Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.96 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945, dưới con đường mà chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn, đất nước ta đã tiến theo con đường
xã hội chủ nghĩa; một xã hội lý tưởng mà lãnh đạo là giai cấp công nhân và nhân dân lao
động đoàn kết. Đây là một bước ngoặt lịch sử hết sức to lớn và quan trọng trong tiến
trình lịch sử dân tộc và mở ra một trang sử hào hùng chói lọi cho đất nước Việt Nam sau
gần 100 năm dưới ách nô lệ thuộc địa. Từ những nhiệm vụ mới được đặt ra và phải hoàn
thành, dù gặp không ít khó khăn, gian khổ thậm chí còn không biết bao đau thương mất
mát nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã hoàn thành thắng lợi công cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; hoàn thành thắng lợi cuộc Cách mạng
dân tộc dân chủ và thống nhất đất nước, quy lãnh thổ quốc gia về một mối. Đây là những
thắng lợi vô cùng to lớn vĩ đại mà không phải đảng nào, quốc gia nào cũng có thể làm
được. Chúng ta và thế hệ mai sau không những luôn luôn phải biết ơn về những điều đó
mà còn có quyển tự hào về một sử hào hùng như vậy.
Từ sau năm 1975, đất nước ta lại bước vào một chặng đường mới những nhiệm vụ
mới. Một công cuộc to lớn là xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã lựa
chọn; quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Cùng với việc xây dựng đường
lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và đường lối đối nội đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta cũng hết sức
chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống chính trị thống nhất, vững mạnh, xứng tầm và
toàn diện với nhiệm vụ của đất nước.
Đặc biệt, vào năm 1986 Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nhằm
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, bên
cạnh đó Đảng cũng xác định phải đổi mới hệ thống chính trị nhằm phù hợp với hoàn
cảnh và tình hình mới, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động.
Từ việc thấy rõ được bàn chất, đặc điểm, vai trò, nhiệm vụ và vị trí của hệ thống
chính trị ở nước ta; đồng thời thấm nhuần quan điểm xây dựng và phát huy hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị của Đảng. Nhận thức sâu sắc được rằng việc xây dựng hệ


thống chính trị không phải là công việc riêng của Đảng hay Nhà nước mà cần sự chung
tay góp sức của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Để tăng thêm hiểu biết, nhận thức về hệ

1


thống chính trị nước ta; những chủ trương đường lối của Đảng trong việc xây dựng thế
thống chính trị xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam thời kỳ đổi mới và công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước. Thêm vào đó là đóng góp một phần nhỏ vào việc tuyên truyền đường
lối chủ trương chính sách của Đảng về lĩnh vực này. Với những lý do trên, tôi lựa chọn
đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới” làm
đề tài nghiên cứu và học tập với mong muốn vận dụng những kiến thức đã tích lũy và tìm
hiểu được nhằm nghiên cứu, đưa ra những đánh giá của bản thân và đề xuất những giải
pháp nhỏ, vừa tầm với kiến thức, nhận thức của mình để góp phần vào việc xây dựng hệ
thống chính trị tại Việt Nam
2. Lịch sử vấn đề
- Trong cuốn “Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam” của Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh đã trình bày quá trình ra đời và phát triển của Đảng cộng sản Việt
Nam, nhất là về công cuộc đổi mới đất nước và việc xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh.
- Hay “Đổi mới ở Việt Nam – Tiến trình, thành tựu và kinh nghiệm” của PGS.TS
Vũ Văn Hiền – TS. Đinh Xuân Lý (Đồng chủ biên) đã khắc họa sâu sắc quá trình đổi mới
đất nước và những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực, kể cả việc xây dựng, củng cố
hệ thống chính trị.
- Giáo trình “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam” của Bộ giáo
dục và Đào tạo đã giới thiệu một cách hoàn chỉnh và hệ thống quá trình ra đời, phát triển
và những bước tiến của Đảng nhất là từ thời kỳ đổi mới với những đặc trưng riêng của
nó, đặc biệt trong giáo trình cũng đã giới thiệu về quá trình xây dựng hệ thống chính trị ở
Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám (1945) cho tới thời gian gần đây .
- Các văn kiện Đại hội Đảng và các nghị quyết Hội nghị trong suốt quá trình ra

đời, hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta
trong việc xây dựng hệ thống chính trị tại Việt Nam, những thành tựu đạt được và những
hạn chế cần khắc phục.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số tư liệu tạp chí chuyên ngành, các trang
mạng để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ hơn những thành tựu và
một số tồn tại hiện có trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
chung về công cuộc đổi mới đất nước của Đảng chứ chưa đề cập một cách toàn diện, sâu

2


sắc việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới, chính vì vậy tôi
muốn làm rõ hơn vấn đề này.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: từ năm1986 đến nay.
Đối tượng nghiên cứu: Việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị của Đảng trong

-

thời kỳ đổi mới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
đồng thời kết hợp một số phương pháp khác như: Phương pháp lịch sử và phương pháp

-

logic dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp bổ trợ: phân tích, tổng hợp và so sánh.
Phương pháp sưu tầm, nghiên cứu chọn lọc các nguồn tư liệu.

5. Các nguồn tài liệu
Văn kiện Đại hội Đảng.
Các bài viết trên sách báo và tạp chí chuyên ngành.
Kế thừa những nghiên cứu của những học giả đi trước
Mạng internet.
6. Đóng góp của đề tài
Với đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi
mới” tôi mong muốn vận dụng những kiến thức đã tích lũy và tìm hiểu được nhằm giới
thiệu một cách hoàn chỉnh về hệ thống chính trị tại Việt Nam. Bên cạnh đó cùng với quá
trình nghiên cứu, tôi mạnh dạn đưa ra những đánh giá của bản thân và đề xuất những giải
pháp nhỏ, vừa tầm với kiến thức, nhận thức của mình để góp phần vào việc xây dựng hệ
thống chính trị tại Việt Nam, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm, những mặt
tồn tại của hệ thống chính trị nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước hôm nay.

3


7. Bố cục của đề tài
-

Đề tài này được chia làm 3 phần:
Mở đầu
Nội dung:
Chương 1: Khái niệm hệ thống chính trị và những quan điểm về hệ thống chính trị
ở Việt Nam
Chương 2: Đảng lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam từ thời kỳ đổi

-

mới cho đến hiện nay.

Kết luận

4


CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về hệ thống chính trị
Trong bất kỳ một xã hội có sự phân chia giai cấp, tầng lớp, quyền lực của một chủ
thể cầm quyền tức là giai cấp cầm quyền trong xã hội đó đều được biểu hiện bằng một hệ
thống các thiết chế và tổ chức nhất định. Đó là hệ thống chính trị. Khái niệm hệ thống
chính trị xuất hiện trong triết học và đặc biệt là trong triết học Mác – Lênin. Đồng thời nó
cũng là đối tượng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Hệ thống chính trị thực chất được hiểu như là một chính thể các tổ chức chính trị
trong xã hội bao gồm Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp
pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào quá trình của
đời sống xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích
của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và thực
hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị mang bản chất
của giai cấp cầm quyền. Như vậy, theo khái niệm trên hệ thống chính trị đúng với khái
niệm hệ thống nghĩa là không chỉ bao gồm một hay một vài tổ chức mà nó là cả một hệ
thống to lớn thống nhất từ trung ương đến địa phương; được phân cấp và phục vụ lợi ích
hay nói đúng hơn là phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Chính giai cấp cầm
quyền trong xã hội có quyền và có khả năng xây dựng nên hệ thống chính trị phù hợp
cho xã hội đương thời và tương thích với lợi ích của mình.
Trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, hệ thống chính trị hình
thành và phát triển cùng với quá trình vận động của mâu thuẫn đối kháng giữa các giai

cấp gắn với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ chống lại xã
hội đó, làm thay đổi các hệ thống chính trị theo hướng tiến bộ, hoặc thủ tiêu và thay thế
nó bằng một hệ thống chính trị dân chủ, tiến bộ hơn.
Trong xã hội Xã hội chủ nghĩa giai cấp công nhân và nhân dân dân lao động chính
là chủ thể thực sự của quyền lực chính trị - xã hội, tự bản thân nó đã vận động xây dựng
và giữ vai trò quản lý xã hội, quyết định đến nội dung hoạt động của hệ thống chính trị
trong xã hội. Điển hình là tại Việt Nam với hệ thống chính trị được xây dựng theo suốt
chiều dài lịch sử và quá trình đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc cho đất nước. Dưới

5


sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, hệ thống chính trị nước ta là một cơ chế và
công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Ở Việt Nam, khái niệm “hệ thống chính trị” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng
trong Văn kiện Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VI (tháng
3/1989) thay cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”. Hệ thống chính trị này bao
gồm có: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân (Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam…). Hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây không chỉ đơn giản là sự thay đổi tên gọi mà là một
bước đổi mới quan trọng trong tư duy chính trị của Đảng ta. Hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa là sự kế thừa và phát triển các thành tựu về tổ chức và hoạt động của hệ thống
chuyên chính vô sản trong các giai đoạn trước “đổi mới”, đồng thời phản ánh một hiện
thực mới về chính trị và dân chủ trong điều kiện đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta hiện
nay.
1.2. Bản chất của hệ thống chính trị và vị trí, đặc điểm của các tổ chức chính trị ở
Việt Nam
1.2.1. Các tổ chức trong hệ thống chính trị ở Việt Nam

1.2.1.1 Đảng Cộng sản Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam ra đời từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau khi
lật đổ nền thống trị của thực dân, phong kiến, thiết lập Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Các tổ chức hợp thành hệ thống chính trị hiện nay
ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mỗi một tổ chức đều có vị
trí, vai trò và phương thức hoạt động khác nhau với những chức năng, nhiệm vụ khác
nhau dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền, sự quản lý của Nhà nước
nhằm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin

6


và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật.
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với hệ thống chính trị là điều kiện cần thiết và
tất yếu để bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm
mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Bài học kinh nghiệm của cải tổ, cải cách ở Liên Xô
(trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cho thấy, khi Đảng cộng sản không
giữ được vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, sẽ dẫn đến hậu quả làm rối loạn hệ thống
chính trị và xã hội, quyền lực chính trị sẽ không còn trong tay nhân dân và chế độ chính
trị sẽ thay đổi. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Một là, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các định hướng về

chính sách và chủ trương lớn phát triển kinh tế - xã hội để Nhà nước thể chế hoá thành
pháp luật; đồng thời Đảng là lực lượng lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường
lối của Đảng.
Hai là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và
các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước
tiếp nhận, thể chế hoá bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương
trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của
Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Ba là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới
thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Bốn là, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lãnh đạo
thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị,
tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn
khổ hiến pháp và pháp luật. Đảng thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo.
7


Để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao trình độ trí tuệ; giữ
vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong
hoạt động của Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ,
bè phái.
Đảng phải phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan

nhà nước, các đoàn thể nhân dân, khắc phục tệ quan liêu độc đoán, chuyên quyền, bao
biện làm thay; mặt khác, Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo, mất cảnh giác trước
những luận điệu cơ hội, mị dân đòi Đảng phải trả quyền lực cho Nhà nước và nhân dân.
Thực chất của những đòi hỏi đó chỉ nhằm chia rẽ Đảng với nhân dân, xoá bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng và làm thay đổi chế độ. Ở một vài nước xã hội chủ nghĩa, trong những điều
kiện lịch sử cụ thể, đã hình thành hệ thống chính trị đa đảng. Đó là các đảng liên minh
với đảng cộng sản, thừa nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản chứ không phải là đảng đối
lập. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, thành lập đảng đối lập là nguy cơ trực tiếp để mất
chính quyền vào tay các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch,
phản động hiện nay cũng đang lợi dụng chiêu bài đa đảng, đa nguyên chính trị, dân chủ
nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa bằng “diễn biến hoà bình”.
1.2.1.2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đây là tổ chức quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay
mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống
xã hội. Mặt khác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân, thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện
ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để
quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan của thị
trường. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính
trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực
8


Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan
trọng trong hệ thống chính trị. Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống
chính trị, trong đời sống xã hội được thể hiện bằng mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng
và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ để thực hiện quản lý nhà nước đối
với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính
trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, khắc phục
sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống chính trị, nhất là trong mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc
hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước, về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ
quan lập pháp.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo
cáo công tác với Quốc hội, Với ý nghĩa đó, chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước.
Cơ quan tư pháp gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan
điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm
pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà
nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là

9


cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu
hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Để bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm việc xét xử đúng
người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống
nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước.
Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là tổ chức trung tâm thực hiện
quyền lực chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị, là bộ máy thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội theo quy định của pháp luật; thay
mặt nhân dân thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Để Nhà nước hoàn thành nhiệm
vụ quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện quyền lực nhân dân giao phó, phải thường
xuyên chăm lo kiện toàn các cơ quan nhà nước, với cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất chính trị
vững vàng, năng lực chuyên môn giỏi; thường xuyên giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; có cơ chế và biện pháp ngăn ngừa tệ quan
liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm...; nghiêm trị những hành động gây rối, thù
địch; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, của các tổ chức xã hội, xây dựng và tham
gia quản lý nhà nước...
Nhận thức về vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa,
cần thấy rằng:
Một là, toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, kể cả sự lãnh đạo của Đảng
cũng phải trong khuôn khổ pháp luật, chống mọi hành động lộng quyền, lạm quyền, coi
thường và vi phạm pháp luật;

Hai là, duy trì mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân dân,
lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, quản lý đất
nước vì lợi ích của quảng đại nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc chứ không phải vì
quyền lợi hoặc lợi ích của thiểu số;

10


Ba là, không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phải luôn luôn bảo đảm sự thống nhất để
tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Tính hiệu lực và sức mạnh của Nhà nước chính là
thể hiện hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng.
1.2.1.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
Có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành
mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng,
quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và
thống nhất hành động giữa các thành viên. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa
là người lãnh đạo Mặt trận.
Các đoàn thể nhân dân vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, vừa có vai trò, vị
trí, chức năng và nhiệm vụ nhất định do Hiến pháp, pháp luật quy định và được bảo đảm
có hiệu lực thực sự trong thực tế. Tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác
định, các đoàn thể nhân dân vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp,
chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội
viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới;

tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và thực hiện
có hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Trong điều kiện mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cần
tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng
hành chính hóa, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên và nhân dân;
vận động các tầng lớp nhân dân phát huy sức sáng tạo và mọi tiềm năng trong việc thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp và chính sách của Nhà nước; thực hiện
tốt chức năng đại diện, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.

11


Đồng thời, Nhà nước có cơ chế phối hợp và bảo đảm các điều kiện cần thiết để Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh trung thực tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân; tích cực tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật; tập hợp, động viên
nhân dân đồng tâm hiệp lực thực hiện thắng lợi những chủ trương, nhiệm vụ của Nhà nước;
đồng thời, làm tốt vai trò giám sát đối với cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công
chức, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền trong sạch vững mạnh.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức thành một một hệ thống từ Trung ương
đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ
thống chính trị ở cơ sở bao gồm: tổ chức cơ sở đảng, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn và các tổ chức
chính trị - xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam xã, phường, thị
trấn… Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đưa Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn vào cuộc sống; huy động mọi khả năng phát triển
kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.

1.2.2. Bản chất của hệ thống chính trị
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, nhân
dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực nhà nước và tổ chức ra hệ thống
chính trị của mình. Do đó, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Bản chất của hệ thống chính trị nước ta được quy định bởi các cơ sở nền tảng sau:
- Cơ sở chính trị của hệ thống chính trị nước ta là chế độ nhất nguyên chính trị với
một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
- Cơ sở kinh tế của hệ thống chính trị là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Đồng thời, cơ sở kinh tế này tạo ra các xung lực để đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính
trị, nâng cao khả năng tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh tế.

12


- Cơ sở xã hội của hệ thống chính trị là dựa trên nền tảng liên minh giai cấp giữa
công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với cơ sở xã
hội là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hệ thống chính trị nước ta không chỉ là hình thức tổ
chức của chính trị nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân mà còn là hình thức tổ chức
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân, là biểu tượng
của đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Cơ sở tư tưởng của hệ thống chính trị là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là các căn
cứ lý luận để xây dựng hệ thống chính trị với chế độ nhất nguyên chính trị và định hướng
phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự nhất quán về cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng là nhân tố vừa bảo
đảm tính định hướng chính trị vừa bảo đảm tính năng động và khả năng thích ứng của hệ

thống chính trị trước sự vận động phát triển của đất nước và thế giới.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền với
quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do nhân dân
giao phó và uỷ quyền. Về thực chất, hệ thống chính trị không phải là một hệ thống tổ
chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính trị bắt nguồn từ quyền lực của
nhân dân, phát sinh từ sự uỷ quyền của nhân dân, thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Trong chế độ do nhân dân là chủ
thể duy nhất và tối cao của quyền lực chính trị, nhân dân uỷ quyền cho một hệ thống các
tổ chức bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hình thức tổ chức thực hành dân chủ; mỗi
một tổ chức trong hệ thống chính trị đều là những hình thức để thực hiện dân chủ đại
diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân. Các tổ chức này được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở các nguyên tắc dân chủ và vì các mục tiêu dân chủ. Điều đó bắt nguồn từ bản chất
của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước” [4, 84-85]. Mỗi một
tổ chức trong hệ thống chính trị vừa là một hình thức thực hành dân chủ, tổ chức các
quá trình dân chủ vừa là công cụ bảo đảm dân chủ trong xã hội, một trường học dân
chủ để giáo dục ý thức dân chủ, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.
1.2.3. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
13


Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị
Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền, mặc
dù trong những giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ chính trị Việt Nam ngoài Đảng
Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên hai Đảng này được
tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam,
thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Do vậy, về thực chất chế độ chính trị không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng
sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân
(Nhà nước), tổ chức tập hợp đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của
quần chúng (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân) vừa là tổ chức đóng
vai trò là phương tiện để Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị của mình.
Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng
là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó quy định tính nhất nguyên
tư tưởng, nhất nguyên ý thức hệ chính trị của toàn bộ hệ thống và của từng thành viên
trong hệ thống chính trị.
Thứ hai, tính thống nhất của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò,
chức năng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau tạo thành một thể
thống nhất. Sự đa dạng, phong phú về tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức
thành viên trong hệ thống chính trị tạo điều kiện để phát huy “tính hợp trội” của hệ
thống, tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống để thực hiện có hiệu quả
các nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức thành viên và của toàn bộ hệ thống chính trị.
Nhân tố quyết định tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta là sự lãnh đạo
thống nhất của một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức và hoạt động là nhân tố cơ bản bảo đảm cho hệ thống chính trị có được sự thống
nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng
như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời, tính thống nhất của hệ thống
chính trị còn thể hiện ở mục tiêu chính trị là xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nội
14


dung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hệ thống chính trị được tổ
chức như một chỉnh thể thống nhất từ Trung ương đến địa phương và cấp cơ sở.

Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong Điều lệ
của từng tổ chức.
Thứ ba, hệ thống chính trị gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân
Hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống không chỉ gắn với chính trị, quyền
lực chính trị mà còn gắn với xã hội. Do vậy trong cấu trúc của hệ thống chính trị bao
gồm các tổ chức chính trị như Đảng, Nhà nước và các tổ chức vừa có tính chính trị vừa
có tính xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội như những lực lượng
chính trị áp bức xã hội như trong các xã hội bóc lột mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó
với xã hội. Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện ngay
trong bản chất của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam là
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc;
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân là hình thức tập hợp, tổ chức của
chính các tầng lớp nhân dân.
Sự gắn bó giữa hệ thống chính trị với nhân dân còn được xác định bởi ý nghĩa: hệ
thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân; mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị
là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ tư, hệ thống chính trị có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính giai cấp và dân tộc
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cuộc
đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Giai cấp và
dân tộc hoà đồng, các giai cấp, tầng lớp xã hội đoàn kết, hợp tác để cùng phát triển.
Trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển của hệ thống chính trị (kể cả thời kỳ còn
mang tên hệ thống chuyên chính vô sản) vấn đề dân tộc, quốc gia luôn là cơ sở đoàn kết
mọi lực lượng chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam. Vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là đoàn kết giai
cấp, tập hợp lực lượng trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


15


Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định hệ thống chính trị mang bản chất
giai cấp công nhân, đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp. Do vậy trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự phân biệt giữa dân tộc và giai
cấp đều mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng, tạo nên sức mạnh tổng hợp
của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy hệ thống chính trị luôn là đại biểu cho dân tộc, là
yếu tố đoàn kết dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân và là hệ thống của dân, do dân, vì
dân.

16


CHƯƠNG 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO, XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TỪ THỜI
KỲ ĐỔI MỚI CHO ĐẾN HIỆN NAY
2.1 Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ trước đổi mới (1945-1986)
2.1.1 Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị
* Thứ nhất, hệ thống chính trị dân chủ nhân dân (giai đoạn 1945 – 1954)
Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra
đời phải đương đầu với nhiều khó khăn, nan giải tưởng chừng như khó vượt qua, đặc biệt
là trên lĩnh vực đối ngoại. Trước tình hình đó, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận định đúng tình hình, đề ra những quyết sách đúng để giữ vững chính
quyền.
Trong giai đoạn 1946 – 1954 Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã tổ chức cuộc kháng chiến trường kỳ. Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là một minh chứng cho đường lối chiến lược và
sách lược tài tình của đảng ta về chiến tranh nhân dân, về xây dựng chế độ dân chủ nhân

dân. Chính quyền dân chủ nhân dân là một công cụ đắc lực để tổ chức động viên nhân
dân kháng chiến và kiến quốc. Ra đời từ cách mạng tháng Tám, chính quyền dân chủ
nhân dân ở nước ta thực sự là chính quyền của dân, do dân và vì dân.
* Thứ hai, hệ thống chuyên chính vô sản (giai đoạn 1955 – 1975 và 1975 – 1986)
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đất nước ta tạm thời bị
chia làm 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau. Cách mạng Việt Nam lúc này thực hiện
2 chiến lược cách mạng khác nhau và do một Đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo. Một nửa
nước ở miền Bắc đi lên CNXH, trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh
chống đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam. Trong chiến tranh, như Lênin nhiều
lần khẳng định: “Hậu phương bao giờ cũng là nhân tố quyết định thắng lợi của chiến
tranh, Đảng ta sớm nhận thức rằng tăng cường nhà nước DCND là tăng cường lực
lượng miền Bắc, lực lượng có tác dụng đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất tổ quốc và đối với sự phát triển của cách mạng cả nước” [8, 7].
Nhà nước DCND ở miền Bắc từ tháng 7 năm 1954 chuyển sang nhiệm vụ lịch sử
của nhà nước chuyên chính vô sản. Tăng cường nhà nước theo quan điểm của Đảng ta
trước hết là tăng cường cơ sở chính trị, xã hội của nhà nước, nghĩa là củng cố khồi liên
minh công nông và khối đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh của nhà nước bắt nguồn từ sức
17


mạnh của nhân dân, do vậy nhất thiết phải xây dựng nhà nước thật sự dân chủ, nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Tăng cường sức mạnh của bộ máy nhà nước là tăng cường các
cơ quan nhà nước và hoạt động của nó phải theo hiến pháp và pháp luật, củng cố các cơ
quan quản lý kinh tế, văn hóa, các cơ quan nội chính quốc phòng ngoại giao vững mạnh.
Nhà nước đã xây dựng công cụ bạo lực thật sự mạnh và sắc bén, vì vậy nó đã làm tròn
chức năng xây dựng CNXH ở miền Bắc và tổ chức thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước lâu dài ở miền Nam. Nhà nước chuyên chính vô sản ở miền Bắc trong hơn 20
năm đã thực hiện thắng lợi những mục tiêu to lớn của thời kỳ lịch sử đó.
Từ tháng 4-1975, với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn tiến hành cách mạng xã

hội chủ nghĩa trong cả nước. Do đó hệ thống chính trị của nước ta cũng chuyển sang giai
đoạn mới: từ hệ thống chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản trong phạm vi nửa nước (giai đoạn 1955-1975) sang hệ thống chuyên chính
vô sản hoạt động trong phạm vi cả nước.
Bước sang giai đoạn mới, Đại hội IV (1976) của Đảng nhận định rằng, muốn đưa
sự nghiệp cách mạng đến toàn thắng, “điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và
không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.
2.1.2. Đánh giá việc thực hiện đường lối
Hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn 1975-1986 được chỉ đạo
bởi các đường lối của các Đại hội IV và V của Đảng đã góp phần mang lại những thành
tựu mà nhân dân ta đạt được trong 10 năm (1975-1986) đầy khó khăn, thử thách. Điểm
tìm tòi sáng tạo trong giai đoạn này của Đảng là đã coi làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa
là bản chất của hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta, đã xây dựng mối quan hệ Đảng
lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong hoạt động của
hệ thống chính trị ở tất cả các cấp, các địa phương.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế trong hệ thống chính trị Việt Nam ở giai đoạn
này, đó là trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng đơn vị chưa được
xác định thật rõ; mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm
tốt chức năng của mình. Chế độ trách nhiệm không nghiêm, pháp chế xã hội chủ nghĩa
còn nhiều thiếu sót. Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả mà cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp là nguyên nhân trực tiếp; các cơ quan dân cử các cấp được lựa
18


chọn, bầu cử và hoạt động một cách hình thức chủ nghĩa. Không ít cơ quan chính quyền
không tôn trọng ý kiến của nhân dân, không làm công tác vận động quần chúng, chỉ quen
dùng các biện pháp mệnh lệnh hành chính.
Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa
đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vần đề kinh tế - xã hội cơ bản và cấp bách. Nguồn

gốc sâu xa là coi nhẹ công tác xây dựng Đảng. Có tình trạng tập trung quan liêu, gia
trưởng, độc đoán trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong 10 năm (1976 – 1986)
trên 19 vạn đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng, có những người bị truy tố trước pháp luật.
Trong số đó một phần khá lớn là những đảng viên phạm sai lầm về phẩm chất đạo đức.
Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năng của các đoàn thể trong việc giáo dục, động
viên quần chúng tham gia quản lý kinh tế – xã hội. Các đoàn thể chưa tích cực đổi mới
phương thức hoạt động đúng với tính chất của tổ chức quần chúng.
Những nguyên nhân chủ quan dẫn đến những tồn tại trong hệ thống chính trị Việt
Nam thời kỳ bấy giờ có thể kể đến như sau:
-

Duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp.
Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hện bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới so với
những đột phá trong cơ chế kinh tế đang diễn ra ở các địa phương, các cơ sở trong

-

toàn quốc. Do đó đã cản trở quá trình đổi mới cơ chế kinh tế.
Bệnh chủ quan, duy ý chí; tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh, vừa hữu khuynh
trong vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những hạn chế, sai lầm trên đây cùng những yêu cầu của công cuộc đổi mới, đã

thúc đẩy chúng ta phải đổi mới hệ thống chuyên chính vô sản thành hệ thống chính trị
trong thời kỳ mới.
2.2. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới
2.2.1 Quá trình hình thành đường lối đổi mới hệ thống chính trị
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12.1986) đã
quyết định đường lối và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Ngay từ khi bắt
đầu đổi mới, Đảng chú trọng đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, hệ thống chính sách
kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị. Tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 Khóa VI

(3.1989), Đảng chính thức sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị”. Kết hợp chặt chẽ đổi
mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị. Từ kết quả đổi mới kinh tế, từng bước đổi
mới hệ thống chính trị. Chính trị là lĩnh vực trọng yếu, lại rất nhạy cảm mà nếu mắc sai
lầm sẽ dẫn tới đổ vỡ, thất bại. Vì vậy, đổi mới hệ thống chính trị phải rất thận trọng, thực
19


hiện từng bước vững chắc. Từ thực tiễn đổi mới của Việt Nam, từ bài học khủng hoảng,
đổ vỡ trong cải tổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, ngay từ những năm đầu của công
cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên quyết bác bỏ và xử lý mưu đồ đòi đa
nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập.
Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới cũng là quá trình không ngừng đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Cộng sản cầm quyền; tăng cường xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và xây dựng, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Một trong những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới là giữ vững sự ổn định
chính trị, giữ vững và làm sáng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Có được sự ổn định chính
trị mới có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và phát triển đất nước bền vững. Hệ thống
chính trị vững mạnh có vai trò quyết định đối với sự ổn định chính trị, phát triển đất
nước.
Đại hội Đảng lần thứ VII (9/1991) cũng đã đánh giá những thành tựu đã đạt được
trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhấn mạnh “mục tiêu tổng
quát của 5 năm tới là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội,
tăng cường ỏn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội” [3, 326]. Đồng thời đại
hội VII cũng đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và vạch ra những
đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng.
Tiếp đó, đại hội VIII (6/1996) của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã một lần nữa
khẳng định những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước, đặc biệt Đại
hội đã nhấn mạnh “Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều thiếu sót. Hệ thống

chính trị còn nhiều nhược điểm” [3, 613]. Đại hội cũng vạch ra những bài học kinh
nghiệm để xây dựng đất nước trong giai đoạn tới, trong đó nhấn mạnh “Kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng
thời từng bước đổi mới chính trị. Phát huy dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân” [3, 615]. Những quan điểm đó chứng tỏ nhiệm vụ
xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta được đặt lên một tầm quan trọng lớn nhằm ổn định
và phát triển đất nước.
Đại hội lần thứ IX (4/2001) của Ban chấp hành TW Đảng cũng đã đánh giá thành
tựu của 15 năm đổi mới trong đó khẳng định “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được
20


chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố” [4, 15] và nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho hệ
thống chính trị nước ta ngày càng vững mạnh.
Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006) đã đánh giá 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội
IX của Đảng và nhìn lại 20 năm đổi mới, trong đó khẳng định thành tựu đạt được “Việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công tác
xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực” [4, 303]. Điều đó đã chứng tỏ sự ổn định và
vững mạnh của hệ thống chính trị Việt Nam. Đại hội cũng đưa ra phương hướng tổng
quát của 5 năm 2006 – 2010 với nhiều mục tiêu cần đạt trong đó mục tiêu “giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
[4,310].
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) đã đánh giá những
thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng
ta là đúng đắn, sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật
khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Chỉ có

chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát
triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đại hội cũng đề ra mục tiêu
chiến lược trong thời kỳ mới “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” [5, 54]. Đó là
những bước để kiện toàn và phát triển hệ thống chính trị ở nước ta.
2.2.2. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ
đổi mới
2.2.2.1. Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ thống chính trị
Về mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới đã được Đảng ta
xác định như sau: “Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện
tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làmm chủ của nhân dân. Toàn
bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm

21


xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân” [1, 179].
Về quan điểm xây dựng hệ thống chính trị, Đảng ta nhấn mạnh:
“Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước làm đổi mới chính trị.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không
phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm
cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối
đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của sự công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn với kinh
tế tri thức, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có

bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã
hội phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân” [1,179 – 180].
2.2.2.2. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị
Thứ nhất, Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị
Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc. Đại hội X đã bổ sung một số nội dung quan trọng: “Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” [3, 350].
Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Đảng lãnh đạo xã hội
bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác;
bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và
phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị” [2, 21].

22


Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh năm 1991 xác
định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hành động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [2, 21].
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ đối
với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của
cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ

với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích
ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng
thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với
đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.
Thứ hai, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và
thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Trong lịch sử loài người chỉ có 4
kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ chức phân công quyền lực của nhà
nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng theo 5 đặc điểm
sau đây:
-

Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

-

Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp.

-

Nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến
pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội.

23


-

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm
pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương,
kỷ luật.

-

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có sự
giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức
thành viên của Mặt trận.
Để có thể xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với những đặc
trưng trên thì cần có những biện pháp sau:

-

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản
pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong
các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.

-

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm
nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đổi mới quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc
ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của

đất nước và chức năng giám sát tối cao.

-

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.

-

Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, quyền con người. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm hiến pháp
trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

-

Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bảo đảm
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được
phân cấp.
Thứ ba, Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan
trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh
tế, văn hoá xã hội; an ninh, quốc phòng.
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện
tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.

24



Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục
tình trạng hành chính hoá, nhà nước hoá, phô trương, hình thức; nâng cao chất lượng
hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học
dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
2.2.3. Đánh giá sự thực hiện đường lối
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (5.2013) đã chủ
trương: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Trung
ương đã tập trung đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX (3.2002)
Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn và
Nghị quyết Trung ương 4 Khóa X (2/2007) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ
quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Các nghị quyết quan trọng đó đã được thực hiện nghiêm
túc.Từ đó đưa ra những tổng kết quan trọng:
Thứ nhất về thành tựu:
Hệ thống các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội từ Trung ương tới cơ sở, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân từng
bước được sắp xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác được phân
định, điều chỉnh hợp lý hơn, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và
nâng cao chất lượng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm yêu cầu lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, thích ứng với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, về hạn chế:
Cùng với những thành công trong đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị, Trung
ương đã nhấn mạnh, cho đến nay, tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan chưa hợp lý, còn cồng
kềnh, nhiều đầu mối và tầng nấc trung gian. Mục tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu
cầu đề ra. Chất lượng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, dự báo
tình hình, tham mưu, đề xuất với Trung ương những vấn đề mang tính chiến lược về phát

triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, đối
ngoại. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
25


×