Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.1 MB, 106 trang )

Header Page 1 of 149.

LUẬN VĂN:
Tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Footer Page 1 of 149.


Header Page 2 of 149.

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 20 năm đổi mới, nền nông nghiệp của nước ta phát triển toàn diện với tốc độ
khá, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 5,5%/năm. An ninh lương thực
được đảm bảo. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 500 ngàn đến 1 triệu tấn
lương thực, Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005,
nước ta đứng thứ nhất trên thế giới về xuất khẩu hạt tiêu, đứng thứ hai về xuất khẩu gạo,
cà phê, hạt điều, đứng thứ tư về xuất khẩu cao su. Đạt được những thành tựu như trên có
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng đó là đã từng bước chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường.
Trong ngành nông nghiệp, cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến
bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá
trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Những thành tựu
chung về sản xuất nông nghiệp của đất nước có sự đóng góp của nông nghiệp tỉnh Thanh
Hóa.
Thanh Hóa, một tỉnh đất rộng người đông có tới 80% dân số sống ở vùng nông
thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Sản xuất nông nghiệp ở Thanh Hóa trước đây nhỏ,
lẻ, manh mún nhiều vùng sản xuất độc canh, nhiều vùng sản xuất mang tính tự cung, tự
cấp hầu hết. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra chưa trở thành hàng hóa. Kể từ Đại hội


Đảng VI (năm 1986), cùng với công cuộc đổi mới thì nông nghiệp ở Thanh Hóa cũng có
bước phát triển và đổi khác. Đặc biệt là sau khi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX chủ
trương:
Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới... Cần đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng
hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng.
Chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm, thu hút nhiều
lao động ở nông thôn...8.

Footer Page 2 of 149.


Header Page 3 of 149.

Là hướng đi đúng đắn mà Thanh Hóa phải đầu tư để phát triển ngành nông
nghiệp. Để nền nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa phát triển đúng hướng, phát huy tối đa
tiềm năng phong phú của địa phương và có một cơ cấu hợp lý đòi hỏi các cấp, các
ngành cần tập trung quan tâm trong đó ngành Ngân hàng có một vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc cung ứng vốn. Bởi vì, trong các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
thì vốn là một yếu tố rất quan trọng.
Xuất phát từ thực tiễn đó, bản thân là cán bộ đang công tác tại Ngân hàng
No&PTNT Thanh Hóa, tác giả chọn đề tài: “Tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, góp phần giải quyết những vấn
đề bức xúc trong thực tiễn và nhất là góp phần nâng cao trình độ chuyên môn của tác giả
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề

tài luận văn của tác giả.
Trước hết là những nghiên cứu về đổi mới tín dụng Ngân hàng nói chung. ở khía
cạnh này, một số nhà nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn đã có nhiều công trình nghiên cứu
sâu sắc như TS Cao Sĩ Kiêm, PGS,TS Nguyễn Đình Tự, PGS,TS Đỗ Tất Ngọc, TS
Nguyễn Đắc Hưng, TS Lê Xuân Nghĩa ...
Về khí cạnh chuyển dịch CCKT nông nghiệp, CCKT nông thôn, nhiều tác giả như
PGS,TS Nguyễn Sinh Cúc, GS,TSKH Lê Đình Thắng, GS,TS Nguyễn Thế Nhã ... đã có
những công trình nghiên cứu sâu sắc.
Trong những năm gần đây, một một số công trình nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến
đổi mới hệ thống ngân hàng và chuyển dịch CCKT trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Về mối quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn
đã có nhiều công trình nghiên cứu.
Một số học viên Cao học, Nghiên cứu sinh cũng đã có những công trình nghiên cứu
liên quan đến tác động của tín dụng Ngân hàng với chuyển dịch CCKT, chuyển dịch
CCKT nông nghiệp, nông thôn như: Hoàng Việt Trung, Cao Đức Khải, Nguyễn Thị
Nhung ...

Footer Page 3 of 149.


Header Page 4 of 149.

Một số học viên cao học, cán bộ nghiên cứu đã có những công trình cùng hướng
nghiên cứu với đề tài là:
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển vùng nguyên liệu mía đường
tỉnh Thanh Hóa năm 2000”. Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Hữu Hòa. Tác giả luận
văn ThS Nguyễn Hữu Hòa đã phân tích rõ tác động của tín dụng ngân hàng đến phát triển
vùng nguyên liệu mía, trình bày một số mối quan hệ phát sinh như quan hệ giữa ngân hàng
với nhà máy đường, quan hệ giữa ngân hàng với các đơn vị sản xuất mía.
- “Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm phát triển ngành

nông nghiệp tại tỉnh Thanh Hóa năm 2004”. Luận văn thạc sĩ kinh tế của Đặng Ngọc Ba.
Tác giả Đặng Ngọc Ba đã trình bày rõ nguồn vốn tín dụng NHNo&PTNT đối với tăng
trưởng và phát triển nông nghiệp của tỉnh, đồng thời nêu ra những giải pháp để tăng cường
vai trò của NHNo&PTNT tỉnh Thanh Hóa. Tuy vậy, do phạm vi nghiên cứu đề tài rất
rộng, nên tác giả chưa có điều kiện phân tích tác động của tín dụng NHNo&PTNT đến
chuyển dịch CCKT nông nghiệp của tỉnh.
- “Giải pháp sử dụng vốn đầu tư chuyển dịch các thành phần kinh tế ở nước ta hiện
nay”. Tạp chí ngân hàng, số 9/2004 của thạc sĩ Trần Tùng Lâm. Tác giả Nguyễn Tùng
Lâm đã tổng quan quá trình đổi mới tư duy và chính sách về sở hữu, về các thành phần
kinh tế và nêu lên một số định hướng giải pháp sử dụng vốn đầu tư như là công cụ để thúc
đẩy sự phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta.
- “Sự hình thành và quá trình phát triển của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ ở
Việt Nam”. Tạp chí Ngân hàng số 9/2005,10/2005,11/2005, 12/2005 của PGS TS Đỗ Tất
Ngọc. Cùng với báo cáo tổng kết 15 năm hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam, công trình
của PGS,TS Đỗ Tất Ngọc đã trình bày rõ lịch sử hình thành chủ trương, chính sách đối với tín
dụng kinh tế hộ ở Việt Nam. Phát hiện những thành công, những vấn đề cần đặt ra giải quyết.
- “Đầu tư phát triển kinh tế hộ”. Nxb Lao động, Hà Nội, năm 2006 của tập thể
nhiều tác giả. Các tác giả đã tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, đưa ra một số giải pháp
về tín dụng ngân hàng thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch CCKT ở một số ở một số địa
phương.
- Một số bài viết khác có đề cập nhiều khía cạnh liên quan nội dung nội dung luận
văn của tác giả, được đăng trên Tạp chí Ngân hàng, Thời báo Kinh tế Việt Nam cũng được

Footer Page 4 of 149.


Header Page 5 of 149.

tác giả nghiên cứu kế thừa. Tuy vậy, chưa có đề tài nghiên cứu nào trùng với đề tài luận
văn của tác giả. Trên cơ sở tham khảo, kế thừa và chọn lọc những nội dung của các công

trình nghiên cứu trước đây, tác giả nghiên cứu tìm tòi, đề xuất kiến nghị, giải pháp đổi mới
nhằm tiếp tục phát huy vại trò tín dụng NHNo&PTNT Thanh Hóa đối với chuyển dịch
CCKT nông nghiệp của tỉnh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
- Mục tiêu: Luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp tín dụng
NHNo&PTNT Thanh Hóa góp phần thúc đẩy chuyển dịch CCKT trong nông nghiệp của
tỉnh đến năm 2010. Đồng thời tác giả mạnh dạn đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao tác
động của tín dụng NHNo&PTNT đối với quá trình chuyển dịch CCKT trong nông nghiệp
địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện những mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa một số lý luận về vai trò của tín dụng ngân hàng đối với chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Đánh giá hiện trạng thực hiện vai trò của tín dụng NHNo&PTNT Thanh Hóa đối với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa.
- Trình bày nội dung những biện pháp chủ yếu để tăng cường tác động của tín dụng
NHNo&PTNT Thanh Hóa đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có nhiều tổ chức tín dụng tham gia đầu tư đối với lĩnh
vực nông nghiệp, nhưng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa
là Ngân hàng đầu tư chủ yếu cho lĩnh vực này, nên luận văn chỉ nghiên cứu trong phạm vi
cung cấp tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa
cho quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Tác động của tín dụng Ngân hàng đến CCKT nông nghiệp được xem xét ở giác độ
ngành nghề, sản phẩm, tác giả không đi sâu phân tích chuyển dịch CCKT nông nghiệp
theo vùng và thành phần kinh tế.

Footer Page 5 of 149.



Header Page 6 of 149.

Về thời gian: Nghiên cứu tác động của tín dụng ngân hàng đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa từ năm 2001 đến năm 2005 và giải pháp đến năm
2010.
Về nội dung: Tác động của tín dụng NHNo&PTNT đến chuyển dịch CCKT nông
nghiệp của tỉnh vừa chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế vĩ mô

(như chính sách của

NHNN trung ương, tình hình phát triển kinh tế xã hội, sự chỉ đạo của chính quyền tỉnh Thanh
Hóa…), vừa chịu ảnh hưởng của năng lực, ý thức kinh doanh của các đơn vị nông nghiệp vay
vốn ngân hàng và bản thân chất lượng hoạt động của NHNo&PTNT Thanh Hóa. Vì thế, trong
đánh giá hiện trạng và nhất là trong đề xuất giải pháp, luận văn tập trung chủ yếu phân tích,
lý giải những vấn đề về hoạt động của NHNo&PTNT tỉnh Thanh Hóa
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn lấy phép biện chứng duy vật của triết học mác xít làm cơ sở phương pháp
luận. Đồng thời sử dụng phương pháp nghiên cứu nghiệp vụ như điều tra, so sánh, tổng
hợp... để phân tích làm sáng tỏ vấn đề.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng tổng hợp của nhiều nhân tố. Trong đó
vốn là nhân tố quan trọng nhưng không phải là nhân tố duy nhất. Hơn nữa, ngoài vốn vay
của NHNo&PTNT tỉnh, các đơn vị kinh doanh nông nghiệp của tỉnh còn vay của các tổ
chức tín dụng khác. Để xác định được tác động của tín dụng NHNo&PTNT tỉnh đối với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, tốt nhất là sử dụng các phương pháp định
lượng để xác định rõ mức đóng góp của tín dụng NHNo&PTNT đối với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Do nhiều nguyên nhân, luận văn không thực hiện được
lượng hóa mà chỉ dùng những tư liệu mà theo tác giả là có khả năng phản ánh được đóng
góp của tín dụng NHNo&PTNT đối với chuyển dịch CCKT nông nghiệp của tỉnh.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương, 11 tiết.

Footer Page 6 of 149.


Header Page 7 of 149.

Chương 1
Những lý luận cơ bản về Vai trò của
tín dụng Ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp

1.1. Khái niệm và nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.1 Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Những năm gần đây, phạm trù cơ cấu kinh tế được nhiều tài liệu, cá nhân, tổ chức
nghiên cứu, tiếp cận. Có thể hiểu một cách khái quát, cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ
phận hợp thành nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Từ điển Bách khoa Việt Nam viết
rằng: “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ
tương đối hợp thành” [42, tr 610]. Có nhiều cách phân loại các bộ phận hợp thành của nền
kinh tế. Trong nền kinh tế, có thể các bộ phận hợp đó được xem xét ở khía cạnh ngành, sản
phẩm; theo vùng hoặc theo thành phần kinh tế. Tuy thế, các bộ phận đó không cố định
vĩnh viễn và vị trí của chúng trong nền kinh tế cũng thay đổi. Do đó có thể hiểu: “Cơ cấu
kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của
chúng và mối quan hệ và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành” [15, tr 234].
Các bộ phận đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các
quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian
nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, nhằm đạt được hiệu quả
kinh tế - xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế đó phản ánh được các yêu cầu của qui luật khách
quan như: qui luật tự nhiên, qui luật kinh tế- xã hội. Thông qua việc nhận thức đầy đủ và

sâu sắc các qui luật khách quan, con người phân tích đánh giá hiện trạng, nhận biết được
xu hướng biến đổi của cơ cấu kinh tế, trên cơ sở đó tìm ra các phương án xác lập cơ cấu
kinh tế cụ thể và lựa chọn phương án tối ưu có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Đồng
thời tìm ra các giải pháp hữu hiệu để đưa cơ cấu kinh tế đó đi vào cuộc sống.
Một nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng cao, tương đối ổn định thường gắn
liền với hiện nền kinh tế có một cơ cấu hợp lý.
Kinh tế nông nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân và hợp thành cơ cấu
của nền kinh tế. Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp có vai trò quyết định kinh tế nông

Footer Page 7 of 149.


Header Page 8 of 149.

thôn và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội của đất nước ta vì nước ta có tới hơn
70% dân số sống ở nông thôn. Nông nghiệp là ngành có vị trí trọng yếu trong nông thôn
nước ta, nó là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình sinh học gồm nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản. Từ khái niệm chung về cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân, có thể
hiểu cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các bộ phận hợp thành của ngành nông nghiệp
với vị trí, tỷ trọng tương ứng và có mối quan hệ hữu cơ tương đối, ổn định hợp thành.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là mối quan hệ tương quan tỉ lệ giữa nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản. Trong nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi. Trồng trọt được
phân ra thành các ngành như trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn
quả, cây thức ăn gia súc, cây cảnh, cây dược liệu... Chăn nuôi gồm có: chăn nuôi đại gia súc,
gia cầm, nuôi ong, nuôi tằm...
Trong lâm nghiệp gồm trồng mới và chăm sóc rừng và các dịch vụ phục vụ lâm
nghiệp.
Trong ngành thủy sản cũng bao gồm nhiều loại như nuôi tôm, nuôi cá nước ngọt,
nước lợ...
Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phát triển và tạo thành cơ cấu

nông nghiệp.
1.1.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố, cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ không ngừng
thay đổi. Quá trình thay đổi đó thể hiện ở ba nội dung chủ yếu sau đây:
- Cơ cấu kinh tế ngành: Cơ cấu kinh tế ngành là cơ cấu kinh tế thể hiện sự phân
công lao động giữa các ngành, như ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản.
Trong mỗi ngành lại phân chia thành các ngành nhỏ hơn và có cơ cấu nhất định, cơ cấu
nhỏ nằm trong cơ cấu lớn. Các loại cơ cấu đó tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng
phát triển.
Xu hướng vận động của cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, tăng tỷ
trọng ngành dịch vụ thương mại thích ứng với sự phát triển của kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.

Footer Page 8 of 149.


Header Page 9 of 149.

- Cơ cấu kinh tế vùng: Cơ cấu kinh tế vùng thể hiện sự phân công lao động trên lãnh
thổ với lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng mà hình thành các vùng
kinh tế theo hướng sản xuất chuyên môn hóa, đa dạng hóa nhằm khai thác có hiệu quả các
nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong vùng, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững.
Xu hướng vận động của cơ cấu kinh tế vùng là phát triển theo hướng tăng cường sự
hợp tác, liên kết giữa các vùng, làm cho mỗi vùng có cơ cấu kinh tế hợp lý tạo điều kiện
cho các vùng điều phát triển, giảm sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng.
- Cơ cấu các thành phần kinh tế: Cơ cấu các thành phần kinh tế là cơ cấu giữa các
thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Trong điều kiện nước ta hiện nay, xu hướng vận động của
các thành phần kinh tế là phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Trong kinh tế nhà

nước thì trước hết là các doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại để thực
sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cả về kinh tế và môi trường pháp lý để các thành phần kinh tế khác yên tâm
phát triển, vì mục tiêu là tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, tăng thu nhập và cải thiện
đời sống nhân dân.
Ngoài 3 loại cơ cấu kinh tế nói trên, cơ cấu kinh tế còn bao gồm cơ cấu kinh tế, kỹ
thuật, cơ cấu tái sản xuất và cơ cấu của các yếu tố cấu thành nền sản xuất xã hội như cơ
cấu lao động, cơ cấu thị trường, cơ cấu hàng hóa dưới hình thái hiện vật hoặc giá trị...
Tóm lại, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thể hiện trình độ phát triển kinh tế của
ngành, mỗi vùng của từng địa phương, trong đó cơ cấu cơ cấu kinh tế ngành là nội dung
quan trọng nhất. Cơ cấu kinh tế vùng có ý nghĩa đối với nhiệm vụ hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa giữa các vùng miền, đồng
thời phát huy được lợi thế tiềm năng của từng vùng. Cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp sẽ
tạo ra nội lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cũng như cơ cấu nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chịu ảnh hưởng
tổng hợp của nhiều nhân tố. Có nhiều cách tiếp cận, phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến
cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Sau đây là cách phân loại các nhân tố phổ biến mà nhiều tài
liệu nghiên cứu đã sử dụng:

Footer Page 9 of 149.


Header Page 10 of 149.

1.2.1. Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên:
Sản xuất nông, lâm, ngư gắn bó chặt chẽ với các điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý,
tài nguyên đất, nước, rừng, biển, tài nguyên sinh vật... Tác động của con người vào lĩnh
vực nông nghiệp cũng phải tuân thủ qui luật tự nhiên có như vậy sản xuất kinh doanh mới
đạt hiệu quả cao. Trong thời đại khoa học, công nghệ hiện nay, con người có thể lợi dụng

và cải tiến điều kiện tự nhiên để phục vụ cho lợi ích của mình. Vị trí địa lý, khí hậu, tài
nguyên thiên nhiên ảnh hưởng lớn đến sự phân bổ và phát triển các ngành trong nông
nghiệp. Đây là điểm cần chú ý trong hoạch định chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, Do vậy nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến chuyển
dịch CCKT vì mục tiêu cuối cùng của sản xuất là hiệu quả kinh tế xã hội.
1.2.2. Nhóm nhân tố về điều kiện kinh tế - xã hội
Các nhân tố như thị trường, vốn, kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, các chính sách và
biện pháp kinh tế của Nhà nước, tình hình dân số, lao động, tập quán sản xuất. Sự hình
thành đô thị, tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, phân công lao động xã hội và hợp tác quốc tế
cũng có ảnh hưởng lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Nhóm nhân tố này đã
tác động và ảnh hưởng đến tốc độ chuyển dịch, quy mô chuyển dịch CCKT theo ngành
nghề, theo từng loại cây trồng, vật nuôi, theo vùng, miền để khai thác triệt để nhóm nhân
tố về điều kiện tự nhiên thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT.
Hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã nêu có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không ngừng vận động.
1.3. Phương pháp phân tích, đánh giá chuyển dịch Cơ Cấu Kinh Tế ngành
nông nghiệp
Để chuyển một nền nông nghiệp từ tự túc, tự cấp chuyển sang nền nông nghiệp
hàng hóa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta
phải từng bước chuyển dịch. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
CNH,HĐH cần kết hợp hài hòa giữa tác động của Nhà nước và thị trường. Chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp là sự thay đổi của các bộ phận hợp thành của ngành nông nghiệp có hướng
đích, có mục tiêu.
Thông thường, trong việc phân tích đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, cần phải phân tích rõ sự vận động, thay đổi của các bộ phận trong cơ cấu để thấy

Footer Page 10 of 149.


Header Page 11 of 149.


rõ xu hướng chuyển dịch CCKT và nguyên nhân. Đồng thời, cần đánh giá lợi ích kinh tế,
xã hội và môi trường do quá trình chuyển dịch CCKT mang lại. Có rất nhiều phương pháp
phân tích, đánh giá bộ phận hợp thành CCKT ngành nông nghiệp, chẳng hạn phân tích cơ
cấu ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi, ngành dịch vụ, chế biến... Phân tích xu hướng vận
động của từng ngành, như ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản và nội bộ các
ngành trên, đồng thời chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi đó, đánh giá tính hợp lý,
hiệu quả của chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Thông thường, cần sử dụng các chỉ tiêu sau:
a) Cơ cấu các ngành theo giá trị sản xuất.
Như giá trị sản xuất của ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản. So sánh
sự thay đổi cơ cấu giữa đầu kỳ với cuối kỳ để rút ra sự tiến bộ của chuyển dịch CCKT.
- Cơ cấu về sử dụng đất đai như cơ cấu đất đai cho sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản...
- Cơ cấu về vốn đầu tư cho các ngành, cơ cấu phân bổ về lao động cho các ngành...
b) Hiệu quả kinh tế của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải nhằm đạt tới mục tiêu hiệu quả kinh
tế - xã hội và môi trường. Để làm rõ được tác động trên, thường sử dụng các nhóm chỉ tiêu
sau:
Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế: Giá trị sản phẩm trên 1 đơn vị diện tích;
tỷ xuất hàng hóa; lợi nhuận trên 1 đơn vị diện tích đất đai sử dụng cho nông nghiệp v.v ...
Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xã hội, môi trường: Về xóa đói giảm nghèo, về
tạo việc làm, tỉ lệ hộ du canh du cư, tỉ lệ đất trống đồi núi trọc, tỉ lệ đất bị xói mòn, rửa
trôi, v.v ...
1.4. Vai trò tín dụng Ngân hàng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp
1.4.1. Khái niệm và phân loại tín dụng Ngân hàng
1.4.1.1. Khái niệm
Tín dụng ra đời từ khi có sự phân công lao động và xuất hiện chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất. Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển thì quan hệ tín dụng càng được mở
rộng, do nhu cầu về đầu tư tìm kiếm lợi nhuận, nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng. Đặc


Footer Page 11 of 149.


Header Page 12 of 149.

điểm của tuần hoàn vốn là có lúc ở nơi này thừa vốn, nhưng có nơi khác lại rất cần phải bổ
sung vốn. Do đó, đòi hỏi phải có tín dụng làm cầu nối giữa nơi thừa vốn và nơi thiếu vốn.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, thì tín dụng xuất phát trên cơ
sở lòng tin, nghĩa là người cho vay tin tưởng vào người đi vay sử dụng vốn có hiệu quả
và hoàn trả vốn đúng thời hạn cả vốn và lãi. Tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho
vay và người đi vay, là người chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện
vật theo những điều kiện mà hai bên thỏa thuận.
Nhưng theo cách hiểu đơn giản nhất thì: Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên
tắc hoàn trả cả vốn và lãi giữa bên đi vay và bên cho vay.
Tín dụng Ngân hàng là mối quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là Ngân hàng,
một tổ chức hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các tổ chức,
cá nhân trong xã hội mà trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay.
1.4.1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng
Dựa theo một số tiêu chí cụ thể có cách phân loại sau:
+ Theo thời hạn cho vay:
- Tín dụng ngắn hạn: thời hạn cho vay dưới 12 tháng.
- Tín dụng trung hạn: thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
- Tín dụng dài hạn: thời hạn cho vay trên 60 tháng.
+ Theo hình thức bảo đảm nợ vay:
- Tín dụng không có bảo đảm.
- Tín dụng có đảm bảo.
+ Theo cách thức cấp tín dụng:
- Tín dụng trực tiếp.

- Tín dụng gián tiếp.
1.4.2. Phương thức cho vay
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn vay của khách hàng, và khả năng nguồn vốn của
ngân hàng, để lựa chọn phương thức cho vay phù hợp:

Footer Page 12 of 149.


Header Page 13 of 149.

- Cho vay từng lần: áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn từng lần, mỗi
lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện các thủ tục vay vốn cần thiết và ký
hợp đồng tín dụng 21.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa
thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định 21. Phương
thức này áp dụng đối với khách hàng vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định.
Sau khi nhận đủ các tài liệu khách hàng cung cấp, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định
và thỏa thuận với nhau một hạn mức tín dụng bảo đảm mức cho vay không vượt quá hạn
mức tín dụng đã ký kết.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện
các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống 21. Tổ chức tín dụng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thỏa thuận mức đầu
tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định kỳ hạn nợ, và tiến hành giải ngân
theo tiến độ thực hiện dự án.
- Cho vay hợp vốn: Việc nhiều tổ chức tín dụng (từ 2 tổ chức tín dụng trở lên) cùng
cho vay một khách hàng trong đó một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp,phối hợp với
các tổ chức tín dụng khác 21. Cho vay hợp vốn thường được gọi là đồng tài trợ tín dụng.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn tổ chức tín dụng và khách hàng vay vốn xác định và
thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra theo nhiều kỳ hạn trong thời
hạn cho vay 21. Cho vay trả góp thường được sử dụng chủ yếu cho vay phục vụ đời sống

cho các đối tượng có thu nhập ổn định.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng
và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng dự phòng, mức phí trả
cho hạn mức tín dụng dự phòng 21
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng vượt chi số tiền trên tài khoản thanh toán của
khách hàng phù hợp với với quy định của chính phủ và ngân hàng nhà nước về hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán 21.

Footer Page 13 of 149.


Header Page 14 of 149.

- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Là việc tổ chức
tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín
dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền tại máy rút tiền tự động hoặc
điểm cung ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng 21. Khi cho vay phát hành và sử
dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng phải tuân thủ các quy định của chính phủ, NHNN Việt
Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Với đặc thù của sản xuất nông nghiệp, NHNo&PTNT còn có phương thức cho
vay lưu vụ: Cho vay lưu vụ thường áp dụng cho hộ gia đình và cá nhân ở vùng
chuyên canh lúa và các vùng xen canh trồng lúa với cây trồng ngắn ngày khác có nhu
cầu, đủ điều kiện quy định của NHNo&PTNT Việt Nam.
1.4.3. Quan hệ giữa tín dụng ngân hàng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính
sách, giải pháp và làm cho nền kinh tế nước ta thu được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử. Có thể chia các hoạt động đổi mới kinh tế nước ta thành 2 nội dung chủ yếu: i, đổi

mới về cơ cấu, trong đó có sự đổi mới về CCKT; ii, đổi mới về cách thức vận hành của
nền kinh tế. Giữa đổi mới về CCKT và đổi mới về cơ chế vận hành của nền kinh tế có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Một mặt, khi thiết kế cơ chế vận hành của nền kinh tế phải
thích ứng với đặc điểm của CCKT và phục vụ cho việc tạo lập CCKT mới, mặt khác cơ
chế kinh tế - trong đó các công cụ về tài chính, ngân hàng không chỉ thuần túy đi theo
chuyển dịch CCKT mà còn có tác dụng mở đường, định hướng chuyển dịch CCKT có hiệu
quả. Như vậy giữa chuyển dịch CCKT nông nghiệp với hoạt động của hệ thống tín dụng
ngân hàng - trong đó có tín dụng NHNo&PTNT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sau
đây là những biểu hiện chủ yếu:
1.4.3.1. Tác động của của tín dụng Ngân hàng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp
Chuyển dịch CCKT nông nghiệp chịu sự chi phối tổng hợp của nhiều nhân tố. Vốn
đầu tư nói chung và vốn tín dụng của NHNo&PTNT nói riêng là một nhân tố quan trọng
góp phần thực hiện việc chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Từ kinh nghiệm của các nước và
thực trạng tín dụng của hệ thống Ngân hàng nước ta trong trong thời gian vừa qua, có thể thấy

Footer Page 14 of 149.


Header Page 15 of 149.

tác động của tín dụng Ngân hàng đến chuyển dịch CCKT nông nghiệp trên những mặt chủ
yếu sau:
- Nâng cao năng lực cho các đơn vị kinh doanh nông nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, các đơn vị kinh tế, kể cả tập đoàn kinh tế vay vốn
ngân hàng để phát triển sản xuất, kinh doanh là hoạt động phổ biến. ở nước ta, đơn vị kinh
tế chủ lực trong nông nghiệp là kinh tế hộ nông dân với năng lực tài chính rất hạn hẹp.
Thậm chí các tổng công ty lớn của nhà nước như tổng công ty Chè, tổng công ty rau quả,
Tổng công ty cà phê ... vốn tự có cũng rất thấp. Năm 2004 vốn tài sản của Tổng công ty
chè Việt Nam chỉ đạt 200 tỷ đồng nhưng hầu hết là giá trị nhà xưởng, máy móc cũ, lạc

hậu, vốn lưu động của Tổng công ty là 20 tỷ đồng [43, tr.5].
+ Tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng trong thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp
tự cung tự cấp trở thành nền sản xuất hàng hóa.
Vốn là một trong bốn yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất, nhất là sản
xuất hàng hóa lớn tập trung. Nhu cầu đưa sản xuất nông nghiệp nước ta thành một nền sản
xuất hàng hóa là một tất yếu khách quan, rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát
triển của nền kinh tế. Để có thể biến một nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, lẻ manh mún, độc
canh thành một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa thì đòi hỏi phải có vốn. Các nguồn vốn
từ ngân sách Nhà nước, từ viện trợ hay vay nợ nước ngoài thì hạn hẹp. Do vậy, nguồn vốn
tín dụng ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư, có tính chất quyết định thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Thực tiễn qua nhiều năm đổi mới đã phần
nào chứng minh được tầm quan trọng của vốn tín dụng đối với sự phát triển của nông
nghiệp. Sản xuất nông nghiệp và kinh tế hộ nông dân có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy
số lượng, hiện vật sang tư duy chất lượng hiệu quả và giá trị. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, sản xuất gắn với chế biến và thị trường, mở rộng qui mô sản xuất, coi trọng
việc áp dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật và công nghệ mới làm tăng giá trị và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm.
- Tín dụng ngân hàng góp phần làm cho công nghiệp và nông nghiệp có mối qua hệ
mật thiết tạo điều kiện thúc đẩy lẫn nhau phát triển:
Trong quá trình CNH, HĐH, quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp ngày càng
gia tăng. Nông nghiệp cần sự cung cấp máy móc, phân bón, chế biến sản phẩm. Ngược lại

Footer Page 15 of 149.


Header Page 16 of 149.

nông nghiệp tạo ra nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Vì thế, đầu tư lĩnh vực công
nghiệp để cung cấp máy móc thiết bị cho nông nghiệp như: phân bón, máy móc, nông cụ,
điện... đầu tư cho ngành công nghiệp tạo điều kiện thuận lợi kích thích sản xuất nông

nghiệp phát triển, tăng khối lượng sản phẩm nông nghiệp. Thông qua công nghiệp, đặc biệt
là công nghiệp chế biến thu hút nhiều lao động, làm tăng giá trị nguyên liệu, đồng thời làm
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, làm cho nông nghiệp phát triển một
cách bền vững.
- Tín dụng ngân hàng góp phần khai thác tiềm năng về đất đai, lao động, tài nguyên
thiên nhiên trong nông nghiệp.
Tiềm năng trong nông nghiệp nông thôn nước ta nói chung và nông nghiệp ở Thanh
Hóa nói riêng là rất lớn nhưng hiện tại sản xuất nông nghiệp còn ở mức thấp kém so với
các nước trong khu vực. Lao động trong nông nghiệp thiếu việc làm trong lúc nông nhàn,
hàng triệu ha đất chưa được canh tác. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn mất cân đối nhiều
mặt. Thông qua đầu tư, tín dụng ngân hàng đã góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất,
hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý theo ngành, vùng lãnh thổ từ đó tác động tích cực, phát
huy hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, lao động tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất
cho xã hội, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu... Đầu tư phát triển các làng nghề
truyền thống, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp mới sẽ tạo ra khả năng thu hút một
lượng lớn lao động tạo ra nhiều việc làm trong lúc nông nhàn, tập trung được lực lượng lao
động dôi thừa tạo thu nhập, nâng cao đời sống dân cư.
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao trình độ sở vật chất, kỹ thuật trong nông
nghiệp, nông thôn để tạo môi trường, điều kiện cho chuyển dịch CCKT nông nghiệp.
Đầu tư tín dụng cho việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc
biệt áp dụng công nghệ sinh học vào quá trình cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, bảo vệ
thực vật, chế biến sản phẩm... làm tăng sản lượng đồng thời nâng cao chất lượng sản
phẩm. Đầu tư thúc đẩy thâm canh, tăng vụ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, làm
tăng năng suất lao động.
Đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến lâm sản, nông sản, thủy hải sản, các cơ sở
ngành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp để giải quyết công ăn việc làm cho người nông
dân và nâng cao giá trị của sản phẩm nông nghiệp. Đầu tư các công trình thủy lợi, hệ thống

Footer Page 16 of 149.



Header Page 17 of 149.

giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương nội đồng và các cơ sở khác để phục vụ cho
phát triển nông nghiệp.
- Tín dụng ngân hàng giúp cho người nông dân không ngừng nâng cao trình độ sản
xuất kinh doanh, hạch toán kinh tế.
Người nông dân cần phải tính toán trên mảnh đất của mình trồng cây gì? nuôi con
gì để đưa lại hiệu quả kinh tế nhất? Phải làm như thế nào để có lợi nhất? Xuất phát từ nhu
cầu vốn phục vụ cho quá trình sản xuất là vốn tín dụng đi vay phải trả cả vốn và lãi trong
một khoảng thời gian nhất định. Tín dụng ngân hàng đã tác dụng tích cực đến kết quả kinh
doanh của mỗi hộ gia đình. Điều này giúp người nông dân phải nâng cao trình độ, sự hiểu
biết để có thể áp dụng khoa học kỹ thật vào sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hóa tốt có giá trị
cao trong sản xuất nông nghiệp để có thể tham gia trao đổi buôn bán trên thị trường hay
xuất khẩu. Như vậy, có thể nói tín dụng ngân hàng là động lực giúp nâng cao trình độ văn
hóa của người nông dân ở địa bàn nông thôn.
1.4.3.2. ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến hoạt động
của tín dụng ngân hàng
- Nếu chuyển dịch CCKT nông nghiệp hợp lý, góp phần mở rộng thị trường tín
dụng một cách bền vững.
- CCKT nông nghiệp mà hợp lý, đa ngành, nghề, cây con... tạo diều kiện cho đa
dạng hóa nhu cầu tín dụng.
- Chi phối các chính sách tín dụng. Một CCKT nông nghiệp hợp lý, chứng tỏ một
nền nông nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả, do vậy cần phải có chính sách tín dụng
phù hợp, đòi hỏi 1 phương thức cho vay đúng để phát huy hiệu quả nguồn vốn đầu tư, đối
tượng cho vay phải phù hợp.
1.5. Những đặc điểm cần chú ý đối với hoạt động tín dụng phục vụ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Trước hết, cần nhận thức rõ rằng, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chịu
ảnh hưởng tổng hợp của nhiều nhân tố, hoạt động tín dụng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp, vừa chịu ảnh hưởng của những nhân tố chi phối hoạt động của tín dụng
Ngân hàng đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung vừa chịu ảnh hưởng của những nhân

Footer Page 17 of 149.


Header Page 18 of 149.

tố, đặc điểm riêng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Sau đây là những
đặc điểm nổi bật cần chú ý:
- Hoạt động sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng không thể bỏ qua.
Nhiều công trình khoa học đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp là:
đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt; đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể
sống; sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao trong việc sử dụng vốn, lao động và các
nguồn lực khác. Từ những đặc điểm trên có thể thấy sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất
lớn vào điều kiện tự nhiên. Những đặc điểm trên của sản xuất nông nghiệp đặt ra những
vấn đề sau đây cần quán triệt đối với hoạt động tín dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp.
+ Sản xuất nông nghiệp trải ra trên một không gian rộng gắn liền với từng vùng
kinh tế - sinh thái. Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chúng ta thường
nói, “nông nghiệp sản xuất sản phẩm gì có khả năng, không phải sản xuất sản phẩm gì thị
trường cần”. Ngày nay, trong kinh tế thị trường, chúng ta thường nói nông nghiệp “sản
xuất cái gì thị trường cần, không phải sản xuất cái gì có khả năng”. Quan niệm như vậy
đúng nhưng không đủ. ở đây cần phải hiểu thêm rằng, trong điều kiện cạnh tranh thì thị
trường cần có nghĩa là phải được thị trường chấp nhận. Muốn như vậy, nông sản sản xuất
ra đảm bảo yêu cầu về thời gian, số lượng theo yêu cầu của khách hàng. Hơn nữa, nông
sản phải đạt được chất lượng và giá cả nhất định mới đủ sức cạnh tranh. Những yêu cầu
của sản xuất nông sản hàng hóa phụ thuộc rất lớn vào lợi thế về giao thông, đất đai, khí
hậu, thời tiết. Điều đó có nghĩa là trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, việc bố trí
sản xuất phải trên cơ sở nhu cầu của thị trường và lợi thế của từng vùng. Từ đó, từng địa

phương phải thực hiện việc phân vùng, quy hoạch xác định chiến lược sản phẩm nông
nghiệp phù hợp. Trong thời gian vừa qua ở Thanh Hóa và nhiều địa phương trong cả nước,
tình trạng sản xuất theo phong trào một cách ồ ạt không chú ý đến lợi thế đã gây hậu quả
xấu cho hoạt động tín dụng nông nghiệp. ở tỉnh Thanh Hóa và nhiều tỉnh phía Bắc nước ta
đã trồng cà phê ồ ạt, sử dụng trên 70 tỷ đồng tiền vốn đến nay không có khả năng thanh
toán, riêng Thanh Hóa chiếm hơn 39 tỷ đồng.
+ Chịu sự tác động lớn của thiên tai, dịch bệnh. Trong những năm gần đây, thiên
tai, dịch bệnh ở nước ta xuất hiện với cường độ lớn, trong khi đó hệ thống thủy lợi, cơ sở

Footer Page 18 of 149.


Header Page 19 of 149.

vật chất kỹ thuật, khoa học, công nghệ dự báo và phòng chống thiên tai còn thấp. ở tỉnh
Thanh Hóa và nhiều địa phương khác, nhân dân bị giảm thu nhập hoặc mất trắng trong
nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia cầm, trâu bò... (do thiên tai, bão lụt, dịch cúm, lở mồm
long móng...) dẫn đến sử dụng vốn tín dụng không hiệu quả mà còn ở mức độ cao hơn là
không có khả năng trả nợ ngân hàng. Như vậy, rủi ro trong kinh doanh nông nghiệp dẫn
đến rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, đặc điểm của quan hệ cung cầu
nông sản khác rất nhiều so với quan hệ cung cầu của các loại hàng hóa khác. Tình trạng
giá cả một số nông sản tăng, giảm đột ngột làm cho nông dân sản xuất theo "phong trào",
dễ gặp rủi ro, gây hậu quả xấu cho hoạt động tín dụng.
+ Sản xuất nông nghiệp hàng hóa là thành quả của sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất
nông nghiệp với công nghệ bảo quản, chế biến và tổ chức hệ thống thị trường nông sản.
Ngày nay, trong nền nông nghiệp hàng hóa ở nước ta, kết quả của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp vừa phụ thuộc vào kết quả của sản xuất nông nghiệp, vừa phù thuộc vào
kết quả của công nghiệp chế biến và thị trường nông sản. Từ đó đặt ra yêu cầu muốn hoạt
động tín dụng thúc đẩy tốt chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đòi hỏi phải quan tâm
đến cả ba quá trình: sản xuất nông nghiệp, chế biến bảo quản và tiêu thụ.

- Chủ thể chính trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta về mặt kinh tế là Kinh tế hộ
nông dân, về mặt xã hội là Nông dân. Trong những năm đổi mới, mặc dù Đảng và Nhà
nước ta đã có những chủ trương và giải pháp để đa dạng hóa các hình thức sở hữu hình
thức kinh doanh trong nông nghiệp. Nhưng đến nay, kinh tế hộ nông dân vẫn là đơn vị sản
xuất chủ yếu trong nông nghiệp. Kinh tế hộ nông dân tuy có nhiều ưu thế nhưng đã bộc lộ
rất nhiều khó khăn, yếu kém trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng thị trường, từ đó đặt ra yêu cầu hoạt động tín dụng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp phải được tiến hành đồng thời với các chương trình, dự án về nâng cao
năng lực cho kinh tế hộ nông dân (như tín dụng kết hợp với khuyến nông đưa tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp).
Về mặt xã hội, chủ thể chính trong tiếp nhận tín dụng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
là Nông dân. Nông dân nước ta có nhiều mặt tốt rất cơ bản nhưng cũng tồn tại không ít
khuyết điểm, khó khăn về trình độ kinh doanh, ý chí vươn lên, ý thức chấp hành hợp đồng
kinh tế... Cá biệt có một bộ phận nông dân còn ỷ lại cho rằng vốn tín dụng của NHNN là

Footer Page 19 of 149.


Header Page 20 of 149.

tiền của Nhà nước cho, cũng không ít hộ nông dân ở miền núi vay tiền của ngân hàng
nhưng bỏ "ống" không biết làm gì.
Kinh tế hộ nông dân nông thôn có nguồn lực rất thấp, hầu hết các hộ nông dân nước
ta không đủ tài sản thế chấp để đảm bảo vay vốn ngân hàng. Từ đó đặt ra yêu cầu phải có
những cách thức tín dụng thích hợp để các ngân hàng bảo toàn được vốn, vừa tạo ra năng
lực để nông dân và kinh tế hộ nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khác với dân cư và các đơn vị kinh tế ở thành thị, kinh tế hộ nông dân và nông dân
sinh sống và hoạt động trên địa bàn rất rộng lớn, đặt ra yêu cầu tổ chức hệ thống mạng lưới
tín dụng, tiếp cận khách hàng, phí tín dụng gia tăng, khó kiểm soát sử dụng vốn. Do đó đòi
hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức tín dụng với chính quyền cơ sở, các đoàn

thể quần chúng trong nông nghiệp, nông thôn.
Đối tượng đầu tư của của ngân hàng là những cây trồng vật nuôi có thời gian sinh
trưởng dài, và phát triển theo chu kỳ, chịu tác động trực tiếp với điều kiện tự nhiên, thường
xuyên bị thiên tai bão lụt, dịch bệnh, công tác bảo hiểm cho cây trồng vật nuôi chưa phát
triển, do vậy đầu tư tín dụng cho phát triển ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp thường có thời gian đầu tư dài, mức độ rủi ro trong đầu tư tín dụng là rất
cao.
`Địa bàn hoạt động của NHNo&PTNT là nông nghiệp, nông thôn trải rộng khắp các
vùng miền của đất nước, khách hàng chủ yếu là nông dân, mặt bằng dân trí thấp, hoạt động
đầu tư dàn trải, khối lượng công việc phát sinh nhiều, chi phí cho hoạt động đầu tư tín
dụng cao, dẫn đến quá tải trong công tác tín dụng, hiệu quả đầu tư so với các ngân hàng
thương mại khác thấp.
Trước đây, khi chưa thành lập ngân hàng chính sách xã hội, hoạt động của hệ
NHNo&PTNT bao gồm cả việc cho vay hộ nghèo, các hộ thuộc diện chính sách và cho
vay không có tính chất thương mại. Từ khi thành lập Ngân hàng chính sách xã hội,
NHNo&PTNT thực sự trở thành NHTM, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh tiền
tệ, cơ chế mới buộc NHNo&PTNT phải thay đổi cách thức kinh doanh. Cho vay nông
nghiệp là lĩnh vực chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, nguy cơ “xa lánh” thị trường
nông nghiệp, nông thôn xuất hiện. Từ đó ngoài sự cố gắng đổi mới của NHNo&PTNT, các
đơn vị kinh doanh nông nghiệp và Nhà nước cần những thay đổi trong chỉ đạo phát triển

Footer Page 20 of 149.


Header Page 21 of 149.

nông nghiệp nông thôn, tạo điều kiện cho khách hàng trong nông nghiệp, nông thôn vay
vốn để đầu tư phát triển.
1.6. Kinh nghiệm một số nước về tín dụng ngân hàng cho quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Phát triển kinh tế và đầu tư có mối quan hệ nhân quả. Một nền kinh tế muốn giữ
được tốc độ tăng trưởng GDP cũng đòi hỏi phải giữ được tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư
thỏa đáng. Trong kinh tế nông nghiệp cũng vậy, đòi hỏi phải có một tỷ lệ vốn đầu tư phù
hợp với từng vùng, ngành và từng thời kỳ mới đáp ứng với thực tế khách quan. Thực tế ở
một số nước trên thế giới và trong khu vực Đông Nam á đã thực hiện các chính sách tín
dụng và đề ra các chiến lược đầu tư thích đáng cho lĩnh vực nông nghiệp nhằm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh nghiệm
một số nước đó là.
Thái Lan:
ở Thái Lan, Nhà nước thành lập Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã tín dụng
(BAAC) là NHTMQD do Chính phủ bổ nhiệm Chủ tịch hội đồng quản trị, thường là Bộ
trưởng Bộ Tài chính.
Nhà nước cấp 100% vốn tự có, qui định các ngân hàng khác dành 20% số dư tiền
gửi để cho vay nông nghiệp, BAAC được hưởng các khoản cho vay ưu đãi đặc biệt do
Chính phủ ký hiệp định với nước ngoài do các tổ chức Ngân hàng, tài chính Quốc tế như:
WB, ADB, OECF với lãi suất ưu đãi.
BAAC có chương trình đặc biệt cho vay tín dụng bằng hiện vật, vay vật tư theo giá
rẻ, chất lượng tốt, thế chấp bằng lúa, tạo cho nông dân bán lúa với giá cao, thủ tục cho vay
đơn giản (75% số tiền cho vay đến hộ không phải thế chấp chỉ có cam kết). Mùa thu hoạch
giá lúa rẻ ngân hàng cho nông dân vay với lãi suất 3%/năm và dùng lúa để thế chấp, khi
lúa được giá, nông dân bán lúa để trả nợ ngân hàng.
Đối với vật tư nông nghiệp, mỗi năm Thái Lan sử dụng khoảng 2,1 triệu tấn phân
hóa học, trong đó 27 % qua khu vực công cộng, 73% qua kênh kinh doanh, Ngân hàng
BAAC có hệ thống tín dụng bằng hiện vật để cung cấp phân bón và các vật tư nông nghiệp
khác cho khách hàng của mình. Cơ cấu tín dụng BAAC thực hiện 30% cho vay trung dài

Footer Page 21 of 149.


Header Page 22 of 149.


hạn, 70% cho vay ngắn hạn; 87% khối lượng tín dụng cho vay trực tiếp hộ nông dân, 13%
khối lượng tín dụng cho vay qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng Thái Lan có nhiệm vụ:
- Hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn.
- Thực hiện và kiểm soát tín dụng, nguồn vốn của Nhà nước cho lĩnh vực nông
nghiệp.
- Cho vay nông nghiệp theo chương trình và dự án chỉ định của Nhà nước.
- Cho vay hoạt động sản xuất và tiêu dùng và các hoạt động khác có liên quan đến
nông nghiệp, nông thôn.
Để tăng cường phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ qui định các
NHTM khác phải dành 20% số dư tiền gửi đẻ cho vay nông nghiệp. Số vốn này các
NHTM có thể cho vay trực tiếp hoặc gửi vào ngân hàng BAAC để BAAC thực hiện cho
vay [28].
Malaixia:
Nhà nước cấp 100% vốn tự có cho vay với suất ưu đãi, là công cụ của Nhà nước để
góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và qui định 38% NHTM phải gửi bắt
buộc 20% số dư tiền gửi và huy động tiết kiệm vào ngân hàng nông nghiệp, trong đó 3%
dự trữ bắt buộc phải nộp doanh thu và lợi tức. Ngân hàng nông nghiệp Malayxia (BPM)
được ưu tiên đặc biệt các khoản vay nước ngoài, BPM chú trọng cho vay trung dài hạn các
chương trình,dự án đặc biệt. cho vay trực tiếp hộ nông dân và gián tiếp thông qua hợp tác
xã tín dụng, nông dân nghèo vay không tính lãi lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất cho vay
khác (4%/ năm = lãi suất huy động). Ngân hàng (BPM) thực hiện qui chế cho vay.
Tập trung vốn ưu tiên cho lĩnh vực đầu tư trung, dài hạn theo các dự án, các chương
trình phát triển nông thôn trọng điểm.
Thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ nông dân sản xuất và thông qua hệ thống hợp
tác xã tín dụng, ngân hàng nông thôn.
Thực hiện chương trình cung cấp tín dụng cho hộ nghèo vay vốn không tính lãi, cho
các doanh nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp và nông thôn theo cơ chế lãi suất ưu đãi
[28].

Philippin:

Footer Page 22 of 149.


Header Page 23 of 149.

Ngân hàng Landbank là NHTMQD được Chính phủ thành lập và được cấp 100%
vốn tự có, chuyên hỗ trợ các hoạt sản xuất ở nông thôn. Hội đồng quản trị Ngân hàng do
Chính phủ qui định.
Landbank tập trung các khoản tín dụng cho hộ nông dân có từ 3 ha đất trở lên, hạn
chế cho vay trực tiếp hộ nông dân mà chủ yếu cho vay thông qua các tổ chức trung gian
như: Hợp tác xã tín dụng, tổ chức tài chính ở nông thôn. Các tổ chức tài chính này cho
nông dân vay lại với lãi suất cao hơn nhưng không vượt quá 18%/năm. Landbank cho vay
các đối tượng sau:
- Cho vay sản xuất các loại cây trồng gồm: Giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thời hạn
cho vay theo thời vụ và từng loại cây.
- Cho vay chăn nuôi bao gồm: Thức ăn gia súc, công chăm sóc, sức kéo gia cầm,
phòng trừ dịch bệnh.
- Cho vay thực hiện dịch vụ sơ chế: Mua máy tuốt lúa, máy sấy, máy xay sát, dựng
nhà kho chứa.
- Cho vay các dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng nông cụ, phương tiện vận chuyển, tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp.
- Cho vay các dịch vụ chế biến nông sản, cho vay các dự án nghề cá gồm: Mua sắm
thuyền, ngư lưới cụ, trang thiết bị đi biển, cho vay phát triển nuôi trồng thủy sản.
- Cho vay các dự án tạo công ăn việc làm cho các hộ nông dân [5]; [28]
Nhật Bản:
Thực hiện chính sách hỗ trợ vốn cho sản xuất nông nghiệp bằng cách Nhà nước cho
vay qua hợp tác xã, ngân hàng đối với các cá nhân, hộ sản xuất nông lâm nghiệp có đăng
ký với Nhà nước và các tổ chức xã hội bảo lãnh với lãi suất thấp 2,25%/năm. Nhà nước

bảo trợ vốn như: Cho vay không tính lãi với các dự án sản xuất được thẩm định và xác
định hiệu quả kinh tế của dự án; Cho vay lãi suất thấp với các đối tượng có mục đích sử
dụng vốn vào xây dựng nhà, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, cải
thiện đời sống ở nông thôn [40].
Trung Quốc:

Footer Page 23 of 149.


Header Page 24 of 149.

Thành lập ngân hàng nông nghiệp để cho vay phát triển kinh tế nông nghiệp nông
thôn. Nhà nước dùng nguồn vốn của nước ngoài cho ngân hàng nông nghiệp vay để đầu tư
cho nông nghiệp nông thôn.
Đối tượng đầu tư chủ yếu là các công trình thủy lợi, mở rộng sản xuất, xây dựng cơ
sở hạ tầng ở nông thôn, cho vay nghiên cứu và cung ứng giống, cây con với năng suất cao,
chủ yếu là giống lúa, ngô...Đầu tư tín dụng luôn bám sát định hướng phát triển kinh tế của
Nhà nước từ thấp đến cao, đầu tư cho nông nghiệp luôn gắn với đầu tư khoa học kỹ thuật
trong tổng vốn cho nông nghiệp [40].
Những bài học kinh nghiệm:
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực đầu tư phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn có thể rút ra những điểm chung sau:

- Các nước đều có hệ

thống ngân hàng nông nghiệp, Nhà nước cấp 100% vốn tự có và ngân hàng nông nghiệp
được hưởng chế độ ưu đãi. Chính phủ các nước đều rất quan tâm đến vấn đề đầu tư vốn
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn, đều có chính sách cho vay ưu đãi với mức
lãi suất thấp hơn mức bình thường và thậm chí cho vay không lãi với một số chương trình
dự án đặc biệt.

- Các ngân hàng đều thực hiện các hình thức cho vay trực tiếp đến hộ nông dân
hoặc gián tiếp qua HTX TD, tổ chức tài chính ở nông thôn hoặc thông qua tổ nhóm vay
vốn.
- Đối tượng cho vay đa dạng, phong phú bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ, chế
biến, cung ứng vật tư, khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. v.v... cho vay khôi phục
các làng nghề truyền thống và phát triển ngành nghề mới ở nông thôn.
- Giành vốn cho vay trung, dài hạn để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận
chuyển và những phương tiện cần thiết khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn
Từ những kinh nghiệm trên có thể nghiên cứu, vận dụng một cách sáng tạo vào điều
kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm làm cho hoạt động tín dụng góp phần
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Footer Page 24 of 149.


Header Page 25 of 149.

Chương 2
Thực trạng tác động Tín dụng Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của
tỉnh

2.1. Những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa ảnh hưởng đến
hoạt động tín dụng ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Tỉnh Thanh Hóa ở phía Nam đồng bằng Bắc bộ và phía Bắc khu 4 cũ. Phía Bắc tiếp
giáp với 3 tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình. Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, Phía Tây
giáp tỉnh Hủa phăn (Nước Cộng hòa Nhân dân Lào), Phía Đông giáp biển Đông. Thanh

Hóa có diện tích tự nhiên 11.116,34 km2 (chiếm 3,37% diện tích tự nhiên cả nước). Chiều
rộng từ Đông sang Tây khoảng 110 Km, từ Bắc xuống Nam 100 Km, cách Thủ đô Hà Nội
150 Km. Thanh hóa là tỉnh nằm ở cửa ngõ nối liền Bắc bộ với Trung bộ, đó là vị trí thuận
lợi cho lưu thông hàng hóa.
Có thể nói, Thanh Hóa là hình ảnh của Việt Nam thu hẹp, có vùng núi, biên giới,
trung du, đồng bằng, vùng ven biển và vùng thuộc đặc quyền kinh tế. Địa hình Thanh Hóa
có xu thế thấp dần từ Tây sang Đông chia làm 3 vùng rõ rệt:
Vùng trung du miền núi: Nằm ở phía Tây bao gồm 11 huyện Mường Lát, Quan
Sơn, Quan Hóa, Bá Thước, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Thường
Xuân, Như Thanh, Như Xuân. Là vùng có nhiều tiềm năng về phát triển rừng và du lịch
sinh thái.
Thanh Hóa có 335.470 ha rừng, chiếm 47,5% diện tích đất tự nhiên lâm nghiệp,
trong đó rừng tự nhiên có 289.654 ha, rừng trồng mới 45.816 ha, trữ lượng gỗ 15.104 triệu
m3 , trữ lượng tre nứa 21,3 tỷ cây, trữ lượng luồng 173 triệu cây.
Vùng đồng bằng: Được bồi đắp bởi các hệ thống sông Mã, sông Yên có 10 huyện, thi,
thành phố gồm Vĩnh lộc, Yên định, Thiệu hóa, Hà trung, Đông sơn, Triệu sơn, Thọ xuân,
Nông cống, thị xã Bỉm sơn và Thành phố Thanh Hóa.
Vùng ven biển: Có 6 huyện, thị gồm Nga sơn, Hậu lộc, Hoằng hóa, Quảng xương,
Tỉnh gia và thị xã Sầm sơn. Với 102 Km bờ biển theo hình cánh cung, chạy dài từ cửa Càn

Footer Page 25 of 149.


×