PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về lý luận
Chuẩn mực đạo đức ra đời và tồn tại một cách khách quan trong cuộc sống,
nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi của con người. Xét về phương diện xã hội cũng
như phương diện hành vi của mỗi cá nhân, đạo đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử
và hành vi của con người, đem lại lợi ích cho con người, cho người khác và xã hội.
Trong đời sống xã hội loài người có những mối quan hệ phức tạp, đa dạng nó tồn
tại đan xen nhau. Mặt khác do trình độ nhận thức của mỗi người cũng khác nhau,
họ sống trên những lãnh thổ khác nhau nên về tập tục, lợi ích, văn hóa, trình độ
phát triển cũng khác nhau. Để duy trì sự tồn tại và phát triển, mỗi xã hội phải xây
dựng những nguyên tắc chuẩn mực sống, trên cơ sở đó con người tự ý thức tự hành
động. Đạo đức là nhu cầu tất yếu khách quan, nhưng lại là vấn đề có tính lịch sử.
Trong xã hội nào cũng cần hình thành những nguyên tắc sống để con người tự
nguyện tuân theo, nhằm bình ổn trật tự xã hội, duy trì sự tồn tại của xã hội và của
mỗi cá nhân. Trong đời sống, có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung cho
mọi thời đại, ở đâu có con người thì ở đó có quan hệ đạo đức, đó là (sống thiện, yêu
quý lao động, trung thực, sự thủy chung, lòng nhân hậu, lòng biết ơn và sự tôn kính
đối với tổ tiên, …)
Đạo đức giúp cho cá nhân hoàn thiện nhân cách của mình. Những con người
có đức hạnh bao giờ cũng có những phẩm chất đạo đức cao quý. Những giá trị đạo
đức khi đã được hình thành ở cá nhân thì có tác động trở lại đối với xã hội theo
hướng tích cực.
Trong xã hội, con người tồn tại với tư cách là những cá nhân. Sự đa dạng,
phong phú, nhiều vẻ của cái riêng đang đặt ra yêu cầu phải có những chuẩn mực
đạo đức trong việc khẳng định những giá trị và hướng dẫn hành vi đạo đức cho cá
nhân trong những điều kiện cụ thể. Phẩm chất đạo đức của cá nhân người lao động
1
được biểu hiện ở sự tổng hợp những tính cách đáp ứng yêu cầu chung của xã hội.
Phẩm chất đạo đức người lao động chứa đựng trong đó những nội hàm của những
nguyên tắc, quy tắc đạo đức xã hội, những phẩm chất đạo đức của người lao động
là cơ sở quan trọng, góp phần to lớn vào việc phát triển nhân cách của người lao
động, giúp cho người lao động tích cực trong hoạt động lao động tạo tạo điều kiện
đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. Mặt khác nó còn là những tính cách
mang ý nghĩa tâm lý, đạo đức của riêng mỗi người lao động, nghiên cứu nắm vững
các phẩm chất đạo đức này giúp cho các nhà quản lý lao động, lãnh đạo các doanh
nghiệp có cơ sở để tổ chức, quản lý và điều hành người lao động một cách tốt nhất,
đem lại hiệu quả năng suất lao động cao.
1.2. Về thực tiễn
Đạo đức nói chung và những phẩm chất đạo đức nói riêng có vai trò hết sức
quan trọng trong hoạt động lao động sản xuất của, khi cá nhân có những phẩm chất
đạo đức trong lao động thì hoạt động lao động sẽ đạt hiệu quả cao, đời sống của
người lao động ngày càng được đảm bảo. Bên cạnh đó người lao động là lực lượng
chính, chiếm số lượng đông và trực tiếp tạo ra các sản phẩm. Với vị trí đó người
lao động có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động động lao động và đối với
các doanh nghiệp. Để tổ chức và phát huy hiệu quả khả năng của người lao động,
ngoài việc đảm bảo số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp cần thiết phải nắm vững và giáo dục có hiệu quả nhất các phẩm chất đạo
đức đối với người lao động
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cùng với quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và công cuộc hội nhập, phát triển. Việt Nam hiện là thành
viên của tổ chức thương mại thế giới do đó trên thị trường có sự sự cạnh tranh gay
gắt, vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ đổi mới về cơ cấu tổ chức, thiết bị
công nghệ mới vào trong quá trình quản lý sản xuất mà các doanhh nghiệp quan
tâm đến số lượng và chất lượng của đội ngũ lao động để có đủ điều kiện cạnh tranh
2
đứng vững trên thương trường. Ngày nay, thông qua các phong trào thi đua sản
xuất của các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp phát động thực hiện, những
tiêu chí về phẩm chất đạo đức của người lao động đã được cụ thể hóa và được đông
đảo người lao động trong các công đoàn học tập. Người lao động Việt Nam dù là
lao động chân tay hay lao động trí óc, ở bất kỳ các lĩnh vực hoạt động nào trong
quốc doanh, ngoài quốc doanh…đề năng động, sáng tạo, mạnh dạn đổi mới, tiếp
thu những tiến bộ khoa học công nghệ, thích ứng dần với cơ chế thị trường và hội
nhập với cơ chế thị trường và kinh tế quốc tế, đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất
nước thì vai trò của người lao động ngày càng trở nên to lớn, nắm bắt được vấn đề
này công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã không ngừng đổi mới cơ cấu tổ chức,
trang thiết bi, dây truyền máy móc hiện đại vào trong sản xuất. Tuy nhiên để hoạt
động lao động đạt hiệu quả cao hơn nữa phải xem xét đến chất lượng nguồn lao
động tại doanh nghiệp, nó được biểu hiện cụ thể ở phẩm chất đạo đức của người
lao động, thông qua việc nghiên cứu nắm bắt kịp thời những phẩm chất đạo đức
của người lao động tại doanh nghiệp để có những phương pháp tổ chức lao động
khoa học, đúng người, đúng việc đem lại hiệu quả cao trong sản xuất.
Mặt khác, Đảng ta luôn xác định: “Nguồn lao động dồi dào, con người Việt
Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có
khả năng nắm bắt khoa học và công nghệ”. Đội ngũ lao động có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc phát huy được các
phẩm chất đạo đức người lao động trong doanh nghiêp, cùng với việc cải tiến khoa
học công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp ngày đứng vững và phát triển trên thi
trường nhưng các phẩm chất đạo đức của người lao động, chưa được các doanh
nghiệp đánh giá và phát huy một cách đầy đủ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì một số các phẩm chất đạo
đức của người lao động vẫn còn những điểm chưa tốt cần được khắc phục, hiện nay
công tác tuyên truyền, giáo dục các phẩm chất đạo đức của người lao động vẫn còn
3
tồn tại những hạn chế, bất cập. Đồng thời do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị
trường, một số giá trị truyền thống, phẩm chất đạo đức của người lao động có phần
bị mai một. Một bộ phận người lao động có lối sống thực dụng, thiếu trách nhiệm
trong công việc, thiếu tác phong công nghiệp cần thiết ảnh hưởng đến hiệu quả
trong sản xuất.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trên, tôi lựa chon “ Thực
trạng các phẩm chất đạo đức của người lao động tại Công ty cổ phần mía đường
Lam Sơn – Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng các phẩm chất đạo đức và các yếu tố tác động đến phẩm
chất đạo đức của người lao động tại Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn – Thanh
Hóa, từ đó đề xuất một số biện pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao đạo
đức của người lao động.
3.Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng các phẩm chất đạo đức của người lao động tại Công
ty cổ phần mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu 181 lao động tại Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn –
Thanh Hóa trong đó có: 91 lao động nam, 90 lao động nữ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về đạo đức và phẩm chất đạo đức.
4.2. Thực trạng các phẩm chất đạo đức của người lao động tại Công ty cổ phần
mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa
4.3. Đề xuất một số biện pháp và kiến nghị để góp phần nâng cao đạo đức của
người lao động và hiệu quả lao động.
5. Phạm vi nghiên cứu
4
Nhân cách con người nói chung và người lao động nói riêng có những phẩm
chất đao đức khác nhau nhưng ở đề tài này tôi chỉ nghiên cứu sáu phẩm chất đạo
đức cơ bản sau: Tính trung thực; tính nguyên tắc; tôn trọng danh dự; lòng nhân ái;
thái độ lao động và học tập không ngừng, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu, điều tra 181 người lao động tại Công ty cổ
phần mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa.
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 6 năm 2012
6.Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
6.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Tiến hành nghiên cứu tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu sau đó
phân tích thành bộ phận theo lịch sử thời gian để có thể hiểu vấn đề một cách toàn
diện.
6.1.2. Phương pháp phân loại hệ thống hóa lý thuyết
Sử dụng phương pháp này để sắp xếp các tài liệu khoa học, theo hệ thống lôgíc
chặt chẽ.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra
Chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra là phương pháp chủ đạo. Để sử
dụng phương pháp này tôi xây dựng phiếu điều tra với một hệ thống câu hỏi đóng
và mở. Sau đó thu thập và xử lý số liệu.
6.2.1. Phương pháp quan sát
Chúng tiến hành quan sát người lao động khi họ đang làm việc. Quan sát mọi
hành vi, thái độ, cử chỉ, lời nói … của họ. Tiến hành quan sát ở nhiều thời điểm
khác nhau và ghi chép mọi diễn biến tâm lý và phẩm chất đạo đức của người lao
động để bổ sung cho những vấn đề cần nghiên cứu sâu.
6.2.3. Phương pháp đàm thoại
5
Tôi dùng phương pháp đàm thoại để trò chuyện với người lao động tại Công ty
cổ phần mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa nhằm thu thập thêm thông tin cụ thể về
những vấn đề cần nghiên cứu, để góp phần nhằm tăng độ tin cậy và sức thuyết phục của
kết quả nghiên cứu của phiếu điều tra.
6.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Sử dụng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia vấn đề nghiên cứu, như xây dựng
phiếu điều tra, xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu v.v….
6.2.5. Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm
Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của
các tác giả trong các giai đoạn, từ đó tổng kết vấn đề ở những điểm chính, trọng tâm
làm cơ sở cho vấn đề nghiên cứu.
5.3. Phương pháp toán thống kê
Chúng tôi sử dụng các phương pháp toán thống kê toán học để xử lý phiếu
điều tra nhằm thu thập số liệu về mặt định lượng cho những biểu hiện định tính qua
phiếu điều tra. Để từ đó có cơ sở phân tích, khẳng định lý giải các vấn đề nghiên
cứu.
\
6
PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Từ xa xưa, vấn đề giáo dục đạo đức đã được các nhà giáo dục lỗi lạc như:
Khổng Tử, J.A. Cômenxki, Petxtalôđi, K. Đ.Usinxki...quan tâm nghiên cứu và
đánh giá cao.
Ngày nay xã hội có nhiều biến đổi thì vấn đề giáo dục giáo dục đạo đức cho
người lao đông, đặc biệt là giáo dục phẩm chất đạo đức đạo đức càng được quan
tâm nghiên cứu.
- Bungari vào năm 1977- 1978, trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên
đã tiến hành nghiên cứu một số đề tài khoa học về đạo đức và giáo dục đạo đức cho
thanh niên. Các nhà khoa học đã đề cập đến vấn đề định hướng giá trị cho thanh
niên nói chung, trong đó có các giá trị đạo đức: lí tưởng cộng sản, chủ nghĩa, đạo
đức cộng sản , tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa…
- Tại Nga nhà xuất bản giáo dục Matxcơva đã xuất bản cuốn: “ Giáo dục đạo
cho học sinh - những vấn đề lí luận” của tác giả N.I.Bônđưrev. Tác giả đã đề cập
tới một số vần đề: Lí luận giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên, chỉ
ra nội hàm khái niệm của đạo đức cộng sản và đề xuất những con đường tiến hành
giáo dục đạo đức cho người lao động nói riêng và thanh niên nói chung.
1.1.2. Ở Việt Nam
Từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế kinh tế, vai trò của người lao động ngày
càng được đề cao, đặc biệt là vai trò trong lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất
nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần phát triển kinh tế cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần. Hàng năm cứ đến ngày 1 tháng năm hàng năm nước ta hưởng
ứng tích cực ngày quốc tế lao động, nhiều hoạt động được tổ chức (văn hóa, thể
7
dục thể thao…) Các công trình nghiên cứu cấp nhà nước cũng rất chú trọng đến
việc nghiên cứu sự phát triển nhân cách của con người - mục tiêu, động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Đề tài giáo dục đạo đức cũng như đề tài giáo dục đạo đức đã có khá nhiều tác
giả nghiên cứu. Ta có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau đây:
Năm 1995, công trình nghiên cứu cấp Nhà nước của Viện Khoa học Giáo dục
do Mặc Văn Trang (chủ biên) “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay, phương
hướng và biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên” đề tài đã phản ánh thực trạng
lối sống hiện nay của sinh viên (SV) và đã nêu lên những căn cứ khoa học, đã xây
dựng hệ thống biên pháp hữu hiệu để giáo dục lối sống cho SV trong các trường
cao đẳng, đại học. Tác giả Nguyễn Văn Phúc với “ Quan hệ giữa thẩm mỹ và đạo
đức trong cuộc sống và nghệ thuật” (Nxb KHXH, Hà Nội năm 1996).
Ngày 18 tháng 10 năm 1996, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã tổ chức hội thảo khoa
học tại Hà Nội về chủ đề “Định hướng giáo dục đạo đức trong các trường đại
học” và đã thu hút đông đảo các nhà khoa học, các nhà giáo lão thành, các nhà các
bộ quản lý giáo dục tham gia.
Năm 1999 tác giả Võ Đăng Khoa, trường Cao đẳng Sư Phạm Nha Trang Khánh Hoà đã nghiên cứu đề tài: Tổ chức giáo dục đạo đức cho sinh viên thông
qua các hoạt động ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang – Khánh Hoà.
Năm 1995, công trình nghiên cứu cấp Nhà nước của Viện Khoa học Giáo dục
do Mặc Văn Trang (chủ biên) “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay, phương
hướng và biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên” đề tài đã phản ánh thực trạng
lối sống hiện nay của sinh viên (SV) và đã nêu lên những căn cứ khoa học, đã xây
dựng hệ thống biên pháp hữu hiệu để giáo dục lối sống cho SV trong các trường
cao đẳng, đại học. Tác giả Nguyễn Văn Phúc với “ Quan hệ giữa thẩm mỹ và đạo
đức trong cuộc sống và nghệ thuật” (Nxb KHXH, Hà Nội năm 1996).
Ngày 18 tháng 10 năm 1996, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã tổ chức hội thảo
8
khoa học tại Hà Nội về chủ đề “Định hướng giáo dục đạo đức trong các trường
đại học” và đã thu hút đông đảo các nhà khoa học, các nhà giáo lão thành, các nhà
các bộ quản lý giáo dục tham gia.
Năm 1999 tác giả Võ Đăng Khoa, trường Cao đẳng Sư Phạm Nha Trang Khánh Hoà đã nghiên cứu đề tài: Tổ chức giáo dục đạo đức cho sinh viên thông
qua các hoạt động ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang - Khánh Hoà.
Năm 2007, Tiến sĩ Trịnh Duy Huy, Trường Đại Học Hồng Đức đã nghiên cứu
đề tài cấp cơ sở: “Một số nội dung, yêu cầu về giáo dục đạo đức để hình thành và
phát triển nhân cách ở học sinh sinh viên Trường Đại Học Hồng Đức”, tác giả đã
đề cập đến những nội dung cơ bản và những yêu cầu cần thiết trong công tác giáo
dục đạo đức cho SV trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước và của nền kinh tế thị
trường hiện nay.
Năm 2009, TS Trịnh Duy Huy đã công bố tài liệu “ Xây dựng đạo đức mới
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tác giả đã tập trung
xem xét tác động của kinh tế thị trường đối với xã hội, chuẩn mực đạo đức hiện nay
và thực trạng đạo đức ở nước ta, từ đó đề xuất một số giả pháp góp phần hạn chế
tiêu cực của kinh tế thị trường đối với giáo dục đạo đức.
Trong các Tạp chí cũng xuất hiện nhiều bài viết về giáo dục đạo đức nói riêng
và giáo dục nhân cách cho học người lao động nói chung, như: “Sự tác động hai
mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đạo đức người cán bộ quản lý” của Nguyễn
Tĩnh Gia 1997 (Tạp chí nghiên cứu lí luận); “Định hướng xã hội chủ nghĩa về các
quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” (tạp
chí Triết học số 2. 1997) “Hình thành và phát triển nhân cách trong nền kinh tế thị
trường” của GS Lê Đức Phúc (Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp số 7 .
1996); “Khía cạnh đao đức của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
hiện nay” (tạp chí Triết học, số 3. 1995)
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài
9
1.2.1. Các khái niệm công cụ của đề tài
1.2.1.1. Khái niệm đạo đức
Để tồn tại và phát triển, con người ngay từ thời nguyên thủy đã có quan hệ
gắn bó chặt chẽ với nhau trong tổ chức bày đàn thị tộc, bộ lạc…Các quan hệ đơn
giản của xã hội ban đầu chưa có giai cấp, theo tiến trình phát triển của loài người
ngày càng trở nên phong phú và phức tạp, đòi hỏi mỗi cá nhân trong cộng đồng
phải thường xuyên tự giác điều chỉnh thái độ, hành vi của mình trong cách ứng xử,
giao tiếp sao cho phù hợp với qui tắc chuẩn mực, qui tắc của xã hội, không vi phạm
đến nhu cầu lợi ích của người khác. Trong trường hợp đó cá nhân được tập thể,
cộng đồng coi là người có đạo đức. Ngược lại những cá nhân biểu hiện thái độ,
hành động chỉ vì lợi ích của riêng mình, gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích cuả
người khác, của cộng đồng …bị xã hội chê trách, phê phán thì cá nhân đó bị coi là
người thiếu đạo đức.
Trong đời sống xã hội, đòi hỏi tất yếu mỗi người phải ý thức được ý nghĩa,
mục đích hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Những hoạt
động đó bao giờ cũng có sự chi phối của những quan hệ giữa các cá nhân, cá nhân
và xã hội. Những mối quan hệ đó quy định giới hạn nhất định nhằm đảm bảo lợi
ích của cộng đồng và xã hội. Những qui định này tự giác tạo thành động lực cho sự
phát triển xã hội, đó là các qui tắc chuẩn mực hoàn toàn tự giác trong hành động
của mỗi cá nhân trong tất cả cá quan hệ xã hội.
Vậy có nhiều cách hiểu theo các khía cạnh khác nhau về đạo đức
Theo tác giả Trần Hậu Kiêm (Đạo đức học, NXB chính trị Quốc Gia): Đạo
đức học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống
những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời tồn tại
và biến đổi theo nhu cầu của xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với lợi ích xã hội, với hạnh phúc của con người và sự tiến bộ
của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người.
10
Theo tác giả Phạm Khắc Chương: Đạo đức là hệ thống những nguyên tắc,
những quy tắc, chuẩn mực, biểu hiện sự tự giác trong mối quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với xã hội, với tự nhiên và với bản thân mình.
Đạo đức là toàn bộ các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ với xã hội và quan hệ với tự
nhiên. Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan
hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả
bản thân mình.
1.2.1.2. Khái niệm phẩm chất đạo đức
Trong xã hội con người tồn tại với tư cách là cá nhân, sự đa dạng, phong phú
nhiều vẻ của cái riêng đang đặt ra yêu cầu phải có những chuẩn mực đạo đức trong
việc khẳng định những giá trị và định hướng hành vi đạo đức trong điều kiện cụ
thể.
Như vây: Phẩm chất đạo đức là cốt lõi của đạo đức cá nhân, nó tổng hợp
những tính cách đáp ứng yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội.
Phẩm chất đạo đức của cá nhân chứa đựng trong đó những nội hàm của
những nguyên tắc, quy tắc đạo đức xã hội. Mặt khác, nó còn là những tính mang ý
nghĩa tâm lý, đạo đức riêng của con người. Chúng là một bộ phận cấu thành nên
nhân cách của con người.
1.2.1.3. Khái niệm lao động
Theo từ điển tiếng Việt lao động là “Hoạt động có mục đích của con người
nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội. Ví dụ như lao động
chân tay, lao động nghệ thuật…”.
Hay: Theo Bộ luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
Lao động là họat động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và
các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao
là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước.
11
Lao động là hoạt động mà còn người thực hiện. Không có lao động con
người ta sẽ lâm vào cảnh “Nhàn cư vi bất thiên”. Vì sao mỗi người sinh ra đều như
nhau nhưng thông qua lao động, kết cục thì có người trở thành người thành đạt, có
người lại thất bại, không ai thuê mướn. Lao động bao gồm: Lao động chân tay (lao
động thủ công) là lao động trong đó con người sử dụng chân tay, cơ bắp là chủ yếu
để thực hiện công việc và lao động trí óc là loại lao động phức tạp, sử dụng trí óc là
chủ yếu.
Đối tượng lao động: Là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người
tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng của lao động có
hai loại…Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như các khoáng sản, đất, đá, thủy sản.
Thứ hai đã qua chế biến nghĩa là có sự tác động của đối tượng lao động trước đó.
1.2.1.4. Khái niệm Người lao động
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm người lao động, trong đó:
Theo nghĩa rộng người lao động là người làm công ăn lương. Công việc của
người lao động là theo thỏa thuận, xác lập giữa người lao động và chủ thuê lao
động. Thông qua kết quả lao động như sản phẩm vật chất, sản phẩm tinh thần cung
cấp mà người lao động được hưởng lương từ người chủ thuê lao động.
Theo nghĩa hẹp người lao động là người làm các việc mang tính thể chất,
thường trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp .
Bộ luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cho rằng:
Người lao động là người đến tuổi lao động (15 tuổi), có khả năng lao động, đang
có giao kết và thực hiện hợp đồng lao động.
Luật lao động cũng qui định rõ ràng, cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của
người lao động khi tham gia lao động, qui định về hợp đồng lao động, các chế độ
chính sách đãi ngộ…
Từ góc độ kinh tế học, người lao động là những người trực tiếp cung cấp sức
lao động – một yếu tố sản xuất mang tính người và cũng là một dạng dịch vụ, hàng
12
hóa cơ bản của nền kinh tế. Những người đang lao động là những người có cam kết
lao động, sản phẩm lao động đối với tổ chức.
1.2.2. Một số lý luận cơ bản về đạo đức và các phẩm chất đạo đức
1.2.2.1 Một số lý luận cơ bản về đạo đức
* Cấu trúc của đạo đức
Khi phân tích cấu trúc đạo đức người ta xem xét nó dưới nnhiều góc độ. Mỗi
góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Chẳng hạn: Xét đạo
đức theo mối quan hệ giữa ý thức đạo đức và hoạt động thì hệ thống đạo đức được
hợp thành từ hai yếu tố là ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu xét nó trong
quan hệ giữa người với người thì ta nhìn ra quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan
điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến với cái đặc thù và cái
dơn nhất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
- Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức
Đạo đức là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức đạo đức và thực tiễn đạo
đức.
Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, hành vi phù
hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó còn bao hàm cả
những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người. Trong quan hệ giữa người
với người đều có những ranh rới của hành vi và giá trị đạo đức. Đó là ranh giới của
cái thiện và cái ác, giữa chủ nghĩa cá nhân ích kỉ và tinh thần tập thể. Về mặt giá trị
của hành vi đạo đức cũng có ranh giới: lao động là hành vi thiện, ăn bám, bóc lột là
vô nhân đạo. Ngay cả trong hành vi thiện, mức độ giá trị của nó không phải lúc nào
cũng ngang nhau, mà nó cũng có những thang bậc nhất định ( cao cả, tốt, được). Ý
thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình
trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những nguyên tắc đạo đức
xã hội đặt ra; nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách
tự giác, tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Trong ý thức đạo đức còn bao hàm
13
cảm xúc, tình cảm đạo đức của con người. Tóm lại, ý thức đạo đức (về mặt cấu
trúc) gồm tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và ý chí đạo đức.
Mọi ý thức đạo đức được thể hiện thông qua thực tiễn đạo đức.
Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin, ý
thức đạo đức , là quá trình thực hiện hoá ý thức đạo đức trong cuộc sống. Ở đây,
các hành vi đạo đức vừa là biểu hiện của nhận thức và tình cảm đạo đức cá nhân,
vừa bị chi phối bởi các chuẩn mực và quy tắc của xã hội. quan niệm của cá nhân về
nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác là tiền đề của hành vi đạo đức cá
nhân. Sự lựa chọn tự do trong ứng xử giữa người này với người khác là do những
tính cách quyết định.
Ý thức và thực tiễn đạo đức luôn luôn có quan hệ biện chứng với nhau, bổ
sung cho nhau tạo nên bản chất đạo đức của con người, của một giai cấp, của một
chế độ xã hội và của một thời đại lich sử.
Ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng những hành động thì mới đem lại
những lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác. Nếu không có thực tiễn đại đức thì ý thức
đạo đức không đạt tới giá trị. Thực tiễn đạo đức được biểu hiện như sự tương trợ,
giúp đõ, cử chỉ nghĩa hiệp, hành động nghĩa vụ…Thực tiễn đạo đức là hệ thống các
hành vi đạo đức của con người được nảy sinh trên cơ sở của ý thức đạo đức.
- Quan hệ đạo đức
Hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và con người giũa cá nhân
và xã hội về mặt đạo đức là quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức là một dạng quan hệ
xã hội, là yếu tố tạo nên tính hiện thực của bản chất xã hội con người. Các quan hệ
đạo đức không chỉ hình thành nên giữa các cá nhân mà còn giữa cá nhân với xã hội,
với những mặt riêng biệt của xã hội (chẳng hạn: với lao động, với văn hoá tinh
thần) trong chừng mực những mặt này liên quan đến các lợi ích, chứa đựng trong
các mối quan hệ này.
14
Quan hệ đao đức được hình thành và phát triển như những quy luật tất yếu
của xã hội, nó “tiềm ẩn” trong những quan hệ xã hội. Quan hệ đạo đức tồn tại một
cách khách quan và luôn luôn biến đổi qua các thời kỳ lịch sử và chính nó là một
trong những cơ sở để hình thành nên ý thức đạo đức.
Tóm lại, ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức là những yếu
tố tạo nên cấu trúc của đạo đức. mỗi yếu tố không tồn tại độc lập mà liên hệ tác
động lẫn nhau, tạo nên sự vận động, phát triển và chuyển hoá bên trong của hệ
thống đạo đức.
-Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân
Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác định
và là phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng nhằm hình
thành, phát triển, hoàn thiện tồn tại xã hội ấy.
Đạo đức xã hội được hình thành trên cơ sở cộng đồng về lợi ích và hoạt động
của cá nhân thuộc cộng đồng. Nó tồn tại như là hệ thống kinh nghiệm xã hội mang
tính phổ biến của đời sống đạo đức của cộng đồng.
Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ của cộng đồng, phản
ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện riêng lẻ của tồn
tại xã hội về lợi ích và hoạt động của các cá nhân.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình, các cá nhân thu
nhận đạo đức xã hội như là hệ thống kinh nghiệm xã hội, những lý tưởng, chuẩn
mực, tư tưởng, đánh giá đạo đức đã được hình thành nên trong lịch sử cộng đồng,
biến kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm bản thân.
Trước mắt cá nhân, đạo đức xã hội tồn tại một cách khách quan mà trong
cuộc sống của mình cá nhânn tất yếu phải nhận thức, tiếp thu và thực hiện. Đạo đức
xã hội và đạo đức cá nhân là sự thống nhất biện chứng giữ cái chung và cái riêng,
giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất. Đạo đức cá nhân là biểu hiện độc
đáo của đạo đức xã hội, nhưng không bao hàm hết thảy mọi nội dung, đặc điểm của
15
đạo đức xã hội. Mỗi cá nhân lĩnh hội, tiếp thu đạo đức xã hội khác nhau và ảnh
hưởng đến đạo đức xã hội cũng khác nhau. Đạo đức xã hội không thể là tổng số
giản đơn của đạo đức các cá nhân, mà nó là tổng hợp những nhu cầu phổ biến được
đúc kết từ đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội trở thành cái chung của một giai cấp,
một cộng đồng xã hội, một thời đại nhất định, nó duy trì và củng cố bằng những
phong tục, tập quán, truyền thống, những di sản văn hoá vật chất và tinh thần, được
biến đổi và phát triển thông qua hoạt động sản xuất tinh thần và giao tiếp xã hội.
Quan hệ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân là quan hệ giữa những chuẩn
mực chung mang tính phát triển đặc thù trong xã hội với những phẩm chất hành vi,
những yêu cầu cụ thể hằng ngày, quan hệ giữa lý tưởng xã hội và hiện thực của cá
nhân, giữa trí tuệ, tri thức xã hội với tình cảm, ý chí và năng lực hoạt động đạo đức
cụ thể của cá nhân.
* Bản chất của đạo đức.
Theo quan điểm của C.Mác – Ăngghen, cơ sở của đạo đức xét đến cùng là
lợi ích xã hội và qui luật phát triển của lịch sử. Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội phản ánh quy luật phát triển xã hội dưới hình thái giá trị - giá trị đạo đức. Trong
xã hội có giai cấp, bên cạnh những chuẩn mực giá trị đạo đức chung của con người
còn có chuẩn mực phản ánh lợi ích, vị trí, vai trò của mỗi giai cấp. Quan điểm Mác
xít khẳng định: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội về
mặt đạo đức. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang bản chất giai cấp đồng thời
mang tính nhân loại.
Là một hình thái ý thức xã hội đạo đức phản ánh tồn tại xã hội – tức phản
ánh những điều kiện vật chất hiện thực mà trong đó con người sống và hoạt động.
Nó là tính thứ hai so với tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Vì vậy, khi tồn
tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo, tồn tại xã hội khác nhau thì có
các kiểu đạo đức khác nhau như đạo đức cộng xã nguyên thủy, đạo đức chiếm hữu
16
nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư bản chủ nghĩa và đạo đức cộng sản chủ
nghĩa.
Đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, trong đó trực tiếp và tập trung nhất là phản
ánh quan hệ lợi ích giữa người với người – mặt biểu hiện của quan hệ sản xuất. Bởi
lẽ quan hệ sản xuấ đó là quan hệ là quan hệ vật chất nền tảng, cơ sở của quan hệ
đạo đức và các quan hệ xã hội. Lợi ích, mặt bểu hiện của quan hệ sản xuất là lợi ích
vật chất – động lực xét đến cùng của mọi hoạt động ở con người. C.Mác chỉ rõ rằng
“lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức”; nghĩa là
cơ sở và nguyên tắc của đạo đức chính là sự công bằng về lợi ích giữa người với
người. Trong quan hệ sản xuất, thì đạo đức bị phản ánh và bị quy định bởi yếu tố
quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất vì nó là yếu tố quyết định
quan hệ ttổ chức quản lý và quan hệ phân phối; đồng thời quan hệ sở hữu là yếu tố
quyết định bản chất của một chế độ xã hội nhất định. Do đó, để có một nền đạo đức
thực sự thì phải thiết lập sự công bằng về quyền của mọi người đối với tư liệu sản
xuất tức xác lập chế độ công hữu bằng cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.
Đạo đức không thể tách rời khỏi cuộc sống của con người, bằng hành động
thực tế và quan hệ xã hội, đồng thời qua kinh nghiệm lịch sử của mình để xây dựng
nên những tiêu chuẩn giá trị của đạo đức. Bản chất của đạo đức phải là sự phản ánh
giá trị cao đẹp của của đời sống con người trong mối tương quan giữa người với
con người, giữa cá nhân và xã hội
Bản chất của đạo đức không phải là cái gì có sẵn, hoặc thiên định. Nếu
không có con người và xã hội loài người thì không có đạo đức nào cả. Vì vậy đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội của con người. Đạo đức bị chi phối bởi trách
nhiệm của con người tới hoàn cảnh sống, trước đồng loại. Do đó đạo đức là sản
phẩm tổng hợp của những yếu tố khách quan và những nhân tố chủ quan. Mặt
khách quan là những hiện thực được phản ánh vào ý thức đạo đức. Mặt chủ quan là
17
những nỗ lực vươn tới của con người, nhằm đạt đến những giá trị đạo đức đích
thực.
Đạo đức không phải là một cái gì bất biến, khi định ra những quy tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, người ta thường dựa vào điều kiện xã hội, nên đạo
đức cũng luôn luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Ở đây vấn đề
cần bàn đến là xu hướng và tính chất biến đổi của đạo đức trong đời sống con
người. Quy luật của sự biến đổi bao giờ cũng theo xu hướng tiến bộ và sáng tạo ra
những giá trị mới. Đó cũng vì do lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển và
hoàn thiện nên đạo đức tất yếu cũng phải được phát triển ngày càng hoàn thiện trên
cái nền tảng ấy. Trong xã hội có giai cấp thì đạo đức cũng mang bản chất giai cấp.
Bởi mỗi giai cấp có lợi ích, địa vị khác nhau do tồn tại xã hội, quan trọng nhất là
quan hệ kinh tế của mỗi giai cấp quy định. Cho nên mỗi giai cấp có quan niệm
chuẩn mực riêng về đạo đức.
Bản chất giai cấp của đạo đức được thể hiện trước hết ở đạo đức xã hội chia
thành hai nền đạo đức đối lập nhau. Đạo đức của giai cấp thống trị chi phối đời
sống đạo đức xã hội. Để bảo vệ cho lợi ích thống trị, giai cấp thống tri do Nhà nước
của nó tiến hành định ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức nhằm điều chỉnh hành
vi đối với các thành viên trong giai cấp mình; đồng thời áp đặt buộc các thành viên
khác phải thừa nhận nền đạo đức của giai cấp thống trị chèn ép. Nó tồn tại như cái
không chính thống, không phổ biến bằng đạo đức của giai cấp thống trị. Đúng như
Ph. Ăngghen đã viết: “và cũng như xã hội cho tới nay đã phát triển trong sự đối lập
của giai cấp, đạo đức luôn luôn là đạo đức của giai cấp. Cho nên, hoặc giả nó bênh
vực sự thống trị, hoặc giả khi giai cấp bị trị đã trở nên khá nạnh, thì nó tiêu biểu
cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những
người bị áp bức”. Mặc dù đạo đức của giai cấp thống trị và đạo đức của giai cấp bị
trị là đối lập nhau, song chúng không cô lập mà có sự ảnh hưởng, tác động qua lại
lẫn nhau
18
Bản chất của đạo đức còn thể hiện ở cấu trúc đạo đức từ ý thức đạo đức,
quan hệ đạo đức, đến hành vi đạo đức.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang bản chất giai cấp đồng thời mang
tính nhân loại. Tính nhân loại của đạo đức được biểu hiện ở hình thức thấp là các
qui tắc thông thường, giản đơn trong cuộc sống của con người như lòng trắc ẩn,
tình nhân ái giữa người với người, lòng vị tha, độ lượng…Hình thức cao của tính
nhân loại là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất ở từng thời đại lịch sử đó.
Bản chất giai cấp và tính nhân loại là hai mặt của đạo đức xã hội trong xã hội
có giai cấp. chúng luôn tác động quy định, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó tính giai
cấp chi phối tính nhân loại, tính nhân loại được biểu hiện thông qua lăng kính giai
cấp. Tính giai cấp là phạm trù lịch sử, tính nhân loại là vĩnh hằng chừng nào còn
tồn tại con người nói chung.
* Chức năng của đạo đức
Lịch sử phát triển của loài người từ xưa đến nay đã khẳng định vai trò to lớn
của đạo đức trong viêc duy trì trật tự, bình ổn và phát triển xã hội. Xã hội phát triển
nhanh hay chậm, lùi hay trì trệ, suy cho cùng là do năng lực và tính tự nguyện, tự
giác của con người, đồng thời do con người nhận thức được quy luât hành động
phù hợp theo quy luật. Chính đạo đức đã đóng vai trò quan trọng để tạo dựng nên
cuộc sống tốt đẹp cho xã hội và giúp đỡ con người hoàn thiện nhân cách.
Từ khi con người và xã hội loài người xuất hiện, đạo đức cũng đã hình thành
và tham gia vào quá trình điều khiển ý thức và hành vi của con người và cho phù
hợp với hoàn cảnh và cuộc sống thực tại.
Hoạt động lao động sáng tạo của con người là hoạt động biểu hiện nghĩa vụ
đạo đức cao nhất. Trải qua các quá trình lao động sáng tạo và cải tiến xã hội, con
người cần thấy rõ hơn giá trị to lớn của đạo đức. Đạo đức không chỉ đóng vai trò
điều chỉnh ý thức và hành vi của con người , mà nó còn có tác dụng cảm hóa con
người, giúp con người nhận thức và hành động và cảm hóa con người, giúp con
19
người. Đồng thời đạo đức còn giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, giữ gìn phẩm
giá làm thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp, đó là lòng nhân ái, tính
trung thực, thẳng thắn. Xã hội loài mgười cùng tiến lên, cùng với sự tiến lên của xã
hội, đạo đức sẽ có mặt ở tất cả các lĩnh vưc hoạt đôngcủa đời sống xã hội, nó nắm
vai trò điều khiển xã hội, thay thế chức năng quản lý con người bằng pháp luật.
Đến khi xã hội phát triển đến trình độ cao nhân loại (chủ nghĩa cộng sản văn minh)
thì một số hình thái ý thức xã hội sẽ biến mất, nhưng đạo đức vẫn còn tồn tại và
phát triển cùng với con người.
- Chức năng nhận thức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, cho nên đạo đức là phương
thức đặc biệt giúp con người chiếm lĩnh thế giới. Tính chất đặc biệt của đạo đức là
nó đưa con người vào thế giới của giá trị để con người nhận thức, đánh giá, lựa
chọn, lĩnh hội những giá trị phù hợp với lợi ích của mình và của xã hội.
Nhận thức đạo đức của con người là quá trình thống nhấtcủa hai mặt nhận thức
hướng ngoại và nhận thức hướng nội.
Nhận thức hướng ngoại là lấy hệ thống quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực,
hệ giá trị đạo đức xã hội làm đối tượng nhận thức. Nhờ đó con người với tư cách
chủ thể đạo đức chuyển hóa những yêu cầu của đạo đức xã hội thành ý thức, phẩm
chất đạo đức cá nhân, thông qua rèn luyện tu dưỡng theo chuẩn mực đạo đức đã lựa
chọn.
Nhận thức hướng nội là chủ thể đạo đức lấy chính bản thân mình làm đối
tượng nhận thức, thể hiện sự tự nhận xét, tự đánh giá về nhận thức, thái độ hành vi
của bản thân so với những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức chung của xã
hội. Từ đó, các chủ thể đạo đức hình thành và phát triển các quan điểm, nguyên tắc
sống của mình như: tích cực sáng tạo hay thụ động ỷ lại, hy sinh hay hưởng thụ, vị
tha hay vị kỉ…
20
Nhận thức đạo đức có hai trình độ là nhận thức thông thường và nhận thức
lý luận:
Nhận thức đạo đức thông thường chính là ý thức về những quy tắc, những
giá trị đạo đức đơn lẻ được hình thành trực tiếp trong đời sống hằng ngày. Mặc dù
ở trình độ thấp, song nhận thức đạo đức thông thường có tác dụng to lớn trong việc
điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của con người, góp phần ổn định trật tự xã
hội. chẳng hạn: các nguyên tắc trong đối nhân xử thế như “Trên kính, dưới
nhường”, “ Đói cho sạch, rách cho thơm”…
Nhận thức đạo đức ở trình độ lí luận là nhận thức có tính hệ thống về những
nguyên tắc, những chuẩn mực, những giá trị đạo đức mang tính phổ biến. Nhận
thức đạo đức có trình độ lí luận là đòi hỏi khách quan của sự phát triển đạo đức và
của sự tiến bộ xã hội. Nó là một bộ phận cấu thành hệ tư tưởng của các giai cấp,
nhất là giai cấp thống trị xã hội.
Đạo đức là công cụ giúp con người nhận thức về xã hội về mặt đạo đức.
Chúng ta đều biết rằng, các quan điểm tư tưởng, những nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức vừa là kết quả phản ánh tồn tại xã hội của con người, nhưng khi đã được hình
thành, nó lại có tác động trở lại đời sống con người.
Các quan điểm đạo đức chuẩn mực chính là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức
phù hợp yêu cầu phát triển của xã hội, tạo nên tính cách tốt đẹp của con người và
nhân loại. Vì vậy, nó đã được con người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành
những khuôn mẫu về mặt đạo đức để co người căn cứ vào đó mà tự xem xét, tự
đánh giá, tự điều chỉnh bản thân. Chức năng nhận thức có vai trò định hướng cho
mọi hành vi của chủ thể đạo đức. Chính chức năng nhận thức đã trang bị cho con
người những tri thức lý luận và thực tiễn đạo đức để con người nhận thức được cái
xấu.
- Chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức
21
Chức năng điều chỉnh hành vi là chức năng cơ bản nhất của đạo đức, là một trong
những phương thức không thể thiếu để điều chỉnh hoạt động của con người nhằm
đáp ứng yêu cầu và lợi ích chung của xã hội. Không có chức năng này thì đạo đức
sẽ trở nên trừu tượng, vô nghĩa và không đạt đến giá trị.
Điều chỉnh hành vi của đạo đức được thể hiện từ hai phía: xã hội và chủ thể
đạo đức.
Điều chỉnh từ phía xã hội: Đó là bằng các chuẩn mực đạo đức, quy tắc đạo
đức có tính khuyến khích hoặc ngăn cấm đối với hành vi của cá nhân. Xã hội
khuyến khích hành vi của cá nhân làm điều thiện, điều tốt vì lợi ích chung của con
người, đồng thời ngăn cấm các hành vi làm điều ác, điều xấu làm tổn hại đến lợi
ích của người khác. Sự điều chỉnh hành vi đạo đức từ phía xã hội đã được thể hiện
qua cơ chế dư luận xã hội. Cho nên điều chỉnh hành vi của đạo đức khác với điều
chỉnh hành vi của pháp luật bằng cơ chế quyền lực.
Điều chỉnh hành vi đạo đức từ phía chủ thể được thực hiện thông qua sự
nhận thức vè những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội, chủ thể
tự giác điều chỉnh hành vi đạo đức của bản thân mình cho phù hợp với yêu cầu đạo
đức của xã hội. Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức từ phía chủ thể được thực hiện
bằng cơ chế tự nguyện, tự giác của mỗi người. Nó khác với pháp luật mang tính
cưỡng chế bắt buộc. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức có tác dụng làm
cho hoạt động của con người phù hợp với lợi ích của xã hội, của cộng đồng. Thực
tế đời sống xã hội rất phức tạp và đa dạng, trong xã hội thường tồn tại và phát triển
đan xen giữa những người tốt và xấu, người có đức hạnh và kẻ vô lương tâm.
Người có ích và kẻ ăn bám, người có hành vi cao cao cả và kẻ thấp hèn…Do những
hiện tượng đạo đức thấp hèn trong xã hội.
Xã hội muốn ổn định và phát triển, đòi hỏi mỗi người phải có tính tự giác, tự
nguyện. Xã hội càng văn minh thì tính tự giác của con người càng phải cao hơn.
22
Những chuẩn mực đạo đức ra đời để giúp cho con người điều chỉnh ý chí và hành vi
của mình, nhằm đáp ứng những yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội.
- Chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục của đạo đức nhằm góp phần hình thành, phát triển nhân
cách con người đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển của xã hội. Đặc biệt, giáo
dục đạo đức cách mạng có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành, phát triển nhân
cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, giáo dục đạo đức là con đường cơ bản
nhằm hình thành cho con người hệ thống những quan điểm, nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực đạo đức xã hội. Hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực này
được hình thành để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, phù hợp với lợi ích
chung và lợi ích riêng của mọi người. Đồng thời, con người dựa vào đó để tự điều
chỉnh mình; mặt khác, bằng dư luận của xã hội để điều chỉnh ý thức và hành vi của
các chủ thể đạo đức. Chẳng hạn nguyên tắc sống của con người phải trung thực,
thật thà. Nhìn vào nguyên tắc này, mỗi con người tự nguyện, tự giác tuân theo hoặc
ai vi pham (ăn cắp, nói dối…) sẽ bị dư luận xã hội lên án. Qua đó tạo cơ sở cho con
người biết đánh giá các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như đánh giá thái độ hành
vi đạo đức của bản thân mình theo chuẩn mực xã hội. Thông qua giáo dục đạo đức
giúp cho con người có khả năng đánh giá, lựa chon, tiếp thu các giá trị đạo đức xã
hội để hình thành phẩm chất đạo đức cá nhân. Giáo dục đạo đức còn làm tăng tính
tích cực xã hội của con người, giúp con người có ý thức trách nhiệm trước cuộc
sống (tạo niềm tin, hạnh phúc, thanh thản lương tâm…). Vì vậy chức năng giáo dục
của đạo đức đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách của con
người. Bác Hồ đã dạy:
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Giáo dục đạo đức là một quá trình thống nhất của hai mặt là giáo dục và tự
giáo dục. Giáo dục được thực hiện từ gia đình, nhà trường đến đoàn thể, xã hội. Tự
23
giáo dục là của bản thân mỗi người bằng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức theo yêu cầu
của xã hội.
Hiệu quả của giáo dục đạo đức phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội gắn với tiến bộ của đạo đức và nhân đạo hóa các quan hệ
xã hội; cách tổ chức giáo dục, phương pháp, hình thức giáo dụcvà đặc biệt là mức
độ tự giác của đối tượng giáo dục đạo đức. Để thực hiện tốt chức năng giáo dục,
yêu cầu của giáo dục đạo đức phải hướng con người đến những giá trị đích thực
của đời sống, nghĩa là phải xuất phát từ tình hình thực tiễn, đặt con người trong mối
tương quan giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của xã hội.
* Vai trò của đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường là kinh doanh với sự điều tiết của
nguyên tắc nhỏ nhất, lớn nhất, nghĩa là làm sao với một chi phí nhỏ nhất, chủ thể
kinh doanh thu được lợi nhuận lớn nhất. Nếu thực chất của hoạt động kinh doanh là
như vậy thì đạo đức với tư cách là nhân tố điều tiết hoạt động của con người có vai
trò to lớn trong kinh doanh. Nói cách khác, nếu đạo đức tham gia vào quá trình
điều tiết hoạt động kinh doanh thì nó thúc đẩy hay là kìm hãm kinh doanh? Trả lời
câu hỏi này, hiện vẫn tồn tại tại hai đáp án loại trừ nhau một là phủ nhận và hai là
khẳng định.
Những người phủ nhận tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với đạo
đức cũng chính là những người phủ nhận vai trò của đạo đức đối với kinh doanh.
Đặt đối lập một cách tách rời hành vi kinh doanh với hành vi đạo đức, những
người phủ nhận vai trò của đạo đức đối với kinh doanh cho rằng, hành vi kinh
doanh hoàn toàn không có mối quan hệ nội tại với hành vi đạo đức, do đó, nó
không có tính cách của hành vi đạo đức. Trong hoạt động thị trường, hành vi kinh
doanh với tư cách là hành vi kinh doanh chỉ chịu sự điều tiết của các nguyên tắc,
các chuẩn mực thi trường. Về cơ bản, những nguyên tắc, quy tắc thi trường được
24
pháp chế hóa thành luật kinh doanh và những quy định có tính pháp quy đối với
kinh doanh. Ở đây chỉ có sự điều tiết của các chuẩn mực thị trường mà không có sự
điều tiết của các các chuẩn mực, các nguyên tắc đạo đức.
Tuy nhiên, theo quan điểm của những người khẳng định mối quan hệ hữu cơ
giữa kinh tế thi trường với đạo đức từ đó khẳng định vai trò tích cực của đạo đức
đối với kinh tế thi trường, thì vấn đề không chỉ dơn giản như vậy. Việc đối lập một
cách tách rời giữa hành vi đạo đức và hành vi kinh tế là không khoa học. Đặc trưng
quan trọng nhất của hành vi đạo đức là sự tự nguyện giúp đỡ người khác, phục vụ
xã hội, là sự tự nguyện hy sinh lợi ích cá nhân. Nhưng nếu chỉ như vậy thì hành vi
đạo đức đã tựa hồ như là kết quả của một năng lực bẩm sinh; nó chẳng có mối liên
hệ gì với những điều kiện sinh sống của cong người.
Thực tế cho thấy, nếu tách rời đạo đức khỏi kinh doanh, tìm động lực kinh
doanh chỉ ở lợi nhuận và do đó, quản lý xã hội chỉ chủ yếu dựa vào cơ chế, chính
sách, pháp luật để điều tiết kinh doanh thì hiệu quả điều tiết sẽ bị hạn chế. Các chủ
thể kinh doanh, trong chừng mực không có sự phát triển tương ứng về đạo đức kinh
doanh, nghĩa là không bị ràng buộc bởi các chuẩn mực đạo đức, bởi tình cảm và
lương tâm ở tầng sâu tâm lý, thì lòng ham lợi sẽ kích thích họ lách qua những
khiếm khuyết của pháp luật và chính sách, phá hoại sự cạnh tranh trung thực, làm
cho hoạt động của thị trường không diễn ra một cách bình thường, lành mạnh. Pháp
luật và chính sách dẫu hoàn thiện đến đâu cũng không tránh khỏi những khiếm
khuyết nhất định. Hơn thế, hiện nay, chúng ta đang trong quá trình hoàn thiện cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa là một
điều mới mẻ, chưa có tiền lệ. Những khiếm khuyết của cơ chế và quản lý trong thời
gian qua đã tạo đều kiện cho hàng loạt các trường hợp kinh doanh vừa vi phạm
pháp luật, vừa vi phạm đạo đức. Hậu quả của điều đó, là những tổn hại to lớn
không chỉ đối với công quỹ mà đối với ngay bản thân các doanh nghiệp, doanh
nhân đã vi phạm đạo đức kinh doanh.
25