Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Tiểu luận Phân tích thực trạng hoạt động bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay – Nêu và lấy ví dụ, phân tích một số trường hợp của bảo hiểm Thai sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.36 KB, 49 trang )

Header Page 1 of 49.

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ......................................................... 1
1.1 Khái niệm bảo hiểm ........................................................................ 1
1.2. Bảo hiểm xã hội .............................................................................. 5
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ............................................................. 13
2.1 Quá trình phát triểncủa BHXH Việt Nam ................................... 13
2.2 Những thành tựu đạt được và khó khăn của BHXH Việt Nam
hiện nay .................................................................................................. 20
2.3 Quy định về chế dộ thai sản ở Việt Nam ...................................... 25
2.4 Thủ tục, hồ sơ hưởng chế đột hai sản ........................................... 35
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP ................................................................... 38
3.1 Định hướng ...................................................................................... 38
3.2 Giải pháp.......................................................................................... 39
3.3 Kiến nghị .......................................................................................... 44

Footer Page 1 of 49.


Header Page 2 of 49.

LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
Việt Nam bước sang một thời kỳ phát triển mới. Sự chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thành tựu kinh tế - xã hội to lớn cho
đất nước. Nhiều lĩnh vực kinh tế được đẩy mạnh, đời sống nhân dân cũng
ngày càng được nâng cao. Chính vì vậy, BHXH đã ra đời để bảo vệ cuộc
sống “ Của dân, do dân và vì dân” lý tưởng của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ Nghĩa Việt Nam.


Trong quá trình phát triển đó, bảo hiểm đã và đang chứng minh
được vai trò tích cực của mình đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh
nói riêng cũng như với cuộc sống nói chung. Đồng thời, bảo hiểm cũng
đã trở thành một ngành kinh doanh giàu tiềm năng phát triển, thu hút rất
nhiều lao động. Ngành bảo hiểm nước ta mới thực sự bắt đầu phát triển từ
cách đây khoảng hơn 20 năm khi thế độc quyền kinh doanh bảo hiểm
được xoá bỏ theo nghị định 100 CP được Chính phủ ban hành ngày
18/12/1993. Kể từ đó đến nay, ngành bảo hiểm đã có những bước tiến
đáng kể và nếu được phát triển đúng hướng, ngành sẽ góp phần rất tích
cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thế kỷ
mới. Việc tìm hiểu thực trạng tình hình kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam
để từ đó, đưa ra được những giải pháp nhằm phát triển ngành bảo hiểm
trong giai đoạn tới là rất cần thiết.
Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, với đề tài tiểu luận nhóm “ Phân
tích thực trạng hoạt động Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay – Nêu và
lấy ví dụ, phân tích một số trường hợp của Bảo hiểm Thai sản ”, chúng
em đã cố gắng suy xét, phân tích các vấn đề có liên quan, tìm kiếm, học
hỏi các kiến thức, tài liệu tham khảo để cho ra sản phẩm tiểu luận phục
vụ học tập.

Footer Page 2 of 49.


Header Page 3 of 49.

Do thời gian nghiên cứu và năng lực sinh viên còn mới, còn bỡ ngỡ,
lại là nhóm hoàn thành bài tiểu luận để trình bày đầu tiên trước lớp, nên
bài tiểu luận nhóm không thể tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm chúng em
mong nhận được những góp ý chân thành từ phía cô giáo và toàn thể các
bạn sinh viên lớp để bài tiểu luận nhóm được hoàn thiện.

Xin chân thành cảm ơn!

Footer Page 3 of 49.


Header Page 4 of 49.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm bảo hiểm
1.1.1 Nguồn gốc của bảo hiểm
Ngày nay, bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh phát triển rất
mạnh, với tốc độ tăng trưởng trung bình khá cao. Đặc biệt, ở một số nước trên
thế giới, bảo hiểm đã trở thành một phần không thể thiếu trong kinh doanh cũng
như trong cuộc sống nói chung. Vậy bảo hiểm có nguồn gốc như thế nào?
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại. Tuy
nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì người ta vẫn chưa có được câu
trả lời chính xác. ý tưởng về bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ khá lâu, khi
mà người xưa đã nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc lúa dự trữ
chung phòng khi mất mùa, chiến tranh… Như vậy, ngay từ xa xưa, con người đã
có ý thức về những bất trắc có thể xảy đến với mình, và tìm cách phòng tránh
chúng.
Ý tưởng về sự rủi ro được hình thành một cách rõ nét vào khoảng thế kỷ
XV, khi châu Âu mở những cuộc thám hiểm, khai phá tới các miền đất ở châu á,
châu Mỹ. Nhu cầu giao thương giữa các châu lục trở nên mạnh mẽ, ngành hàng
hải ngày càng phát triển. Những đội tàu buôn lớn ra đi, và trở về với sự giàu có
từ nguồn hàng dồi dào, hấp dẫn từ những miền đất mới. Tuy nhiên, đồng hành
với đó cũng là những trường hợp rủi ro không quay về được do nhiều nguyên
nhân như: dông bão, lạc đường, cướp biển… Những nhà đầu tư cho những
chuyến đi mạo hiểm như vậy đã cảm thấy sự cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi
ro để tránh tình trạng một số người bị mất trắng khoản đầu tư của mình do một

hiện tượng ngẫu nhiên khiến tàu của họ bị thiệt hại hoặc mất tích. Để thực hiện
điều này, người ta có hai lựa chọn: thành lập liên doanh để cùng “lời ăn, lỗ
chịu”, hoặc tham gia bảo hiểm. ở trường hợp thứ hai, một số cá nhân hay công
ty sẽ nhận được phí bảo hiểm bằng tiền mặt, đổi lại là lời cam kết sẽ trả một
khoản bồi thường cho chủ tàu trong trường hợp tàu bị mất tích. Những người

Footer Page 4 of 49.

1


Header Page 5 of 49.

bảo hiểm đã tạo ra một quỹ chung mà họ cam kết sử dụng để thanh toán cho
người được bảo hiểm khi rủi ro xảy ra.
Vào thời kỳ đầu, khi tổn thất xảy ra, người nhận bảo hiểm phải bán một số
tài sản, hoặc rút tiền từ tài khoản ngân hàng để thanh toán cho người được bảo
hiểm. Tuy nhiên, một số nhà kinh doanh đã nhanh chóng nhận ra rằng rất nhiều
thành viên của cộng đồng không muốn nhận bảo hiểm cho những rủi ro lớn như
vậy. Và khái niệm góp vốn chung đã dược hình thành cùng với việc kêu gọi mọi
người mua cổ phần của các công ty bảo hiểm. Chỉ cần các khai thác viên chuyên
nghiệp tính toán một cách đầy đủ, chính xác trong việc lựa chọn rủi ro để bảo
hiểm và số phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi loại rủi ro cụ thể thì quỹ này sẽ luôn
có khả năng bồi thường tổn thất cho người được bảo hiểm nếu xảy ra rủi ro.
Đồng thời, các cổ đông cũng vẫn có lãi cổ phần ở mức đủ để họ hài lòng với
việc đầu tư của mình.
Bảo hiểm hình thành do sự tồn tại các loại rủi ro và sự đòi hỏi con người
phải có những biện pháp đề phòng, ngăn chặn việc xảy ra rủi ro, đồng thời, khắc
phục, hạn chế những hậu quả của rủi ro. Bắt đầu từ bảo hiểm hàng hải, rồi tới
những loại bảo hiểm khác như bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm nhân thọ…, bảo

hiểm ngày nay đã phát triển nhanh chóng trên nhiều mặt và dần dần đóng vai trò
rất quan trọng đối với con người.
1.1.2 Bản chất của bảo hiểm
Bằng sự đóng góp của số đông người vào một quĩ chung, khi có rủi ro, quĩ
sẽ có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Mỗi cá nhân
hay đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các công ty
bảo hiểm. Khi tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu gặp tổn thất do rủi
ro được bảo hiểm gây ra, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. Khoản tiền
bồi thường này được lấy từ số phí mà tất cả những người tham gia bảo hiểm đã
nộp. Tất nhiên, chỉ có một số người tham gia bảo hiểm gặp tổn thất, còn những
người không gặp tổn thất sẽ mất không số phí bảo hiểm. Như vậy, có thể thấy,
thực chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho
Footer Page 5 of 49.

2


Header Page 6 of 49.

tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Do đó, một nghiệp vụ bảo
hiểm muốn tiến hành được phải có nhiều người tham gia, tức là, bảo hiểm chỉ
hoạt động được trên cơ sở luật số đông, càng nhiều người tham gia thì xác suất
xảy ra rủi ro đối với mỗi người càng nhỏ và bảo hiểm càng có lãi.
Với hình thức số đông bù cho số ít người bị thiệt hại, tổ chức bảo hiểm sẽ
giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế của từng cá nhân hay đơn vị khi gặp rủi ro, tiết
kiệm được nguồn chi cho ngân sách nhà nước. Như vậy, thực chất mối quan hệ
trong hoạt động bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ giữa người bảo hiểm và
người được bảo hiểm, mà suy rộng ra, nó là tổng thể các mối quan hệ giữa
những người được bảo hiểm trong cộng đồng xoay quanh việc hình thành và sử
dụng quĩ sbảo hiểm. Quĩ bảo hiểm được tạo lập thông qua việc huy động phí bảo

hiểm, số người tham gia càng đông thì quĩ càng lớn. Quĩ được sử dụng trước hết
và chủ yếu là để bù đắp những tổn thất cho người được bảo hiểm, không làm
ảnh hưởng đến sự liên tục của đời sống xã hội và hoạt động sản xuất - kinh
doanh trong nền kinh tế. Ngoài ra, quĩ còn được dùng để trang trải chi phí, tạo
nên nguồn vốn đầu tư cho xã hội. Bảo hiểm thực chất là hệ thống các quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình
thái giá trị, nhằm hình thành và sử dụng quĩ bảo hiểm cho mục đích bù đắp tổn
thất do rủi ro bất ngờ xảy ra với người được bảo hiểm, đảm bảo quá trình tái sản
xuất được thường xuyên, liên tục.
1.1.3 Định nghĩa
Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời, nhưng
do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có một định
nghĩa thống nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một định nghĩa
đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quĩ tiền tệ
(quĩ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủi ro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông
các đơn vị đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau tạo thành
một nhóm tương tác.

Footer Page 6 of 49.

3


Header Page 7 of 49.

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm. Theo Dennis Kessler, "bảo
hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít." Còn theo Monique
Gaullier, "bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm
cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho
mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một

khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm.
Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại
theo các phương pháp của thống kê."
Các định nghĩa trên hoặc quá thiên về góc độ xã hội, hoặc quá thiên về góc
độ kinh tế, kĩ thuật, ít nhiều cũng còn thiếu sót, chưa phải là một khái niệm bao
quát, hoàn chỉnh. Nói một cách chính xác, bảo hiểm là một dịch vụ tài chính,
dựa trên cơ sở tính toán khoa học, áp dụng biện pháp huy động nhiều người,
nhiều đơn vị cùng tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm bằng tiền để bồi thường
thiệt hại về tài chính do tài sản hoặc tính mạng của người được bảo hiểm gặp
phải tai nạn rủi ro bất ngờ. Tập đoàn bảo hiểm AIG (Mỹ) định nghĩa: “Bảo hiểm
là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức
chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người
được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại
giữa tất cả những người được bảo hiểm”.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (ban hành ngày 09/12/2000)
thì “kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục
đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được
bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo
hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm."
Như vậy, để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, chúng ta có thể đưa
ra định nghĩa: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với
người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do

Footer Page 7 of 49.

4


Header Page 8 of 49.


một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo
hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm”.
1.2. Bảo hiểm xã hội
1.2.1 Định nghĩa về bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một phần của bảo hiểm khi phân theo cơ chế
hoạt động. Tuy đã có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chua có định
nghĩa thống nhất về BHXH. Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế định bảo
vệ người lao động sử dụng nguồn đóng góp của mình, đóng góp từ người sử
dụng lao động(nếu có) và được tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật
chất cho người lao động được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm
hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao
động theo quy định của pháp luật hoặc người lao động bị chết. Dưới giác độ tài
chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính giữa những người
tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Gần đây, một số quan
điểm cho rằng: BHXH là sự đảm bảo hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm, bằng cách
hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của các bên
tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội….
1.2.2 Sự ra đời và phát triển của BHXH
Bảo hiểm xã hội là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và
đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới.BHXH là một trong
những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia, thể hiện trình độ văn
minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế cũng như khả năng quản lý của quốc gia
đó.BHXH xuất hiện năm 1850 do thủ tướng Bismach của nước phổ (nay là
CHLB Đức) đã thiết lập ở nước này.Mới đầu chỉ có giới thợ tham gia và chỉ có
bảo hiểm ốm đau, sau đó thu hút mọi tầng lớp xã hội và mở rộng ra đối với các
trường hợp khác.Luật bảo hiểm y tế được ban hành vào năm 1883. Và năm 1884
ban hành luật bảo hiểm về rủi ro nghề nghiệp do hiệp hội giới chủ quản lý. Năm
Footer Page 8 of 49.


5


Header Page 9 of 49.

1889, chính phủ Đức ban hành thêm bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do
chính quyền các bang quản lý.Đến thời điểm này BHXH đã có bước phát triển
mới: cơ chế đóng góp cả ba bên được thực hiện, không chỉ có người lao động
mà cả giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp.
Mô hình này ở Đức đã lan dần ra châu Âu vào đầu thế kỷ XX, sau đó sang
các nước Mỹ la tinh, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ
XX.Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành
được độc lập ở châu A, châu Phi và vùng Caribê trong nửa cuối thế kỷ XX. Như
vậy cùng với sự phát triển của xã hội, BHXH trở thành một trong những quyền
cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận.
So với các loại hình bảo hiểm khác, đối tượng, chức năng và tính chất của
BHXH có những điểm khác biệt. BHXH có một số đặc điểm: có tính chất bắt
buộc; hoạt động theo những luật lệ quy định chung; không tính đến những rủi ro
cụ thể; không nhằm mục đích kinh doanh... Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập,
tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước, hình thành chủ yếu từ các nguồn đóng
góp hay ủng hộ của người lao động, người sử dụng lao động, nhà nước, các tổ
chức, cá nhân từ thiện...)
1.2.3 Các chế độ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam
Chế độ ốm đau
Khi bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc (có xác nhận của cơ sở y tế)
hoặc có con dưới 7 tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm sóc con (có xác nhận
của cơ sở y tế) thì người lao động được hưởng chế độ ốm đau như sau: - Làm
việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày, nếu đã đóng BHXH
dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày nếu

đã đóng từ đủ 30 năm trở lên; - Làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế
ban hành hoặc làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở
lên thì được hưởng 40 ngày nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm; 50 ngày nếu đã
đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 70 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên.
Footer Page 9 of 49.

6


Header Page 10 of 49.

- Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm được tính theo số ngày
chăm sóc con tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 3 tuổi; tối đa là 15 ngày
làm việc nếu con từ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi. - Người lao động hưởng chế độ
ốm đau theo quy định tại 2 trường hợp đầu mức hưởng bằng 75% mức tiền
lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
Chế độ thai sản
Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây: Lao động nữ mang thai; lao động nữ sinh con; người lao
động nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi; người lao động đặt vòng tránh thai,
thực hiện các biện pháp triệt sản. Người lao động thuộc 2 trường hợp cuối phải
đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con
hoặc nhận nuôi con nuôi. - Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ
việc để đi khám thai năm lần, mỗi lần một ngày; trường hợp ở xa cơ sở y tế hoặc
người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ hai ngày
cho mỗi lần khám thai. - Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại
Điều này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. + 4 tháng, nếu
làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao động bình thường + 5 tháng, nếu
làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ

Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành; làm việc theo chế độ
ba ca; làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên hoặc
là nữ quân nhân, nữ công an nhân dân; + 6 tháng đối với lao động nữ là người
tàn tật theo quy định của pháp luật về người tàn tật + Trường hợp sinh đôi trở
lên, ngoài thời gian nghỉ việc quy định thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con
được nghỉ thêm 30 ngày. - Trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con
nuôi: Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4
tháng tuổi thì được trợ cấp 1 lần bằng 2 tháng lương tối thiểu chung cho mỗi
con. - Lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con: Lao động nữ có
thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con khi có đủ các điều kiện sau đây:
sau khi sinh con từ đủ 60 ngày trở lên; có xác nhận của cơ sở y tế về việc đi làm

Footer Page 10 of 49.

7


Header Page 11 of 49.

sớm không có hại cho sức khoẻ của người lao động; phải báo trước và được
người sử dụng lao động đồng ý. Ngoài tiền lương, tiền công của những ngày làm
việc, lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng
chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định.
Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều
kiện sau đây: Bị tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, ngoài nơi làm
việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử
dụng lao động, trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng
thời gian và tuyến đường hợp lý; suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do
bị tai nạn. - Trợ cấp một lần: Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ

5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được quy
định như sau: + Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 5 tháng lương
tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 tháng
lương tối thiểu chung; + Ngoài mức trợ cấp quy định, còn được hưởng thêm
khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ một năm trở xuống thì được
tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3
tháng tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để
điều trị. - Trợ cấp hằng tháng: Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ
31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng. Mức trợ cấp hằng tháng được
quy định như sau: + Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng
30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng
thêm 2% mức lương tối thiểu chung; + Ngoài mức trợ cấp quy định, hằng tháng
còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ
một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH
được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề
trước khi nghỉ việc để điều trị.
Chế độ hưu trí

Footer Page 11 of 49.

8


Header Page 12 of 49.

Người lao động có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên được hưởng lương hưu
khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; nam
từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm
làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 làm việc

ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Tuổi đời được hưởng lương hưu
trong một số trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định. - Mức lương hưu
hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 50 của Luật này
được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH
quy định tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng
BHXH thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.
Sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 1%. Mức lương hưu
hằng tháng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung. - Trợ cấp một lần khi
nghỉ hưu: + Người lao động đã đóng BHXH trên 30 năm đối với nam, trên 25
năm đối với nữ, khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần.
+ Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở
đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng BHXH thì
được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng
BHXH.
Chế độ tử tuất
Các đối tượng sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai
táng: Người lao động đang đóng BHXH; người lao động đang bảo lưu thời gian
đóng BHXH; người đang hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp hằng tháng đã nghỉ việc. Trợ cấp mai táng bằng 10 tháng
lương tối thiểu chung. - Các đối tượng thuộc một trong các trường hợp sau đây
khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng: Đã đóng BHXH đủ 15
năm trở lên nhưng chưa hưởng BHXH một lần; đang hưởng lương hưu; chết do
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp hằng tháng với mức suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. -

Footer Page 12 of 49.

9



Header Page 13 of 49.

Thân nhân của các đối tượng được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng, bao gồm: Con
chưa đủ 15 tuổi, con chưa đủ 18 tuổi nếu còn đi học, con từ đủ 15 tuổi trở lên
nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc
chồng từ đủ 60 trở lên hoặc vợ dưới 55 tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm
khả năng lao động từ 81% trở lên; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ
hoặc mẹ chồng, người khác mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ
đủ 60 trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha
vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà đối tượng này có
trách nhiệm nuôi dưỡng nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ
và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Ngoài trường hợp đầu, 3
trường sau phải không có thu nhập hoặc có thu nhập hằng tháng nhưng thấp hơn
mức lương tối thiểu chung. - Mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân
bằng 50% mức lương tối thiểu chung; trường hợp thân nhân không có người
trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng 70% mức lương tối
thiểu chung. - Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của người lao động đang
làm việc hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng BHXH được tính
theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân
tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH; mức thấp nhất bằng 3 tháng mức bình
quân tiền lương, tiền công tháng. Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của
người đang hưởng lương hưu chết được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu,
nếu chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu
đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 1 tháng lương
hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu, mức thấp nhất bằng 3 tháng
lương hưu đang hưởng.
BHXH tự nguyện
a. Chế độ hưu trí - Người lao động hưởng lương hưu khi có đủ các điều
kiện sau đây: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; đủ 20 năm đóng BHXH trở lên.
Trường hợp nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng thời gian đóng BHXH còn

thiếu không quá 5 năm so với thời gian quy định thì được đóng tiếp cho đến khi

Footer Page 13 of 49.

10


Header Page 14 of 49.

đủ 20 năm. Mức lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% mức bình quân thu
nhập tháng đóng BHXH, tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm
mỗi năm đóng BHXH thì được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ;
mức tối đa bằng 75%. - Người lao động đã đóng BHXH trên 30 đối với nam,
trên 25 năm đối với nữ, khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp
1 lần. Mức trợ cấp 1 lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31
trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng BHXH thì
được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.
b. Chế độ tử tuất - Các đối tượng sau đây khi chết thì người lo mai táng
được nhận trợ cấp mai táng: Người lao động đã có ít nhất năm năm đóng bảo
hiểm xã hội, người đang hưởng lương hưu; Trợ cấp mai táng bằng mười tháng
lương tối thiểu chung; trường hợp đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này bị
Tòa án tuyên bố là đã chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp quy định. - Người
lao động đang đóng BHXH, người lao động đang bảo lưu thời gian đóng
BHXH, người đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp
tuất một lần. + Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của người lao động
đang đóng hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng BHXH được tính
theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu
nhập tháng đóng BHXH. + Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của người
đang hưởng lương hưu chết được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu
chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang

hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 1 tháng lương hưu thì
mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu.
Bảo hiểm thất nghiệp
Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều
kiện sau đây: Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong thời gian
24 tháng trước khi thất nghiệp; đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức BHXH; chưa
tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp. - Mức trợ cấp
thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng

Footer Page 14 of 49.

11


Header Page 15 of 49.

đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp. - Thời gian
hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định như sau:
+ 3 tháng, nếu có từ đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp;
+ 6 tháng, nếu có từ đủ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp;
+ 9 tháng, nếu có từ đủ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp;
+ 12 tháng, nếu có từ đủ 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên.
Chế độ BHYT
Người tham gia BHYT được hưởng các quyền lợi khám chữa bệnh như
sau: - Khám bệnh, chẩn đoán và điều trị - Xét nghiệm, chiếu chụp X-quang,
thăm dò chức năng - Thuốc trong danh mục theo quy định của Bộ Y tế - Máu,
các chế phẩm màu và dịch truyền - Các thủ thuật, phẫu thuật - Sử dụng vật tư,

thiết bị y tế và giường bệnh - Trong trường hợp bệnh vượt quá khả năng chuyên
môn của cơ sở khám chữa bệnh, người có thẻ BHYT được chuyển viện lên
tuyến kỹ thuật cao hơn 2. Người tham gia BHYT được chọn nơi đăng ký khám
chữa bệnh ban đầu Khi bệnh nặng được chuyển lên tuyến trên điều trị theo tuyến
chuyên môn kỹ thuật do Bộ Y tế quy định. Trong trường hợp cấp cứu được
khám chữa bệnh tại bất cứ cơ sở y tế nào của Nhà nước. 3. Người tham gia
BHYT được khám chữa bệnh theo yêu cầu riêng Tự chọn thầy thuốc, tự chọn
buồng bệnh, tự chọn cơ sở khám chữa bệnh, tự chọn các dịch vụ y tế, khám chữa
bệnh vượt tuyến chuyên môn kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế, khám chữa
bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh không có hợp đồng với cơ quan BHXH (trừ
trường hợp cấp cứu) thì người tham gia BHYT phải thanh toán trước viện phí
cho cơ sở khám chữa bệnh, cơ quan BHXH chỉ thanh toán chi phí khám chữa
bệnh theo quy định của Bộ Y tế. Phần chênh lệch tăng thêm (nếu có) do người
có thẻ BHYT tự trả cho cơ sở khám chữa bệnh.

Footer Page 15 of 49.

12


Header Page 16 of 49.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quá trình phát triển của BHXH Việt Nam
2.1.1 Giai đoạn trước khi có Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội (trước
1961):
BHXH bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1930 thời Pháp
thuộc.Đây là chế độ trợ cấp cho chính quyền thuộc địa thực hiện đối với quân
nhân và viên chức Việt Nam làm việc trong bộ máy hành chính và lực lượng vũ

trang của Pháp ở Đông Dương khi bị ốm đau, già yếu hoặc chết. Tuy nhiên, đối
với công nhân Việt Nam, gần như chính quyền Pháp phủ nhận quyền lợi BHXH
của họ. Điển hình là các công nhân Việt Nam làm việc trong các đồn điền, các
nhà máy…bị ốm đau bệnh tật hay chết đều không được hưởng chế độ chữa bệnh
mai táng…
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
được thành lập, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song Chính phủ đã
luôn chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và riêng đối
với công nhân, viên chức Nhà nước. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lương,
Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội mà thực chất là các
chế độ BHXH như: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp già yếu,
trợ cấp cho cá nhân và gia đình công nhân, viên chức khi chết và xây dựng các
khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ...Về mặt luật pháp được thể hiện
trong các văn bản sau:
- Sắc lệnh số 54/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công
chức.
- Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 của Chính phủ.
- Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về các quy chế hưu trí,
thai sản, chế độ chăm sóc y tế, tai nạn tử tuất của công viên chức.

Footer Page 16 of 49.

13


Header Page 17 of 49.

- Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ ấn định cụ thể các chế
độ ốm đau thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân.
Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy định

một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. Tuy nhiên, các
chế độ trợ cấp, phụ cấp mang tính chất bảo hiểm xã hội trong giai đoạn đầu
thành lập nước, trong kháng chiến và những năm đầu hoà bình lập lại đã có tác
dụng rất to lớn, giải quyết một phần những khó khăn trong sinh hoạt của công
nhân viên chức Nhà nước và gia đình họ, củng cố thêm lòng tin của nhân dân
vào Đảng, Chính phủ và làm cho mọi người an tâm, phấn khởi đẩy mạnh công
tác, sản xuất, thu hút lực lượng lao động vào khu vực kinh tế Nhà nước.
2.1.2 Giai đoạn thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời (từ 1961 đến
12/1994):
Để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu
không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức Nhà nước, các chế độ
trợ cấp xã hội cần được bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với thời kỳ xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tại Điều 32
Hiến pháp năm 1959 quy định rõ: quyền của người lao động được giúp đỡ về vật
chất khi già yếu, mất sức lao động, bệnh tật. Năm 1960 Hội đồng Chính phủ có
Nghị quyết trong đó đã xác định “đi đôi với việc cải tiến chế độ tiền lương, cần
cải tiến và ban hành các chính sách cụ thể về bảo hiểm xã hội và phúc lợi cho
công nhân viên chức, cán bộ”. Thực hiện Nghị quyết trên, các Bộ Lao động, Bộ
Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn Việt Nam đã phối hợp nghiên
cứu xây dựng Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội trình Hội đồng Chính phủ ban
hành. Ngày 14/12/1961 Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Chính phủ đã ra
Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về
các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước. Nội dung
của Điều lệ được tóm tắt như sau:

Footer Page 17 of 49.

14



Header Page 18 of 49.

- Về đối tượng áp dụng là: công nhân viên chức Nhà nước ở các cơ quan, xí
nghiệp, công trường, nông trường, cán bộ, công nhân trong các đoàn thể nhân
dân; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công tư hợp doanh đã áp dụng chế
độ trả lương như xí nghiệp quốc doanh; công nhân viên chức trong các xí nghiệp
công nghiệp địa phương đã có kế hoạch lao động, tiền lương ghi trong kế hoạch
Nhà nước.
- Về điều kiện và mức đãi ngộ: căn cứ vào sự cống hiến thời gian công tác,
điều kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động và trợ cấp bảo hiểm xã hội nhìn
chung thấp hơn tiền lương và thấp nhất cũng bằng mức sinh hoạt phí tối thiểu.
- Về các chế độ được quy định bao gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động – bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; từng chế độ
có quy định cụ thể về điều kiện hưởng, tuổi đời, mức hưởng...
- Về nguồn kinh phí đảm bảo chi trợ cấp: do quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà
nước đài thọ từ Ngân sách Nhà nước.
- Về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội: Nhà nước thành lập quỹ bảo hiểm xã hội
là quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước và giao cho Tổng Công đoàn Việt
Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý toàn bộ quỹ này (sau
này giao cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý quỹ hưu trí và tử
tuất).
Đây là Điều lệ tạm thời nhưng đã quy định đầy đủ 6 chế độ bảo hiểm xã
hội, các chế độ này chủ yếu dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm
khuyến khích mọi người tăng cường kỷ luật lao động, đẩy mạnh sản xuất và góp
phần ổn định lực lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân. Nghị định
218/CP được coi là văn bản gốc của chính sách BHXH và nó được thực hiện
trong hơn 30 năm. Tuy nhiên để phù hợp và đáp ứng với tình hình của đất nước
trong từng giai đoạn, nội dung của các quy định trong Điều lệ tạm thời đã qua 8
lần sửa đổi bổ sung với 233 văn bản hướng dẫn thực hiện. Đặc biệt là tại Nghị
định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)


Footer Page 18 of 49.

15


Header Page 19 of 49.

về sửa đổi, bổ sung một số chế độ chính sách thương binh và xã hội khi Nhà
nước thực hiện điều chỉnh giá - lương – tiền..
2.1.3 Thời kỳ từ 1/1995 đến trước hội nhập WTO
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 với chủ trương đổi mới quản lý Nhà nước từ
nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN, chính sách bảo hiểm xã hội cũng được xem xét, nghiên cứu
thay đổi sao cho phù hợp không những so với tình hình đổi mới kinh tế của đất
nước mà dần hoà nhập với những quy định, những nguyên tắc của bảo hiểm xã
hội thế giới và nhất là các nước trong nền kinh tế chuyển đổi.
Từ năm 1995, thi hành những quy định trong Bộ Luật lao động về bảo
hiểm xã hội, Chính phủ đã ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 áp dụng
đối với công chức, công nhân viên chức Nhà nước, người lao động theo loại
hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ
quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nội dung của Điều lệ bảo
hiểm xã hội này đã đã được đổi mới cơ bản và khắc phục được những nhược
điểm, tồn tại mà Điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời ban hành những năm trước
đây, đó là:
- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ bao gồm lao
động trong khu vực Nhà nước mà người lao động trong các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên cũng có quyền tham gia bảo

hiểm xã hội.
- Đề cập đến vấn đề bảo hiểm xã hội tự nguyện và vấn đề tham gia đóng
góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động, người lao động và
hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội.

Footer Page 19 of 49.

16


Header Page 20 of 49.

- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, tập trung trong cả nước,
độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo trợ,
cơ chế quản lý tài chính được thực hiện theo quy định của Nhà nước.
- Về các chế độ bảo hiểm xã hội, quy định 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, không còn chế độ trợ cấp
mất sức lao động mà những người mất khả năng lao động được quy định chung
trong chế độ hưu trí với mức hưởng lương hưu thấp. Trong từng chế độ có quy
định cụ thể hơn về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng.
- Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội được cấp sổ bảo hiểm xã hội, sổ
bảo hiểm xã hội ghi chép, phản ánh quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, mức
tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và các chế độ bảo hiểm xã hội đã
được hưởng.
- Đối với lực lượng vũ trang cũng đã có quy định riêng về bảo hiểm xã hội
(Nghị định số 45/CP của Chính phủ).
- Tài chính bảo hiểm xã hội được đổi mới cơ bản, tập trung ở những nội
dung chủ yếu sau:
+ Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của người
sử dụng lao động và người lao động là chính, Nhà nước hỗ trợ cho nguồn Quỹ

bảo hiểm xã hội là thứ yếu khi cần thiết. Mức đóng góp hàng tháng được quy
định bắt buộc thuộc trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao
động. Với quy định về mức đóng góp rõ ràng đã làm cho người lao động và
người sử dụng lao động thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc
đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội.
+ Quỹ bảo hiểm xã hội được tách khỏi ngân sách Nhà nước, hạch toán độc
lập; quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn và tăng
trưởng. Quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo thu đủ để chi và có phần kết dư, bảo đảm
tính chất của bảo hiểm xã hội đoàn kết, tương trợ giữa tập thể người lao động và
giữa các thế hệ, đồng thời đảm bảo cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã
Footer Page 20 of 49.

17


Header Page 21 of 49.

hội luôn được ổn định lâu dài. Như vậy, từ năm 1995 chính sách bảo hiểm xã
hội đã gắn quyền lợi hưởng bảo hiểm xã hội với trách nhiệm đóng góp bảo hiểm
xã hội của người lao động, xác định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động,
tạo được Quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với ngân sách Nhà nước.
+ Mức chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội được quy định cụ thể, hợp lý, phù
hợp với mức đóng góp của người lao động. Đặc biệt mức hưởng lương hưu
được quy định là 45% so với mức tiền lương nghạch bậc, lương hợp đồng cho
người có 15 năm làm việc và đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm
được thêm 2% và cao nhất là 75% cho người có 30 năm tham gia bảo hiểm xã
hội. Ngoài ra, người lao động nếu có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ năm
thứ 31 trở lên thì mỗi năm thêm được được hưởng trợ cấp một lần bằng 1/2
tháng tiền lương, tối đa không quá 5 tháng tiền lương. Với quy định này đã từng
bước cân đối được thu- chi bảo hiểm xã hội.

Do có tổ chức thống nhất quản lý, bảo tồn, phát triển quỹ và thực hiện chi
trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội đã đảm
bảo cho việc chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng quy định; khắc phục được những
tồn tại trước đây.
Trong quá trình thực hiện theo những quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội
từ năm 1995 đến trước khi gia nhập WTO, chính sách bảo hiểm xã hội đã có
những sửa đổi, bổ sung:
- Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Bổ sung đối tượng là cán bộ xã,
phường, thị trấn theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP thực hiện từ 1/1998; đối
tượng là người lao động làm việc trong các tổ chức thực hiện xã hội hóa thuộc
ngành giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao theo Nghị định số 73/1999/NĐCP của Chính phủ.
- Về chính sách bảo hiểm xã hội: Có sửa đổi, bổ sung cả về mức đóng, tỷ lệ
hưởng, điều kiện hưởng và phương pháp tính lương hưu tại các Nghị định số
93/1998/NĐ-CP, số 94/1999/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Điều

Footer Page 21 of 49.

18


Header Page 22 of 49.

lệ bảo hiểm xã hội; Nghị định số 04/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số Điều của Luật Sĩ quan Quân đội năm 1999; Nghị định số 61/2001/NĐ-CP về
chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động khai thác trong hầm lò; Quyết
định số 37/2001/QĐ-CP về chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức; Nghị quyết số
16/2000/NQ-CP về tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính sự nghiệp và
Nghị quyết số 41/2002/NĐ-CP về sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước.
Với những sửa đổi, bổ sung về chính sách bảo hiểm xã hội quy định tại các
văn bản trên, có ảnh hưởng nhiều đến việc quản lý quỹ và cân đối quỹ bảo hiểm

xã hội. Ngoài ra, từ năm 1995 đến nay với 3 lần thay đổi mức tiền lương tối
thiểu vào các năm 1997 (Từ mức 120.000 đồng lên mức 144.000 đồng); năm
2000 (Từ mức 144.000 đồng lên mức 180.000 đồng) và năm 2001 đến nay lên
mức 210.000 đồng. Với thay đổi này thì thu bảo hiểm xã hội đối với người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội theo thang bảng lương Nhà nước vẫn thực hiện
theo mức tiền lương tối thiểu cũ, nhưng khi giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội
thì được thực hiện theo mức tiền lương tối thiểu mới tại thời điểm giải quyết chế
độ cũng như điều chỉnh theo mức tăng của mức tiền lương tối thiểu đối với
người đang hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, điều này
không những ảnh hưởng đến quỹ bảo hiểm xã hội về cân đối thu- chi mà phần
lãi suất đầu tư cũng bị giảm.
2.1.4 Từ khi gia nhập WTO đến nay
Ngày 29/06/2006, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH và có hiệu lực thi
hành từ 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ 01/01/2008 đối với BHXH tự
nguyện và từ 01/01/2009 đối với BH thất nghiệp. Việc ban hành Luật chuyên
ngành là bước phát triển vượt bậc trong xâydựng thể chế BHXH, đánh dấu thời
kỳ mới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tổ chức thực hiện BHXH theo hiến
pháp và pháp luật một cách hiệu quả. Các quy định của Luật BHXH về cơ bản
được kế thừa từ các quy định hiện hành và có phát triển một số nội dung, đặc
biệt là quy định lại loại hình BHXH tự nguyện (bao gồm chế độ hưu trí, tử tuất

Footer Page 22 of 49.

19


Header Page 23 of 49.

được quy định liên thông với BHXH bắt buộc) và bổ sung loại hình BH thất
nghiệp. Việc quy định cụ thể các chế độ trong BHXH tự nguyện được liên thông

với BHXH bắt buộc đã tạo điều kiện để người dân tham gia và thụ hưởng chế độ
hưu trí khi về già, đảm bảo an sinh xã hội về lâu dài. Đặc biệt là việc thiết kế
chính sách tuân thủ đúng nguyên tắc đóng - hưởng, có sự chia sẻ theo nhóm đối
tượng để bảo đảm khả năng chi trả của Quỹ BHXH (quy định mức tiền lương,
tiền công đóng BHXH thấp nhất, bằng mức lương tối thiểu chung, nhưng tối đa
không quá 20 lần mức lương tối thiểu chung- nay là mức lương cơ sở đã khắc
phục tình trạng mức hưởng BHXH của một số trường hợp cao bất thường trước
khi có Luật BHXH).
Mô hình tổ chức thực hiện BHXH theo quy định tại Nghị định
94/2008/NĐ-CP, Nghị định 116/ 2011/NĐ-CP và Nghị định số 05/2014/NĐ-CP
ngày 17/01/2014, theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có
chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH bắt buộc, BHXH tự
nguyện, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BH thất nghiệp; quản lý và sử dụng các
quỹ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BH thất nghiệp, BHYT theo quy định
của pháp luật. Mô hình cơ cấu tổ chức và chức năng của BHXH Việt Nam được
kiện toàn phù hợp với cơ chế quản lý hoạt động BHXH. Công tác chỉ đạo, điều
hành hoạt động chung của BHXH Việt Nam đã được đổi mới kịp thời, sát thực
tế, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
được giao, phục vụ tốt hơn đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách.
2.2 Những thành tựu đạt được và khó khăn của BHXH Việt Nam hiện
nay
2.2.1 Thành tựu
Nếu như năm 1995, Ngành BHXH mới chỉ quản lý 2,2 triệu lao động, thì
đến cuối năm 2014, số người tham gia BHXH, BHYT đã lên tới trên 64 triệu
người; số thu vào Quỹ BHXH, Quỹ BHYT tính đến năm 2014 lần lượt tăng hơn

Footer Page 23 of 49.

20



Header Page 24 of 49.

160 lần và 50 lần so với năm 1995. Điều này khẳng định, mỗi năm đã có thêm
hàng trăm ngàn lao động, hàng triệu người dân được được bảo vệ các quyền lợi
an sinh cơ bản nhất thông qua các chế độ BHXH, BHYT và góp phần từng bước
đảm bảo an sinh xã hội, tiến tới mục tiêu công bằng xã hội.
Chính sách BHXH từ chỗ chỉ thực hiện cho đội ngũ cán bộ công nhân viên chức
nhà nước đã chuyển sang thực hiện cho mọi NLĐ theo hai hình thức: BHXH bắt
buộc đối với NLĐ có quan hệ lao động với người sử dụng lao động; và BHXH
tự nguyện đối với NLĐ làm việc tự do, lao động là nông - lâm - ngư nghiệp, từ
đó nhằm tiến tới thực hiện BHXH, đảm bảo sự bình đẳng cho mọi NLĐ trong xã
hội, trên cơ sở quan hệ đóng - hưởng. Chế độ, chính sách BHXH ngày càng đi
vào hoàn thiện về mặt chuyên môn kỹ thuật. Về mặt quy phạm pháp luật cũng
đã cho thấy, chính sách BHXH từ chỗ chỉ là các Nghị định, Điều lệ tạm thời về
BHXH nay đã được nâng cấp lên cơ sở pháp lý cao hơn cụ thể là Luật BHXH
ban hành năm 2006 và tiếp tục được hoàn thiện vào năm 2014 khi Quốc hội ban
hành Luật BHXH sửa đổi. Tính từ năm 1995 đến nay, toàn Ngành đã giải quyết
cho trên 67,5 triệu lượt người hưởng các chế độ BHXH (các chế độ BHXH hàng
tháng, các chế độ BHXH một lần, các chế độ ngắn hạn (bao gồm: ốm đau, thai
sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe), chế độ BH thất nghiệp…. Nhìn chung, việc
giải quyết hưởng các chế độ BHXH, BH thất nghiệp đã được Ngành BHXH đảm
bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ .
Chính sách BHYT cũng không ngừng được thay đổi, từ năm 1992 cho đến
khi Luật BHYT năm 2008 đi vào cuộc sống và gần đây nhất- năm 2014 Quốc
hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, đánh dấu
sự hoàn thiện về mặt pháp lý đối với chính sách này, là cơ sở pháp lý cao nhất
thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện
chính sách tài chính y tế thông qua BHYT, với mục tiêu BHYT toàn dân, xây
dựng nền y tế Việt Nam theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển.

Công tác KCB BHYT trong những năm gần đây đã có nhiều cải tiến theo hướng
thuận lợi hơn với người bệnh, trung bình mỗi năm có trên 100 triệu lượt người

Footer Page 24 of 49.

21


Header Page 25 of 49.

được đảm bảo quyền lợi KCB với chi phí hàng chục ngàn tỷ đồng; quyền lợi của
người tham gia BHYT ngày càng được mở rộng. Quỹ BHYT đã trở thành nguồn
tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn chi cho
công tác KCB, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính về BHXH, BHYT thường xuyên được
rà soát và đơn giản hóa. Tính đến cuối năm 2014, các thủ tục giao dịch trong
lĩnh vực BHXH, BHYT, BH thất nghiệp chỉ còn 115 thủ tục; giao dịch BHXH
điện tử từng bước được đẩy mạnh, hiện đã có gần 55 nghìn DN thực hiện kê
khai đóng BHXH qua mạng internet; thời gian thực hiện thủ tục hành chính
trong giao dịch với các doanh nghiệp, cá nhân về kê khai tham gia BHXH,
BHYT được rút ngắn từ 335 giờ/năm xuống còn 108 giờ/năm; việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong giao dịch và quản lý của Ngành đang tiếp tục được
đẩy mạnh.
Ngày 20/11/2014, Luật BHXH sửa đổi được Quốc hội khóa XIII thông qua
tại Kỳ họp thứ 8, gồm 09 Chương, 125 Điều, quy định chế độ, chính sách
BHXH; quyền và trách nhiệm của NLĐ, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến BHXH, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ
chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan BHXH; Quỹ BHXH; thủ tục
thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH, ghi nhận thành tích trong quá
trình cải cách, đổi mới liên tục gần 20 năm qua, từng bước xây dựng, hoàn thiện

thể chế BHXH làm căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện BHXH đối với mọi
NLĐ góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
Luật BHXH sửa đổi mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc gồm:
người lao động có hợp đồng lao động 1-3 tháng, người lao động là công dân
nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan thẩm
quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của
Chính phủ và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; đối
với BHXH bắt buộc bổ sung thêm nhiều quyền lợi cho NLĐ quy định trong chế
độ thai sản, chế độ hưu trí; để phù hợp với khả năng tham gia của người dân,
Footer Page 25 of 49.

22


×