ quan lãnh đạo, quản lý kịp thời phát hiện những sơ hở, hạn chế, yếu kém
trong công tác lãnh đạo, quản lý của mình, trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các giải pháp
khắc phục.
- Góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nắm bắt tâm trạng, tư
tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân của các cấp ủy đảng


6


+ Cách nắm bắt tâm trạng, tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân mang tính
truyền thống lâu nay của các cấp ủy đảng thường là: tổng hợp phản ánh của cấp
dưới, các tổ chức chính trị - xã hội; trao đổi, tọa đàm, đối thoại trực tiếp với các đối
tượng; hội thảo...). Cách thức này có ưu điểm là dễ làm, ít tốn kém về thời gian,
nhân lực và tài chính, nhưng cũng có những hạn chế như: các thông tin thu được
thường không rõ về mặt định lượng, dễ mang tính chủ quan, nhất là trong bối cảnh
bệnh thành tích phát triển như hiện nay (các báo cáo dễ bị “vo tròn”, biểu hiện tâm
trạng, tư tưởng tích cực dễ bị “thổi phồng”, những vấn đề gai góc, phức tạp trong
tâm trạng, tư tưởng xã hội dễ bị bỏ qua).
+ Điều tra xã hội học về dư luận xã hội giúp khắc phục những hạn chế nêu
trên của việc nắm bắt tâm trạng, tư tưởng theo các phương pháp truyền thống.
2.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác nghiên cứu dư luận xã hội
- Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập đã coi việc nắm bắt
lòng dân (tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân) là một trong những công việc
quan trọng hàng đầu nhằm đề ra được các chủ trương, đường lối cách mạng phù hợp
lòng dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”.
- Từ năm 1982, Ban Bí thư đã quyết định thành lập Viện nghiên cứu dư luận
xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, trong đó có quy định về nhiệm vụ
và quyền hạn như: “Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội có nhiệm vụ tổ chức việc
nghiên cứu dư luận nhân dân đối với những vấn đề cơ bản của đất nước và những
vấn đề quan trọng có tính thời sự theo quan điểm Mác - Lênin; tổng hợp, phân tích
dư luận xã hội để báo cáo với các cơ quan Đảng và Nhà nước; tổ chức, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ thông tin viên, cộng tác viên của Viện về lý luận, nghiệp vụ. Viện
được trực tiếp quan hệ với các cấp ủy đảng, các ngành, các đoàn thể quần chúng để
tổ chức nghiên cứu dư luận xã hội”.
- Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VII) đã nêu

ra nhiệm vụ đối với công tác tư tưởng sau đây: “Nâng cao chất lượng thông tin nội
bộ và công tác tuyên truyền, coi trọng biện pháp điều tra dư luận xã hội”.
- Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VII) tiếp tục yêu
cầu: “Tổ chức điều tra dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết cho công tác lãnh
đạo, quản lý Nhà nước. Xây dựng luật về trưng cầu dân ý”.
- Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí
trước yêu cầu mới, tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng công tác nghiên cứu, điều tra xã
hội học, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ công tác tư tưởng".
- Năm 2009, Ban Bí thư khoá X đã ra Kết luận về Đề án tăng cường năng lực
điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội,
Ban Tuyên giáo Trung ương, trong đó nêu rõ: (1) Trên cơ sở Viện Nghiên cứu Dư
luận xã hội của Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương tăng
7


cường lãnh đạo, chỉ đạo, củng cố, kiện toàn tổ chức, làm rõ chức năng, nhiệm vụ
của Viện, bổ sung, tăng cường cho Viện những cán bộ có chất lượng, đủ phẩm chất
và trình độ chuyên môn để làm tốt nhiệm vụ; tăng cường sự phối hợp, hợp tác giữa
Viện với các viện, trung tâm nghiên cứu, điều tra xã hội học của Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh... để nâng cao
chất lượng hoạt động; (2) Đồng ý củng cố bộ phận điều tra, nắm bắt dư luận xã hội
của ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy ở các thành phố lớn, các tỉnh đại diện cho
các vùng trong cả nước.
- Kế hoạch 08-KH/TW, ngày 12/3/2012 của Bộ Chính trị khoá XI nhằm thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khoá XI) đã đề ra
nhiệm vụ “Đổi mới và nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội, tập hợp ý kiến
của cán bộ, đảng viên và nhân dân để tham khảo trước khi quyết định chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước”. Trên cơ sở này Ban Bí thư đã giao Ban Tuyên
giáo Trung ương thực hiện Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng điều tra dư luận
xã hội, tập hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân để tham khảo trước khi

quyết định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”.
- Ngày 18/8/1014, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 100-KL/TW về đổi
mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội,
trong đó nêu rõ: “Điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội là công việc quan
trọng và rất cần thiết nhằm nắm bắt, tập hợp kịp thời, sát thực tâm tư, tình cảm, ý
chí, nguyện vọng của Nhân dân về những vấn đề, sự kiện có tính thời sự trong nước
và thế giới, đặc biệt là đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;
giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý có thêm thông tin tham khảo trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; là một khâu quan trọng, cần thiết trong xây dựng, ban hành, tổ
chức thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước”.
2.3. Các nhiệm vụ của công tác nghiên cứu dư luận xã hội
* Các nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo TW:
- Nắm bắt, phân tích, tổng hợp và phản ánh nhanh dư luận của các tầng lớp
cán bộ, đảng viên và nhân dân trước những vấn đề, sự kiện quan trọng trong nước
và trên thế giới, đặc biệt là trước các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
- Tiến hành các cuộc điều tra xã hội học về dư luận xã hội phục vụ quá trình
hình thành, hoàn thiện và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách quan trọng
của Đảng và Nhà nước; định kỳ điều tra dư luận xã hội về hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị.
- Đề xuất các biện pháp định hướng, hình thành DLXH tích cực, tạo sự thống
nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong xã hội, thúc đẩy quá trình thực hiện các
8


chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tham gia đấu tranh
chống thông tin và quan điểm sai trái, thù địch.
- Trên cơ sở tổng kết thực tiễn nghiên cứu Dư luận xã hội của Việt Nam, tiếp

thu các thành tựu nghiên cứu dư luận xã hội của thế giới, phát triển khoa học nghiên
cứu và tác động dư luận xã hội, khoa học nghiệp vụ dư luận xã hội của Việt Nam;
đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác nghiên cứu dư luận xã hội cho
mạng lưới cộng tác viên dư luận xã hội và cán bộ làm công tác tuyên giáo các cấp;
đào tạo sau đại học chuyên ngành xã hội học, tâm lý học xã hội về dư luận xã hội.
- Quan hệ, hợp tác với các cơ quan điều tra, nghiên cứu dư luận xã hội của
các nước để học hỏi kinh nghiệm, các kỹ năng, kiến thức mới trong lĩnh vực điều
tra, nghiên cứu dư luận xã hội nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
Viện.
- Tổ chức công tác thông tin - tư liệu trên lĩnh vực dư luận xã hội; lưu giữ các
dữ liệu, thông tin dư luận xã hội theo đúng các quy định hiện hành; xuất bản các ấn
phẩm về dư luận xã hội.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng giám sát an ninh tư tưởng, chính trị của
các cuộc thăm dò dư luận xã hội do các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài
tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam.
* Các nhiệm vụ chủ yếu của các đầu mối nghiên cứu dư luận xã hội ở các
ban, ngành, đoàn thể và địa phương:
- Nắm bắt, phân tích, tổng hợp và phản ánh nhanh dư luận của các tầng lớp
nhân dân trước những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội quan trọng trong nước,
trong ngành, tại địa phương và trên thế giới, đặc biệt là trước các chủ trương, chính
sách của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp.
- Tiến hành các cuộc điều tra xã hội học về dư luận xã hội (trong phạm vi địa
phương, ngành, đoàn thể) phục vụ quá trình hình thành, hoàn thiện và thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách quan trọng của cấp ủy đảng, chính quyền ngành,
địa phương; định kỳ điều tra dư luận xã hội về hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị của địa phương.
- Đề xuất các biện pháp định hướng, hình thành DLXH tích cực, tạo sự thống
nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong xã hội, thúc đẩy quá trình thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và của ngành, địa
phương; tham gia đấu tranh chống thông tin và quan điểm sai trái, thù địch.

- Phối hợp với các cơ quan chức năng giám sát an ninh tư tưởng, chính trị của
các cuộc thăm dò dư luận xã hội do các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài
tiến hành trên địa bàn ngành, địa phương.
3. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu dư luận xã hội
Công tác nghiên cứu DLXH bao gồm: Điều tra, nắm bắt, nghiên cứu DLXH.
9


- Điều tra DLXH là hình thức nắm bắt thông tin DLXH bằng phương pháp
điều tra xã hội học.
- Nắm bắt DLXH là hình thức tập hợp thông tin DLXH không thông qua
phương pháp điều tra xã hội học. Hình thức nắm bắt DLXH rất đa dạng, bao gồm:
Nắm bắt qua mạng lưới cộng tác viên; qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua
việc lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân đối với các dự thảo văn kiện,
văn bản pháp luật…
- Nghiên cứu DLXH là những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về DLXH.
3.1. Đổi mới về nhận thức
Kết luận 100-KL/TW của Ban Bí thư chỉ rõ:
- Cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp cần nhận thức đầy đủ về vai trò, tầm
quan trọng của công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội; xác định đây
là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, nhất là của cấp uỷ và người đứng
đầu cấp uỷ đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương; cần quan tâm, chỉ
đạo, định hướng hoạt động, bố trí cán bộ, các điều kiện bảo đảm cho công tác này.
- Công tác dư luận xã hội phải bám sát thực tiễn xây dựng, ban hành và tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bám
sát những vấn đề, sự kiện mà Nhân dân quan tâm; thực hiện theo yêu cầu, đề nghị
của các cơ quan Đảng, Nhà nước để phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành
của cấp uỷ, chính quyền các cấp.
- Đối với các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế-xã hội quan
trọng có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, trước khi xây dựng, ban hành, triển khai

thực hiện và sau một thời gian tổ chức thực hiện phải tiến hành điều tra, nắm bắt,
nghiên cứu dư luận xã hội.
3.2. Đổi mới quy trình, phương pháp, cách thức tổ chức, lựa chọn nội dung
điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội
* Đổi mới, nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội:
- Nội dung điều tra dư luận xã hội cần bám sát việc xây dựng, ban hành và tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và quá trình cụ thể
hoá các chủ trương, chính sách đó tại địa phương, ngành, đoàn thể (nhất là các chủ
trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế-xã hội quan trọng, có ảnh hưởng sâu
rộng trong xã hội, địa phương, ngành, đoàn thể); những vấn đề, sự kiện được đông
đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm.
- Điều tra dư luận xã hội phải bảo đảm tính đại diện của các tầng lớp nhân
dân; bảo đảm tính xác thực, độ tin cậy, tính kịp thời của thông tin; khắc phục các
hạn chế, khiếm khuyết trong các khâu: chọn vấn đề điều tra; chọn hình thức điều tra;
xây dựng phiếu câu hỏi điều tra; chọn mẫu (đối tượng) điều tra; tập huấn điều tra
10


viên; triển khai trên thực địa; nhập dữ liệu, xử lý và phân tích số liệu; viết báo cáo.
Từ đó, nâng cao chất lượng công tác này. Cụ thể:
+ Chọn vấn đề điều tra: Cần chọn vấn đề trúng, có giá trị đối với công tác
lãnh đạo của các cấp ủy đảng.
+ Xây dựng phiếu câu hỏi điều tra: Các câu hỏi phải bảo đảm được các yêu
cầu về độ ổn định (câu hỏi phải rõ ý, không bị hiểu khác nhau, người trả lời phải trả
lời nhất quán nếu điều tra lặp lại...) và về độ hiệu lực (câu hỏi phải thu được những
thông tin cần thu thập).
+ Chọn đối tượng điều tra (mẫu điều tra): Đối tượng điều tra phải được lựa
chọn một cách thật khoa học, tuân thủ thật nghiêm ngặt các đòi hỏi khoa học về
cách lấy mẫu, chọn đối tượng điều tra… bảo đảm mẫu điều tra phải mang tính đại
diện cao.

+ Tập huấn điều tra viên: Các điều tra viên phải được tập huấn một cách bài
bản.
+ Triển khai trên thực địa: Các điều tra viên phải tuân thủ nghiêm ngặt yêu
cầu phải phỏng vấn đúng đối tượng theo mẫu điều tra đã được chọn.
+ Nhập dữ liệu, xử lý và phân tích số liệu: Các phiếu điều tra khi thu về phải
được hiệu chỉnh; người nhập dữ liệu phải thông thạo về cách nhập dữ liệu; các
chuyên gia xử lý số liệu phải có năng lực phân tích dữ liệu.
+ Viết báo cáo: Các báo cáo điều tra dư luận xã hội phải có tính tổng hợp, có
sự phân tích thấu đáo, phải đưa ra được các dự báo; đề xuất, kiến nghị cho công tác
thông tin tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội.
- Đa dạng hoá hình thức, phương pháp điều tra, thăm dò dư luận xã hội, kết
hợp các hình thức: điều tra chọn mẫu bằng phiếu hỏi tự điền; điều tra qua điện thoại;
điều tra qua thư điện tử; điều tra qua internet.
* Đổi mới, nâng cao chất lượng nắm bắt dư luận xã hội:
- Nâng cao chất lượng nắm bắt, nghiên cứu và phản ánh các thông tin dư luận
xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, chú trọng các luồng dư
luận có liên quan đến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; những vấn
đề, sự kiện được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm. Báo cáo nhanh
dư luận xã hội phải phản ánh khách quan, trung thực, kịp thời ý kiến của các tầng
lớp nhân dân. Chú trọng phân tích các luồng dư luận trong xã hội bằng những
phương pháp khoa học, chỉ ra căn cứ thực tế của các luồng dư luận, trên cơ sở đó,
đưa ra dự báo, đề xuất các giải pháp tuyên truyền, định hướng dư luận nhằm góp
phần tạo sự đồng thuận trong xã hội.
- Xây dựng, đổi mới cách thức tổ chức và duy trì hoạt động của mạng lưới
cộng tác viên dư luận xã hội theo hướng: Mạng lưới cộng tác viên phải có đại diện
của các giai tầng xã hội trên địa bàn với số lượng và cơ cấu phù hợp; hằng năm, tiến
11


hành rà soát, củng cố, kiện toàn mạng lưới cộng tác viên, bảo đảm chất lượng và

hợp lý về cơ cấu; kịp thời động viên, khen thưởng những cộng tác viên có nhiều nỗ
lực và đóng góp trong việc nắm bắt và phản ánh dư luận xã hội; chú trọng công tác
bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cộng tác viên.
- Đa dạng hoá hình thức, phương pháp nắm bắt, tổng hợp tình hình dư luận xã
hội, kết hợp các hình thức: qua mạng lưới cộng tác viên dư luận xã hội; qua các
phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước; qua báo cáo tình hình của các
địa phương, cơ quan, đơn vị; qua việc đi thực tế để nắm tình hình; qua Internet,
mạng xã hội.
* Đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học về dư luận xã hội:
- Nghiên cứu khoa học về dư luận xã hội phải chú trọng những kiến thức mới
có liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ công tác nghiên cứu dư luận xã hội, nhất là
cơ chế hình thành dư luận xã hội; cơ sở của dư luận xã hội; phương thức tác động
nhằm định hướng dư luận xã hội để nâng cao hiệu quả công tác này trong thực tế;
các phương pháp điều tra, thăm dò dư luận xã hội hiện đại.
- Tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan, tổ chức nghiên
cứu dư luận xã hội có uy tín trong nước và trên thế giới nhằm trao đổi, học hỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ công tác nghiên cứu dư luận xã hội.
3.3. Nâng cao năng lực của các tổ chức, bộ phận điều tra, nắm bắt, nghiên
cứu dư luận xã hội trong hệ thống tuyên giáo
- Rà soát, củng cố, kiện toàn các tổ chức, bộ phận điều tra, nắm bắt, nghiên
cứu dư luận xã hội trong hệ thống tuyên giáo các cấp, cơ quan tuyên giáo Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và một số đoàn thể chính trị - xã hội; tăng cường cho các tổ chức,
bộ phận này những cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ về xã hội học hoặc tâm lý học.
Người đứng đầu các tổ chức, đầu mối điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội
cần có chuyên môn và năng lực phù hợp.
- Gửi cán bộ điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội ở trung ương và các
địa phương đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ tại các viện, trung tâm nghiên cứu,
thăm dò dư luận xã hội có uy tín ở trong nước và trên thế giới.
- Tăng cường sự cộng tác, phối hợp giữa các tổ chức, đầu mối điều tra, nắm
bắt, nghiên cứu dư luận xã hội trong ngành tuyên giáo với các cơ quan nghiên cứu

khoa học có chuyên môn, nghiệp vụ nghiên cứu, điều tra dư luận xã hội (Viện Xã
hội học và Viện Tâm lý học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Viện Xã
hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh...).
- Bảo đảm kinh phí hoạt động hợp lý cho các tổ chức, đầu mối điều tra, nắm
bắt, nghiên cứu dư luận xã hội./.

12



×