Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về NHÀ nước KIỂU mới ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.2 KB, 13 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM

Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho sự ra đời của Nhà nước kiểu mới đầu
tiên ở Đông Nam Á - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và là người giữ cương vị đứng đầu Nhà
nước ta trong 24 năm liền. Quá trình tìm tòi, sáng lập và lãnh đạo Nhà nước ta
cũng là quá trình hình thành, phát triển và kiểm nghiệm tính đúng đắn, sáng tạo
của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới. Ngày nay, nghiên cứu và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới có ý nghĩa cấp thiết đối với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM
1. Cơ sở lý luận
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước, đặc biệt là về Nhà
nước chuyên chính vô sản là cơ sở lý luận có ý nghĩa quyết định đối với sự hình
thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Quá
trình nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề Nhà nước, Hồ Chí Minh
đã nắm vững các quan điểm cơ bản về nguồn gốc, bản chất giai cấp, chức năng, hình
thức của Nhà nước, sự đối lập giữa Nhà nước kiểu cũ với Nhà nước kiểu mới, về đặc
điểm và con đường, biện pháp tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều này đã
thể hiện rõ trong tư tưởng và hoạt động thực tiễn lãnh đạo xây dựng Nhà nước ta của
Hồ Chí Minh.
2. Cơ sở thực tiễn
a. Từ thực tiễn xây dựng Nhà nước ở Việt Nam
Trước khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ thống trị đất nước ta với chế độ Nhà
nước thực dân - phong kiến, lịch sử dân tộc đã ghi nhận sự tồn tại của các triều đại
1


phong kiến. Nghiên cứu các triều đại này, nhất là vào thời kỳ hưng thịnh, Hồ Chí
Minh đã tìm thấy và tiếp thu trên lập trường cách mạng những tư tưởng tiến bộ để


sau này vận dụng vào xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là tư tưởng trị
nước an dân không chỉ bằng sự tu thân, rèn đức của vua quan mà phải bằng luật
pháp (với các bộ luật) và pháp luật phải được thực thi nghiêm trong xã hội không
trừ một ai, đó còn là tư tưởng nước dựa vào dân, lấy dân làm gốc và tư tưởng Nhà
nước “thân dân”. Những tư tưởng tiến bộ này được thể hiện rất rõ và khá sâu sắc
qua các bộ luật và bộ sử lớn của dân tộc ở các triều đại Lý, Trần, Lê.
b. Từ nghiên cứu khảo sát thực tế xây dựng và phát triển của các kiểu Nhà
nước trên thế giới.
Nghiên cứu khảo sát Nhà nước thực dân phong kiến, Hồ Chí Minh dã vạch rõ
bản chất vô nhân đạo của nó. Theo Người, Nhà nước này không phải ‘là “cán cân
công lý”, “khai phá văn minh” ở Đông Dương mà là công cụ thực hiện lợi ích của
bọn thực dân và phong kiến.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu khảo sát trong thực tế Nhà nước tư sản, tiêu biểu
là Nhà nước tư sản Pháp và Mỹ và rút ra kết luận đúng đắn về bản chất của
nó. Theo Người, Nhà nước tư sản là thành quả của những cuộc cách mạng tư sản
thành công “chưa đến nơi”, đến chốn. Đó không phải là Nhà nước của số đông
người lao động mà là “công cụ của giai cấp tư sản để thống trị giai cấp công nhân”.
Đến đất nước của Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở đó có một chế độ xã hội
và Nhà nước hoàn toàn mới do cuộc cách mạng Nga thành công “đến nơi” đem lại.
Đấy là một Nhà nước thật sự tiến bộ, cách mạng, là “công cụ thống trị của nhân
dân lao động”. Từ bản chất ưu việt, tốt đẹp của Nhà nước Xôviết đã “gợi ý” cho
Hồ Chí Minh về việc xây dựng, phát triển Nhà nước kiểu mới phù hợp với điều
kiện cụ thể ở Việt Nam.

2


c. Từ thực tiễn đất nước và thực tiễn cầm quyền của Đảng ta đứng đầu là
Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ thực tế tình hình đất nước để vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin và

kinh nghiệm của thế giới vào xây dựng Nhà nước ta là một vấn đề thuộc về nguyên
tắc có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Người đã không áp dụng máy
móc, dập khuôn, giáo điều những gì đã có trong kinh điển và cả những gì đã có
trong thực tế ở các Nhà nước mà vận dụng sáng tạo, có sự phát triển phù hợp với
điều kiện của Việt Nam, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với cương vị là Chủ tịch nước trong 24 năm, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta tổ
chức lãnh đạo xây dựng Nhà nước, bảo đảm cho nhà nước ta thật sự là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Hoạt động thực tiễn trực tiếp lãnh đạo xây dụng Nhà
nước của Đảng cộng sản cầm quyền và Hồ Chí Minh là một trong những cơ sở thực
tiễn rất quan trọng đối với sự phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới
ở Việt Nam. Đồng thời thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn trong
xây dựng Nhà nước ta của Người.
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU
MỚI Ở VIỆT NAM
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Trong lịch sử, quan niệm về Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được giai
cấp tư sản nêu ra. Nhưng Hồ Chí Minh đã nhận thấy rõ ràng là họ chỉ nói mà
không làm. Xây dựng một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam
đã thể hiện rõ trong tư tưởng và hoạt động của Hồ Chí Minh.
Năm 1949, Hồ Chí Minh viết bài báo “dân vận”, trong bài báo quan trọng này,
Người đã khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ
3


Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra...
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[1]
Qua các trước tác khác và thực tiễn lãnh đạo xây dựng Nhà nước ta của Hồ

Chí Minh, chúng ta thấy tư tưởng của Người về Nhà nước của dân, do dân, vì dân
được thể hiện qua nội dung cơ bản sau đây.
a. Nhà nước của dân
Nói tới Nhà nước của dân, Hồ Chí Minh khẳng định vấn đề cơ bản là quyền lực
nhà nước là của nhân dân. Người viết: “Trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của
chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân... nhân dân là ông chủ nắm chính
quyền”[2]. Quan điểm này của Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ ràng trong các bản
Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp 1959 do Người chỉ đạo soạn thảo. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm nhân dân có nội hàm rất rộng lớn, mà nòng cốt là
nhân dân lao động, là 4 giai cấp: công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, do giai
cấp công nhân lãnh đạo, lấy công nông liên minh làm nền tảng. Nhân dân nắm
quyền lực nhà nước và trao, ủy quyền của mình cho những người và cơ quan đại
diện cho họ. Những người và cơ quan này do nhân dân lựa chọn bầu ra thông qua
bầu cử. Chính sách bầu cử, ứng cử là một vấn đề cốt tử của tính hợp hiến trong việc
hình thành bộ máy nhà nước và là một trong những chuẩn mực quan trọng xem xét
bộ máy quyền lực có thực sự của dân hay không. Nhận thức sâu sắc điều này, Hồ
Chí Minh đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi cuộc tuyển cử sau khi giành được chính
quyền.
Theo Hồ Chí Minh trong Nhà nước của dân ở nước ta, người dân là chủ và
được hưởng mọi quyền dân chủ. Nhân dân có quyền làm bất cứ việc gì mà luật
4


pháp không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Bằng thiết chế dân chủ, nhà
nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội kể cả quyền kiểm soát Nhà nước, để cho nhân dân thực thi
quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực xã hội.
b. Nhà nước do dân.
Nhà nước do dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là Nhà nước do nhân dân lập
nên thông qua bầu cử theo luật định, nhân dân tự mình lựa chọn “bầu ra”, “cử ra”

những người vào cơ quan nhà nước. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “những đại biểu trong
Quốc hội, những nhân viên trong Chính phủ, những cán bộ trong đoàn thể... do
nhân dân cử ra”[3]. “Chính quyền địa phương do nhân dân bầu ra”[4]. Và nhân dân
có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu
những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Trong
nhà nước do dân, mọi công việc hệ trọng của nhà nước và xã hội do cơ quan đại
diện cho nhân dân quyết định nhưng phải lấy ý kiến của nhân dân để bổ sung, hoàn
chỉnh trước khi đưa vào thực thi trong cuộc sống. Hiến pháp năm 1946 do Người
trực tiếp chỉ đạo biên soạn đã ghi nhận chế độ trưng cầu dân ý để nhân dân “phúc
quyết” những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia. Theo Hồ Chí Minh “Nghị
quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý
kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”[5].
Nhà nước do dân được thể hiện không chỉ là nhà nước do dân xây dựng nên
mà còn được nhân dân bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ về mọi mặt và đóng góp phê bình
để nhà nước ngày càng phát triển tiến bộ. Theo Hồ Chí Minh, việc xây dựng nhà
nước ta là việc chung mà lực lượng dựa vào dân, tạo mọi điều kiện tốt nhất để nhân
dân làm tròn trách nhiệm xây dựng nhà nước và để dân “đem tài dân, sức dân, của
dân làm lợi cho dân”[6] chứ không phải nhà nước làm thay dân.
c. Nhà nước vì dân.
5


Nhà nước vì dân trong tư tưởng của Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ ở chỗ: mọi
chủ trương, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của
nhân dân, ngoài ra không có lợi ích nào khác; cán bộ công chức trong bộ máy nhà
nước thật sự là công bộc, là đầy tớ trung thành của nhân dân, lấy việc phục vụ nhân
dân làm mục đích cao nhất, đồng thời là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân.
Theo tinh thần này, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm,
việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh” [7]. Người luôn luôn tâm niệm: phải làm
cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành và nếu nước độc lập mà dân

không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Suốt cả cuộc
đời “Người chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh
phúc của quốc dân” “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý... không
dính líu gì với vòng danh lợi”[8].
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước ta
a. Nhà nước ta có bản chất giai cấp công nhân
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước kiểu mới ở nước ta là nhà nước của số đông
nhân dân nhưng chỉ mang bản chất của giai cấp công nhân. Người đã chỉ rõ, tuy
giai cấp công nhân nước ta nhỏ bé, ít về số lượng nhưng nó có đủ các “đặc tính
cách mạng” để lãnh đạo nhà nước thông qua đội tiên phong của nó là Đảng cộng
sản Việt Nam. Phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ là: Đảng
lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để nhà nước thể chế hóa thành
pháp luật, chính sách, kế hoạch, Đảng lãnh đạo nhà nước bằng hoạt động của các
tổ chức đảng và đảng viên của Đảng trong cơ quan bộ máy nhà nước; Đảng lãnh
đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta thể hiện ở pháp luật của nhà
nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính dân chủ thật sự và mọi hoạt động
6


của nhà nước đều hướng đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức và hoạt động cơ bản của nó - nguyên tắc tập trung dân chủ. Theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là cái bảo đảm cho toàn thể
nhân dân trở nên chủ nhân chân chính của nước nhà.
b. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân
tộc của Nhà nước ta.
Xây dựng nhà nước có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc là biểu hiện giải quyết thành công mối quan hệ giữa

vấn đề giai cấp - dân tộc trong xây dựng nhà nước ta của Hồ Chí Minh. Quá trình
tìm tòi, khảo nghiệm thực tế, Người đã thấy rõ nhà nước cũ là công cụ thống trị
của giai cấp phong kiến, tư bản, mang bản chất của các giai cấp đó. Vì thế, nhà
nước trong tay các giai cấp thống trị bóc lột không thể là nhà nước có tính nhân
dân thật sự và tính dân tộc sâu sắc. Đối lập với nhà nước cũ, bản chất giai cấp
công nhân của nhà nước ta có sự thống nhất nội tại với tính nhân dân và tính dân
tộc. Điều này đã thể hiện rõ ràng, sinh động trong quá trình hình thành, phát triển
của nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh cả về cơ cấu tổ chức bộ máy và
các chức năng nhiệm vụ qua các thời kỳ lịch sử. Theo Hồ Chí Minh, cơ sở chủ yếu
của sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân
tộc của Nhà nước ta là ở sự thống nhất căn bản giữa lợi ích của giai cấp công nhân
với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã hoạt động và
đấu tranh không mệt mỏi để hiện thực hóa bản chất giai cấp công nhân, tính nhân
dân, tính dân tộc của nhà nước và hội tụ các thuộc tính đó lại trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước ta, bảo đảm mọi hoạt động của Nhà nước ta đều vì lợi ích chân
chính của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

7


3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước Pháp quyền có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ
Không phải chỉ đến khi Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa ra đời mới xuất
hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
Từ rất sớm, Người đã có ý thức về tầm quan trọng của hệ thống pháp luật trong quản
lý xã hội. Năm 1919, trong Yêu sách gửi tới Hội nghị Vécxây, Nguyễn Ái Quốc đã
yêu cầu thay chế độ ra sắc lệnh ở Đông Dương bằng việc ra các đạo luật, cải cách
nền công lý, người bản xứ cũng có quyền hưởng những bảo đảm pháp luật. Hồ Chí
Minh coi trọng xây dựng nhà nước pháp quyền trên các vấn đề mấu chốt sau.

a. Xây dựng Nhà nước hợp hiến có Hiến pháp và pháp luật.
Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh
đã nói “chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị chính phủ tổ chức
càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để lập ra
Quốc hội. Tiếp đó, trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã lãnh đạo soạn thảo hai
bản Hiến pháp mang đậm tính dân chủ và hết sức tiến bộ, đó là Hiến pháp năm
1946 và Hiến pháp năm 1959. Trên cơ sở Hiến pháp Người đã chỉ đạo việc làm
luật và đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật
khác.
b. Thực thi Hiến pháp, pháp luật.
Thực thi Hiến pháp, pháp luật chính là thực hiện quản lý nhà nước đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc
sống. Có Hiến pháp và pháp luật nhưng không được thực thi nghiêm minh, không
đi vào cuộc sống hiện thực thì xã hội cũng rối loạn và không phát triển được.
Nước ta là nước dân chủ nhưng dân chủ bao giờ cũng đi liền với kỷ cương,
phép nước. Nhận thức sâu sắc điều đó, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng việc giáo
8


dục pháp luật nâng cao trình độ dân trí của nhân dân, phát huy tính tích cực
chính trị của họ trong chấp hành pháp luật của nhà nước.
Người rất chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo điều kiện để pháp
luật được thực thi, có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong các cơ quan
nhà nước và trong nhân dân. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, pháp luật nhà nước phải
được thực thi một cách nghiêm minh, không có bất kỳ ai dù ở cương vị nào có thể đứng
ngoài pháp luật. Chính bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm
việc theo Hiến pháp và Pháp luật.
c. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, Hồ Chí

Minh đã đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà
nước, nhất là những người phụ trách thi hành pháp luật. Xuất pháp từ tình hình
thực tế của đội ngũ cán bộ công chức trong nhà nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải
nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng, thi tuyển, để hình thành đội ngũ cán bộ,
công chức vừa có đức vừa có tài trong đó đức là gốc, được tổ chức hợp lý,
hoạt động có hiệu quả. Theo Người, đội ngũ cán bộ công chức phải tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp cách mạng, thành thạo công việc giỏi chuyên môn
nghiệp vụ, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, có tính quyết đoán, dám
chịu trách nhiệm, xứng đáng là “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh,
có hiệu quả.
Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với xây
dựng nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh, có hiệu quả. Điều này luôn luôn
thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Người đã sớm cảnh báo
về những tiêu cực và yếu kém của chính quyền ngay từ khi mới được thành lập và

9


chỉ ra những biện pháp phòng, chống có hiệu quả nhằm củng cố tăng cường Nhà
nước ta.
a. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của nhà nước.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ
Chí Minh thường đề cập những tiêu cực và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc
phục. Trong những biểu hiện tiêu cực, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới phòng chống
bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm” “giặc ở trong lòng” thứ giặc
nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, có
hiệu quả, Người yêu cầu phải đấu tranh tẩy sạch tệ tham ô, lãng phí, tệ quan liêu
cùng với những biểu hiện khác của chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ công
chức của nhà nước.

b. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
Trong lịch sử đã xuất hiện tư tưởng pháp trị và đức trị để duy trì trật tự xã hội.
Hồ Chí Minh đã kết hợp hợp chặt chẽ giữa việc quản lý điều hành xã hội bằng
pháp luật với việc giáo dục đạo đức cách mạng nhằm xây dựng Nhà nước ta trong
sạch, vững mạnh, có hiệu quả. Tuy việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của
mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã thi hành pháp luật một cách
nghiêm khắc đúng đắn, theo nguyên tắc “thiết diện vô tư” để giữ vững kỷ cương
phép nước. Đồng thời Người luôn coi trọng giáo dục đạo đức, dùng lòng bao dung,
độ lượng, nhân ái để cảm hóa những người mắc sai lầm khuyết điểm giúp họ tránh
tái phạm pháp. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm một điều rất sâu sắc rằng: “nghĩ
cho cùng vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn đề ở đời
và làm người. ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân” [9]. Song, đối
với những kẻ phạm tội phải xử lý theo luật định thì dù ở cương vị chức trách nào,
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải xử lý cho nghiêm để làm gương cho người khác,
thậm trí phải giết một người phạm tội để cứu muôn người thì Hồ Chí Minh cũng
10


kiên quyết thi hành. Bản án tử hình giành cho Cục trưởng cục Quân nhu hồi đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp vì phạm tội tham nhũng do Hồ Chí Minh ký là một
minh chứng về tính nghiêm minh của luật pháp trong nhà nước ta.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI
VÀO XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước có nội dung rất rộng lớn. Trong tình hình
hiện nay việc vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, cần tập trung vào
một số điểm sau:
1. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân

Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân đang là vấn đề
quan trọng và cấp thiết hiện nay. Trong thời gian qua Đảng, Nhà nước ta đã rất
quan tâm để thực hiện “dân chủ thực sự”, coi đây là “chìa khóa vạn năng có thể
giải quyết mọi khó khăn” theo đúng Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên hiện tượng
vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn đang tồn tại, có nơi ở mức trầm trọng
gây những hậu quả đáng tiếc, có nơi có tình trạng dân chủ vô nguyên tắc, bất chấp
luật pháp. Kẻ địch đã tích cực lợi dụng tình hình này để chống phá ta về vấn đề dân
chủ, nhân quyền. Từ thực tế, Đảng ta đã chỉ rõ phương hướng cải cách tổ chức và
hoạt động của nhà nước ta là phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quyền làm chủ của nhân dân phải được
thể chế bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật đi vào cuộc sống.
Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người thực sự bình đẳng trước pháp luật, xử
phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật. Nhiệm vụ này trước hết
thuộc về các cấp chính quyền và các cơ quan thi hành pháp luật. Điều đang nổi lên
11


nữa là phải thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở đã được Chính phủ ban hành,
giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng dân cư mà
không trái với quy định của pháp luật.
2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đẩy mạnh cải
cách hành chính nhà nước và đấu tranh chống tham nhũng.
Những năm qua, chúng ta đã tích cực thực hiện chủ trương đổi mới, tổ chức
và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước
và đấu tranh chống tham nhũng. Song, bộ máy Nhà nước còn chậm được đổi mới,
chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành
chính chưa đạt yêu cầu, quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Vì thế,
cần phải chủ động tích cực khắc phục có hiệu quả những hạn chế, yếu kém này.
Phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các

cấp theo hướng ngày càng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh cải
cách nền hành chính Nhà nước, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh chuyên nghiệp và hiện đại, xóa bỏ hiện tượng “hành dân” ở một số nơi
của một số cán bộ công chức nhà nước. Điều cốt lõi có ý nghĩa quyết định là phải
tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt,
có năng lực chuyên môn giỏi đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc thời kỳ mới.
3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Để xây dựng nhà nước ta thật sự của dân, do dân, vì dân, nguyên tắc đặc biệt
quan trọng là phải giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, nhà nước
phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng sản. Thực tiễn đang đòi hỏi
Đảng ta phải xây dựng năng lực cầm quyền ngang tầm với yêu cầu lãnh đạo nhà
nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng cần
12


phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo nhà nước. Đảng lãnh
đạo nhà nước bằng đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết, quyết định,
nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng. Đảng lãnh
đạo nhà nước trong việc thể chế, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng thành
Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình mục tiêu lớn của nhà nước.
Đảng thống nhất lãnh đạo bằng tổ chức với lãnh đạo thông qua cá nhân đảng viên
hoạt động trong bộ máy nhà nước. Hiện nay, cần tiếp tục đề phòng và khắc phục
khuynh hướng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện làm thay cũng như khuynh
hướng các cơ quan nhà nước thụ động, sợ trách nhiệm việc gì cũng xin ý kiến cấp
ủy Đảng. Đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với các quan điểm lệch lạc, sai trái,
thù địch hòng phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr 698.

[2] Sđd, tập 7, tr 217- 218.
[3] Sđd, tập 5, tr 622
[4] Sđd, tập 6, tr 25
[5] Sđd, tập 5, tr 297
[6] Sđd, tập 5, tr 65.
[7] Sđd, tập 4, tr 56- 57
[8] Sđd, tập 4, tr 161.
[9] Hồ Chí Minh, Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp Lý, HN 1985, tr 187.

13



×