Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đảng giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc và chống phong kiến giành dân chủ cho nông dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.11 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

TIỂU LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI

PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH ĐẢNG GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA HAI NHIỆM VỤ CHỐNG ĐẾ QUỐC GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC VÀ CHỐNG PHONG KIẾN GIÀNH DÂN CHỦ CHO NÔNG
DÂN TRONG THỜI KÌ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930 – 1945)
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG

TP Hồ CHí Minh, ngày 13 tháng 9 năm 2016


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

MỤC LỤC


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

Sau khi xâm lược Việt Nam năm 1858, thực dân Pháp tiến hành đầu tư vào Việt
Nam để kinh doanh lấy lợi, chủ nghĩa tư bản phát sinh. Chúng ra sức bóc lột nhân dân
Việt Nam, thuê nguồn nhân công rẻ mạt để phục vụ cho quá trình khai thác thuộc địa.


Chúng đặt ra đủ loại thuế để bóc lột như: thuế ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế
muối, thuế thuốc phiện và hàng trăm loại thuế khác… Chính điều đó đã làm cho nhân
dân ta ngày càng khốn đốn, mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp ngày càng
quyết liệt. Sự bóc lột của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam phân hoá sâu sắc;
giai cấp nông dân chiếm 90% dân số bị bóc lột nặng nề bằng thủ đoạn sưu cao, thuế
nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch… lâm vào cảnh mất ruộng đất phải đi làm công – giai
cấp công nhân ra đời sớm nhưng cũng bị Pháp đàn áp. Giai cấp tư sản bị Pháp chèn ép
đến mức không ngóc đầu lên được. Giữa Pháp và phong kiến Việt Nam có sự câu kết
chặt chẽ với nhau. Pháp dựa vào phong kiến lấy cớ bóc lột nhân dân, phong kiến dựa
vào thực dân Pháp để duy trì địa vị của mình. Những hình thức áp bức bóc lột dã man
tàn nhẫn của phong kiến không những không xoá bỏ mà còn bị thực dân Pháp lợi dụng
gây nặng nề thêm. Thực trạng Việt Nam lúc này vô cùng khó khăn. Trong xã hội Việt
Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần được giải quyết:
1.

Mâu thuẫn dân tộc của nhân dân Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp.

2.

Mâu thuẫn giai cấp giữa quần chúng nhân dân với địa chủ phong kiến.

Giải quyết được hai mâu thuẫn trên, chính là hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc-dân chủ ở Việt Nam. Hai nhiệm vụ đó không phải đến khi Đảng ra đời mới xuất
hiện mà nó đã bắt đầu có từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, bằng
chứng là hàng loạt các phong trào yêu nước đã nổ ra và phát triển mạnh mẽ. Nhưng
các phong trào ấy đều đi đến thất bại. Nguyên nhân thất bại là do họ chưa xác định
được kẻ thù (Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đánh Pháp, Phan Châu Trinh lại chủ
trương đổi mới theo Pháp). Từ đó không thể nhìn rõ được nhiệm vụ cần thiết. Đến tận
thế kỉ XX nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng đường lối. Cho đến khi Nguyễn
Ái Quốc bắt đầu tìm ra con đường cứu nước, nhờ quá trình tìm tòi, học hỏi và khảo

cứu tình trạng nước ngoài kết hợp với việc phân tích tình hình trong nước. Vào ngày
03.02.1930, tại Hương Cảng, Trung Quốc, Người đã chủ trì buổi thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam và đề ra “cương lĩnh vắn tắt và sách lược vắn tắt”, trong đó người nêu ra
cách mạng Việt Nam phải trải qua các giai đoạn: “ làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy người đã chỉ ra con đường phát
triển tất yếu của cách mạng nước ta là con đường kết hợp độc lập dân tộc và xã hội
chủ nghĩa. Đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân- một cuộc cách mạng của
nhân dân cả nước, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh công
nông, nhằm mục đích đánh đổ đế quốc, phong kiến, giải phóng dân tộc, thực hiện
người cài có ruộng, thành lập nhà nước do nhân dân làm chủ, tạo điều kiện cho nhà
nước Việt Nam không qua thời kì tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, tiến hành cuộc cách mạng dân chủ chính là tiến tới đánh đuổi đế quốc thực

3

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

dân làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập. còn giải quyết nhiệm vụ dân chủ là đánh đổ
phong kiến, đem lại ruộng đất cho nhân dâ. Đó là nhiệm vụ cơ bản xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam nhưng không phải lúc nao cũng diễn ra cùng một lúc. Tuỳ vào
từng thời kì, từng giai đoạn mà có sự vận dụng hợp lý. Vậy hai nhiệm vụ đó đã được
giải quyết như thế nào trong thời kì từ khi thành lập Đảng 1930 đến năm 1945.

I.


GIAI ĐOẠN 1930 – 1935
I.1.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

 Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng: trên 3
phương diện chính:
 Về chính trị: đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công
nông, tổ chức ra quân đội công nông.
 Về kinh tế: thủ tiêu hết quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc Pháp,
tư bản giao cho chính phủ công nông; tịch thu hết ruộng đất của đế quốc
làm của công và chia cho dân cày nghèo; miễn thuế cho dân nghèo, thực thi
luật ngày làm 8 giờ….
 Về văn hoá, xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ
thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên đây thể hiện đầy đủ yếu tố dân tộc và dân chủ. Trong
đó, chống đế quốc, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
 Về lực lượng cách mạng:
 Công nhân: Đảng phải vận động và thu phục được đông đảo công nhân làm
cho giai cấp công nhân lãnh đạo được dân chúng.
 Nông dân: Đảng phải thu phục được đông đảo nông dân, dựa vững vào nông
dân nghèo để lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng đất.
 Đảng phải lôi kéo được tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi về phía giai cấp
vô sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt
Nam.
 Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ… và trong khi liên
lạc với các giai cấp phải thận trọng, không đi vào con đường thoả hiệp.
Như vậy, lực lượng cách mạng theo quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là rất
lớn.

 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Ưu tiên giải quyết vấn đề dân tộc trước,
sau đó mới tiến hành giải quyết mâu thuẫn giữa phong kiến và nông dân.

I.2.

Luận cương chính trị tháng 10-1930

 Nhiệm vụ cách mạng: Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản
dân quyền là: đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và

4

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai
nhiệm vụ này luôn có quan hệ khăng khít với nhau. trong hai nhiệm vụ này,
luận cương xác định: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền", là cơ sở lãnh đạo dân cày.
 Lực lượng cách mạng:
 Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, vừa
là giai cấp lãnh đạo cách mạng, dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là
động lực mạnh của cách mạng.
 Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách
mạng, còn tư sản công nghiệp khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế
quốc.

 Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu
tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì chỉ
hăng hái chống đế quốc trong thời kỳ đầu.
 Chỉ có những phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ
thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Giải phóng hoàn toàn cho Đông Dương,
khẳng định cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới.

I.3. Đại hội lần I (3/1935) Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở
Ma Cao (Trung Quốc)
 Bối cảnh trong nước sau luận cương chính trị tháng 10-1930:
 Cao trào cách mạng 1930-1931 đã tập hợp được đông đảo quần chúng công
nông, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh, thành lập được chính quyền của
dân ở nhiều làng xã. Tuy nhiên, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp và dìm
cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu, cán bộ lãnh đạo của ta lần lượt bị bắt
và tra tấn dã man trong tù.
 18-11-1930: một tổ chức ra đời mang tên Hội phản đế đồng minh Đông
Dương, cho phép tất cả người dân yêu nước tham gia, không phân biệt tư
sản, tiểu tư sản, tri thức hay nông dân, công nhân.
 1931-1933: Các xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ lần lượt được lập lại,
một số tổ chức Đảng được thành lập ở miền núi phía Bắc.
 6 - 1932: Ban lãnh đạo Trung ương đã công bố Chương trình hành động của
Đảng Cộng sản Đông Dương với nội dung:
o Thứ nhất: đòi quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước
và ra nước ngoài.
o Thứ hai: bỏ các luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả tự do cho tù
chính trị, bỏ chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình.
o Thứ ba: bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác.
o Thứ tư: bỏ độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.
 Những yêu cầu chính trị trước mắt cùng với những biện pháp tổ chức và đấu

tranh do Đảng vạch ra trong Chương trình hành động năm 1932 phù hợp với

5

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

điều kiện lịch sử lúc bây giờ. Nhờ vậy, phong trào cách mạng của quần
chúng và hệ thống tổ chức của Đảng đã nhanh chóng được khôi phục.
 3-1935: Đại hội đại biểu lần nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc)
với sự tham gia của 13 người, đánh dấu sự khôi phục tổ chức Đảng.
 Nội dung đại hội lần I (tháng 3-1935):
 Đại hội khẳng định và đánh giá cao những thắng lợi trong việc khôi phục hệ
thống tổ chức Đảng.
 Vẫn thừa nhận luận cương chính trị tháng 10-1930.
 Đánh giá phong trào cách mạng, tổ chức lãnh đạo cách mạng (1932-1935).
 Bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Hồng Phong làm tổng
bí thư.
 Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ cụ thể:
1. Củng cố và phát triển Đảng : lập cơ sở Đảng tại các xí nghiệp, nhà máy,
hầm mỏ, tại các thành thị, kết nạp thêm đảng viên ưu tú trong hàng ngũ giai
cấp công nhân, đẩy mạnh việc phê bình và tự phê bình trong Đảng.
2. Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng : các dân tộc thiểu số, phát
triển hội phụ nữ, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất.
3. Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô,
ủng hộ cách mạng Trung Quốc…


TIỂU KẾT
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan
của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân, làm cho
Đảng nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và phát động được
một phong trào cách mạng rộng lớn ngay từ đầu năm 1930. Chủ trương tập hợp lực
lượng trên đây phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, huy động mọi lực lượng dân
tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc.
Cương lĩnh cũng xác định đúng trong mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ thì chống
đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu và để thực hiện nhiệm vụ nặng nề đó thì lực lượng cách
mạng phải hết sức rộng mở. Đây là sự sáng tạo lớn của Nguyễn Ái Quốc xuất phát từ
sự thấu hiểu yêu cầu và đặc điểm của một xã hội thuộc địa- phong kiến.
Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược
cách mạng mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra. Luận cương đã cụ
thể hóa một số vấn đề của cách mạng Việt nam như phần chiến lược và phương pháp
cách mạng. Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản giữa Luận cương chính trị với Chánh
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt có mặt khác nhau: Luận cương chính trị không nêu
ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp, từ
đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Luận cương đã không đề ra được

6

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế

quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân hạn chế: Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những
đặc điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam là vấn đề độc lập dân tộc là
trên hết. Do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách
mạng ở thuộc địa và chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả khuynh” của Quốc tế
Cộng sản và một số đảng cộng sản khi đó chưa coi trọng vấn đề dân tộc, quá nhấn
mạnh nhiệm vụ đấu tranh giai cấp.
Đại hội lần I (3/1935) Tuy đã phát triển trong vấn đề tập hợp lực lượng nhưng
Đại hội vẫn chưa tổng kết được những kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh của Đảng từ
khi thành lập, đặc biệt chưa rút ra được bài học sau cao trào cách mạng 1930-1931.
Đại hội không nhạy cảm với thời cuộc nên “chính sách của Đại hội Ma Cao vạch ra
không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ.
Đại hội chưa khắc phục được tư tưởng “tả khuynh”, vẫn đứng trên lập trường
của “Luận cương” để phê phán “Chính cương”, vẫn coi cương lĩnh chính trị đầu tiên là
“sai lầm chánh trị rất lớn và nguy hiểm”

NHẬN XÉT
Như vậy trong những năm đầu thành lập đến đại hội I (3/1935) do ảnh hưởng
của Quốc tế cộng sản và hạn chế về tầm nhìn chiến lược Đảng đã mắc không ít sai
lầm. Tuy nhiên Đảng vẫn đứng vững, cơ sở Đảng và cơ sở chính trị quần chúng vẫn
tồn tại cũng như mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng luôn luôn được duy trì. Trải qua
cuộc đấu tranh sống mái với kẻ thù, Đảng nhanh chóng trưởng thành, tích lũy được
nhiều kinh nghiệm đấu tranh quý báu. Đội ngũ cán bộ, Đảng viên và quần chúng cách
mạng được rèn luyện và sàng lọc. Với bản lĩnh chính trị vững vàng và ý chí chiến đấu
kiên cường, không những Đảng đã khắc phục được những khó khăn trước mắt, hàn
gắn nhanh những vết thương, chuẩn bị lực lượng tốt cho cuộc đấu tranh trong giai
đoạn tiếp theo. Đồng thời đã khẳng định được sự đúng đắn của cương lĩnh chính trị
đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.

II.


GIAI ĐOẠN 1936 – 1939.
Hậu quả trầm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 19291933 của các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của
chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
Chủ nghĩa phátxít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi, như phátxít Hítle ở Đức, phátxít
Phrăngcô ở Tây Ban Nha, phátxít Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản.
Đây là chế độ độc tài có nền chuyên chế phản động, tàn bạo và dã man nhất. Chúng
liên kết với nhau thành khối “Trục” ráo tiết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và

7

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

tiêu diệt Liên Xô – thành trì cách mạng thế giới nhằm đẩy lùi phong trào cách mạng vô
sản. Nguy cơ chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hòa
bình và an ninh quốc tế.
Còn ở trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã ảnh hưởng đến
mọi tầng lớp nhân dân kể cả tư sản, địa chủ vừa và nhỏ. Trong khi đó bọn cầm quyền
phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét , bóc lột, bóp nghẹt quyền tự do, dân chủ, thi
hành chính sách khủng bố và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Chính điều
này đã làm cho các tầng lớp, giai cấp khác nhau trong cả nươc đều căm thù thực dân
Pháp và có nguyện vọng đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do, dân củ, dân sinh. Hệ
thống Đảng và các cơ sở cách mạng quần chúng đã được khôi phục. Ngoài ra chính
phut mặt trận Pháp ban hành một số chính sách dân chủ có lợi cho các nước thuộc địa.
Đây chính là yếu tố quan trọng quyết định chủ trương đấu tranh của cách mạng ta.

II.1.

Hoàn cảnh lịch sử

• Tình hình thế giới
-

Năm 1929-1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa xảy ra khủng
hoảng kinh tế đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay
gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.

-

Chủ nghĩa phát xít: chủ nghĩa phát xít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi, đe
dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế, chuẩn bị phát động chiến
tranh thế giới.

-

Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcova (7-1935): Quốc tế Cộng sản có
sự chuyển hướng chỉ chiến lược là:
+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế
quốc mà là phát xít.
+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân quốc tế chưa phải là đấu tranh lật
đổ chủ nghĩa tư bản nói chung, mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và
ngăn ngừa chiến tranh thế giới, giành dân chủ và hoà bình;
+ Chủ trương xây dựng mặt trận nhân dân rộng rãi để tập hợp lực lượng đấu
tranh. Tháng 5-1936, Mặt trận nhân dân Pháp, gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã
hội, Đảng Xã hội cấp tiến,... giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử. Chính
phủ của Mặt trận nhân dân lên cầm quyền, ban hành nhiều chính sách tiến bộ có

lợi cho thuộc địa.
+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất
chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.

• Tình hình trong nước
a. Chính trị

8

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình, cử Toàn quyền
mới, ân xá tù chính trị,nới rộng quyền tự do báo chí … tạo thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam.
Có nhiều đảng phái chính trị hoạt động: đảng cách mạng, đảng theo xu hướng
cải lương, đảng phản động …, nhưng Đảng cộng sản Đông Dương là Đảng
mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ, chủ trương rõ ràng.

-

-

-

Hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã được

khôi phục

 là yếu tố quan trọng quyết định bước phát triển mới của phong trào cách mạng
nước ta.
b. Kinh tế: sau khủng hoảng kinh tế thế giới, Pháp tập trung đầu tư, khai thác
thuộc địa để bù đắp sự thiếu hụt cho kinh tế Pháp.
* Nông nghiệp: tư bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất, độc canh cây lúa, trồng cao
su, đay, gai, bông …
* Công nghiệp: đẩy mạnh khai mỏ. Sản lượng ngành dệt, xi măng, chế cất rượu
tăng. Các ngành ít phát triển là điện, nước, cơ khí, đường, giấy, diêm...
* Thương nghiệp: thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu, muối và xuất
nhập khẩu, thu lợi nhuận rất cao, nhập máy móc và hàng tiêu dùng, xuất khoáng
sản và nông sản.
Những năm 1936 -1939 là thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế Việt
Nam nhưng kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu và lệ thuộc kinh tế Pháp.
c. Xã hội: đời sống nhân dân khó khăn do chính sách tăng thuế của Pháp
- Công nhân: thất nghiệp, lương giảm.
- Nông dân: không đủ ruộng cày, chịu mức địa tô cao và bóc lột của địa chủ,
cường hào…
- Tư sản dân tộc: ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép.
- Tiểu tư sản trí thức: thất nghiệp, lương thấp.
- Các tầng lớp lao động khác: chịu thuế khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ.
- Đời sống đa số nhân dân khó khăn nên hăng hái tham gia đấu tranh đòi tự do,
cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
 Các giai cấp và tầng lớp đều căm thù thực dân, tu bản độc quyền Pháp, có
nguyện vọng chung là đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo,
hòa bình.

II.2.


Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ

-

Quán triệt nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng Sản, 7-1936 Hội nghị Ban
chấp hành trung ương Đảng cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong, ủy viên
ban chấp hành Quốc tế cộng sản chủ trì đã họp tại Thượng Hải (Trung Quốc).

9

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

-

Đại hội đã họp và thông qua nghị quyết năm 1936 mà nội dung của nghị quyết
được viết lại trong tài liệu “Chung quang\h vấn đề chính sách mới” xuất bản
vào ngày 30-10-1936

-

Dựa trên những luận điểm cơ bản của Nghị quyết Đại hội lần thứ bảy Quốc tế
cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam để định ra đường lối và
phương pháp đấu tranh thích hợp để đưa cách mạng nước ta tiến lên trong tình
hình mới, bổ khuyết những thiếu sót của Đại hội I.


-

Căn cứ vào diễn biến tình hình thế giới, trong nước và đường lối của Quốc tế
Cộng sản, Hội nghị xác định khẳng định:
+Mục tiêu cách mạng: Vẫn nhất quán làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ
địa cách mạng để tiển lên xã hội cộng sản. ( Nhưng trong hoàn cảnh nước ta
cách mạng tư sản dân quyền là đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ và cải thiện đời
sống)
+Kẻ thù: là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai.
+Nhiệm vụ: đánh đổ bọn đế quốc phản động thuộc địa và tay sai của Pháp, đòi
tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình; lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. (mặt trận
nhân dân rộng rãi)
+Phương pháp cách mạng: Biểu tình, bãi công, đấu tranh một cách ôn hòa chủ
yếu là đấu tranh chính trị.
+Hình thức đấu tranh: Chuyển từ đấu tranh bí mật, bất hợp pháp sang đấu
tranh công khai, hợp pháp. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh bí mật, bất hợp
pháp với đấu tranh công khai nhằm đạt được mục tiêu đề ra và che dấu những
lực lượng cách mạng cần được bảo vệ.
+Đoàn kêt quốc tế: ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp, ủng hộ chính phủ mặt trận
nhân dân Pháp để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn Phát xít ở Pháp và
bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.

Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
-

-

10

Đảng nêu một quan điểm mới: “ Cuộc cách mạng dân giải phóng không nhất

thiết phải kết hợp chặt với cuộc cách mạng ruộng đất. Nghĩa là, không thể nói
rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng ruộng đất, muốn
giải quyết vấn đề ruộng đất thì phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ
không xác đáng”
Tức là với hai nhiệm vụ này không nhất thiết phải song song tồn tại, mà phải
tùy hoàn cảnh mà đặt nhiệm vụ nào lên hàng đầu hoặc giải quyết các nhiệm vụ
một cách liên tiếp. Phải xác định được kẻ thù nào là nguy hiểm nhất để tập
trung lực lượng của dân tộc mà đánh cho toàn thắng. Nếu nhiệm vụ chống đế
quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, vấn đề ruộng đất tuy quan trọng nhưng chưa
phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước hết tập trung đánh đổ đế quốc, rồi sau
giải quyết vấn đề ruộng đất. Nhưng cũng có khi vấn đề ruộng đất và phản đế
liên tiếp giải quyết, vấn đề này phụ thuộc vào vấn đề kia

Trang


Tiểu luận

-

-

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

 Chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn dề
dân tộc và dân chủ, xác định mục tiêu trước mắt của cách mạng, từ đó đề ra các
hình thức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp hướng dẫn quần chúng đấu tranh
giành chính quyền, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh sau này. Đây là nhận
thức mới, phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của
Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.

Đảng đã định ta mục tiêu cụ thể của từng thời kỳ cách mạng trước mắt phù hợp
với những diễn biến tình hình mới. Đảng nhận thức đầy đủ hơn về vị trí chiến
lược của công tác mặt trận, có chủ trương linh hoạt để tập hợp lực lượng một
cách rộng rãi, lôi cuốn mọi lực lượng, dù là tạm thời vào cuộc đấu tranh nhằm
thực hiện mục tiêu trước mắt. Đảng lại biết lợi dụng một cách khôn khéo và
đúng lúc khả năng đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp để đẩy mạnh
phong trào cách mạng của quần chúng, kết hợp chặt chẽ cách mạng Đông
Dương với cách mạng thế giớii
Những quyết định của hội nghị đã phản ánh Đãng đã biết vận dụng đúng đắn,
sáng tạo đường lối của Quốc tế Cộng Sản vào điều kiện cụ thể của dân tộc trong
bối cảnh lúc bấy giờ.

Hạn chế của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 7-1936
- Chưa nêu được những khẩu hiệu thích hợp về dân tộc trong lúc còn tạm gác
khẩu hiệu chiến lược đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc cho các dân
tộc Đông Dương. Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương mà Hội
nghị thành lập chưa thích ứng với hoàn cảnh cụ thể của Đông Dương thời kỳ
này. Bởi vì, yêu cầu lịch sử đặt ra lúc này là cần có một hình thức Mặt trận rộng
rãi hơn để tập hợp quần chúng đấu tranh đòi quyền dân chủ, chống chiến tranh,
chống phátxít, bảo vệ hoà bình. Các Hội nghị Trung ương Đảng sau đó tiếp tục
bổ sung và phát triển thêm.

II.3.

Chung quanh vấn đề chính sách mới tháng 10/1936

-

Tháng 7 – 1936, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ hai tại
Thượng Hải. Xuất phát từ tình hình thực tế Hội nghị đã xác định:


-

Mục tiêu chiến lược: không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất- “ cách mạng
tư sản dân quyền – phản đế và điền địa – lập chính quyền công nông bằng hình
thức Xô viết”, “ để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”.

-

Kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai
của chúng.

-

Nhiệm vu trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc,
chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa
bình. Để hực hiện được nhiệm vụ này, BCH TƯ quyết định lập Mặt trận nhân
dân phản đế gồm các giai cấp, đảng phái các đoàn thể chính trị và các tôn giáo

11

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương để cũng đấu tranh đòi những quyền dân
chủ đơn sơ.

-

Về đoàn kết quốc tế: Đoàn kết với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp,
ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để
cùng chống kẻ thù chung là phát xít và phản động thuộc địa Đông Dương

-

Về hình thức tổ chức và biện pháp đầu tranh: Hội nghị chủ trương chuyển hình
thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công
khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. Mục đích mở rộng quan hệ của
Đảng với quần chúng.

-

Tháng 10- 1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập
làm Tổng Bí thư, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban chấp
hành Trung ương cũng đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm
vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương: cách
mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng
điền địa. “ Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh
phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan trọng hơn giải quyết trước”. Đó là nhận
thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, bước
đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10- 1930.

-

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi
khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng. Hội nghị
lần 3 (3-1937), lần thứ tư (9- 1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-1938)

đã đi sâu về công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về
phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong
mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa
bình.

-

Tại hội nghị tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm
Tự chỉ trích, nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của Đảng viên,
hoạt động công khai trong cuộc vận động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam
Kỳ (4-1939). Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng,
tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối
xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tác phẩm không chỉ có tác dụng lớn
trong cuộc đấu tranh khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong cuộc vận động
dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn
kiện lý luận quan trọng về công tác xây dựng Đảng, vận động quần chúng.

II.4.

Ý nghĩa của phong trào dân chủ 1936-1939

-

Là phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng..

-

Buộc Pháp phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ.

12


Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

-

Quần chúng được giác ngộ về chính trị, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu
của cách mạng.

-

Cán bộ đựợc tập hợp và trưởng thành và tích lũy bài học kinh nghiệm.

-

Là một cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

II.5.

Bài học kinh nghiệm của phong trào dân chủ 1936-1939

-

Về việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.

-


Tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp.

-

Đấu tranh tư tưởng trong nội bộ Đảng và với các đảng phái phản động.

-

Đảng thấy được hạn chế trong công tác mặt trận, dân tộc…

-

Là một cuộc diễn tập thứ hai, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau
này.

TIỂU KẾT
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thời kì 1936-1939 phong trào cách mạng diễn ra
sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia, thông qua cao trào cách mạng khẳng
định đường lối đánh đế quốc và người cày có ruộng tiến lên chủ nghĩa xã hội là chính
xác. Vận dụng trong thời kì 1936-1939 là chống bọn phản động thuộc đĩa, chống phát
xít, chống chiến tranh, đòi quyền dân chủ dân sinh, đó là những mục tiêu trước mắt
phù hợp với tình hình so sánh lực lượng, trình độ giác ngộ và khả năng đấu tranh của
quần chúng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi mới để tiến lên đấu tranh cho mục tiêu lâu
dài.
Do có đường lối đúng đắn, mục tiêu sát hợp, đáp ứng nguyện vọng cấp thiết
của quần chúng nên phong trào đấu tranh rộng khắp, sôi nổi trong phạm vi cả nước.
Trên cơ sở khối liên minh công-nông vững chắc, Đảng xây dựng Mặt trận dân
tộc thống nhất, một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng.
Đảng đã khéo léo kết hợp các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh công khai

và nửa công khai, hơp pháp và bất hợp pháp để xây dựng lực lượng cách mạng. Thông
qua thực hiện đấu tranh Đảng đã xây dựng được đội quân chính trị đông đảo có giác
ngộ, có tổ chức. Đây là thành quả lớn nhất Đảng có được trong thời kì 1936-1939,
đồng thời là nhân tố, điều kiện chuẩn bị cho thắng lợi cao trào cách mạng 1939-1945.
Cao trào dân chủ 1936-1939 thực sự là một cuộc cách mạng sâu rộng, hiếm có
ở một xứ thuộc địa, gắn kết phong trào cách mạng Đông Dương với cuộc đấu tranh
chung chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế giới.

13

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

NHẬN XÉT
-

-

-

-

-

-


III.

Chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và dân chủ, xác định mục tiêu trước mắt của cách mạng, từ đó đề ra các
hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp hướng dẫn quần chúng đấu
tranh giành chính quyền, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh sau này
Cao trào dân chủ 1936-1939 là cuộc chuẩn bị lực lượng cho giai đoạn cách
mạng 1939-1945. Qua cao trào đó, Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ
đông đảo, dày dạn trong đấu tranh, trưởng thành về tư tưởng chính trị và tổ
chức và tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới:
Nắm vững hoàn cảnh cụ thể của cách mạng trong mỗi thời kỳ để xác định đúng
kẻ thù và nhiệm vụ chính trị cụ thể trước mắt để huy động đến mức cao nhất lực
lượng cách mạng và tiến bộ lên trận tuyến đấu tranh, triệt để khai thác những
chỗ yếu của kẻ thù, tập trung ngọn lửa đấu tranh nhằm giành thắng lợi lớn mà
so sánh lực lượng lúc đó cho phép, chuẩn bị điều kiện tiến lên giành những
thắng lợi lớn hơn về sau.
Phân tích chính xác thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân,
các đảng phái chính trị, thực hiện một liên minh dân chủ rộng rãi, kết hợp đúng
đắn sự liên minh bên dưới với liên minh bên trên, lấy liên minh bên dưới - liên
minh công nông làm nền tảng, xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù
hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù.
Sử dụng khéo léo các hình thức tổ chức và đấu tranh, kết hợp công khai với bí
mật, hợp pháp với không hợp pháp, kết hợp các mặt đấu tranh kinh tế, chính trị,
văn hóa, kết hợp đấu tranh của quần chúng với đấu tranh nghị trường, kết hợp
tuyên truyền với tổ chức đấu tranh... giành thắng lợi trong từng cuộc đấu tranh,
trong từng mặt trận, tiến lên giành thắng lợi lớn nhất cho cách mạng.
Chủ trương của Đảng trong thời kỳ 1936-1939 chỉ có tính chất sách
lược nhưng rất kịp thời và phù hợp với tình hình mới, tạo ra cao trào đấu tranh
sôi nổi. Qua đó chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành, có khả năng đối phó với mọi
tình huống, đưa cách mạng tiến lên không ngừng


GIAI ĐOẠN 1939-1945
III.1. Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 11/1939
 Hoàn cảnh diễn ra hội nghị:
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan, mở màn cuộc Chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Ở Đông Dương, thực dân Pháp ra sức vơ vét của cải, tiền bạc, sức người để
phục vụ cho chiến tranh. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, thủ
tiêu những quyền dân chủ tối thiểu mà nhân dân ta đã giành được trong những năm
1936-1938. Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với thực dân Pháp trở nên gay
gắt. Do đó, trong các ngày 6, 7, 8-11-1939, Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm, Hóc
Môn (Gia Định) để bàn các chủ trương của Đảng trong tình hình mới, dưới sự chủ trì

14

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

của đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Tham dự Hội nghị có các đồng chí Lê Duẩn, Phan
Đăng Lưu, Võ Văn Tần...
 Nhiệm vụ cách mạng:
 Nhiệm vụ chiến lược: đánh đổ đế quốc và tay sai, giành hoàn toàn độc lập
cho dân tộc.
 Nhiệm vụ cụ thể:
• Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ; chỉ chủ
trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai.
• Không nêu khẩu hiệu lập Chính phủ Xô viết công nông mà đề ra khẩu

hiệu thành lập Chính phủ Liên bang Cộng hoà dân chủ Đông Dương.
• Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay
cho Mặt trận dân chủ Đông Dương,nhằm liên hiệp các lực lượng dân
chủ và tiến bộ, kể cả các tổ chức cải lương, đấu tranh đòi dân sinh,
dân chủ.
 Lực lượng cách mạng: tập trung toàn bộ lực lượng của dân tộc các nước Đông
Dương.
 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: trên toàn bộ Đông Dương.

III.2. Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 11/1940
 Hoàn cảnh diễn ra hội nghị:
Hội nghị họp từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, trong bối cảnh phátxít Nhật đổ bộ chiếm
đóng Đông Dương, thực dân Pháp từng bước nhượng bộ và đầu hàng Nhật, nhân dân
Việt Nam chịu cảnh "một cổ hai tròng" thống trị của Pháp - Nhật. Khởi nghĩa Bắc Sơn
nổ ra (ngày 27-9-1940), Xứ uỷ Nam Kỳ sau nhiều lần thảo luận đã chủ trương phát
động nhân dân vũ trang khởi nghĩa.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Lê
Duẩn và một số đồng chí uỷ viên trung ương khác bị bắt. Các đồng chí còn lại cùng
đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt (Xứ uỷ Bắc Kỳ) tổ chức
lại Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Trường Chinh giữ chức quyền Tổng Bí
thư của Đảng. Hội nghị Trung ương họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), có các
đồng chí Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần
Đăng Ninh,... tham dự.
 Nhiệm vụ cách mạng:
 Nhiệm vụ chiến lược: Đảng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông
Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập.

15

Trang



Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

 Nhiệm vụ cụ thể: mở rộng Mặt trận phản đế, lựa chọn những người hăng
hái nhất trong các đoàn thể của Mặt trận, tổ chức các đội tự vệ, trực tiếp vũ
trang cho dân chúng, tổ chức nhân dân cách mạng quân, tiến lên vũ trang
bạo động.
 Lực lượng cách mạng: nhân dân trên toàn Đông Dương, trong đó đội du kích
Bắc Sơn là cơ sở xây dựng lực lượng cách mạng.
 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: trên toàn Đông Dương.

III.3. Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941
 Hoàn cảnh diễn ra hội nghị:
Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài về đến Cao Bằng. Về đến Tổ quốc,
Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng bắt tay xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức quần chúng
tại Cao Bằng, chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương. Sau một
thời gian chuẩn bị, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương được triệu tập tại
Pắc Bó (Hà Quảng - Cao Bằng), từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, do Nguyễn Ái Quốc
chủ trì. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng
Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng một số đại biểu của Xứ uỷ Trung Kỳ, Bắc Kỳ và một
số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.
 Nhiệm vụ cách mạng:
 Nhiệm vụ chiến lược: Trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân
tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật.
 Nhiệm vụ cụ thể: Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một
cuộc khởi nghĩa võ trang và phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị cho cuộc
khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi.

 Lực lượng cách mạng: tập trung toàn bộ lực lượng của dân tộc các nước Đông
Dương.
 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: trên từng nước thuộc phạm vi Đông
Dương.

NHẬN XÉT
Về cơ bản ta có thể thấy những sự hoàn chỉnh rõ nét ở hội nghị 1941 so với
1939: hội nghị 1941 đã tạm thời gác cách mạng ruộng đất vốn đã được hạn chế chỉ tịch
thu của đế quốc và địa chủ năm 1939 thay vào đó và việc quyết định đặt ngọn cờ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu.
Hội nghị năm 1941 đã thể hiện rõ tư tưởng: “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân

16

Trang


Tiểu luận

Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam

tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” trích câu nói chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Nếu xem như hội nghị 1939 là xác định tính chất của cuộc cách mạng ở Việt
Nam thì hội nghị năm 1941 đưa ra tư tưởng rõ ràng chuẩn bị cho khởi nghĩa.
Có thể nhận thấy điểm khác biệt rõ rệt trong cách thức chủ trường xây dựng:
Năm 1939 đảng ta với chủ trường xây dựng hợp pháp xây dựng đoàn thể quần chúng
bí mật thì đến đại hội Đảng năm 1941 Đảng đã nhận thấy thời cơ khởi nghĩa chín

muồi.
Về xây dựng Đảng: Yêu cầu của công tác xây dựng Đảng lúc này là nhằm làm
cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng.
Hội nghị là đã làm sáng tỏ về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, đã sáng
tạo trong việc thực hiện hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong
kiến, phù hợp với đặc điểm của cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa.
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, vấn đề mặt trận dân tộc thống nhất mới
được hình thành trên thực tế. Giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc cần phải có mặt
trận dân tộc thống nhất rộng rãi, không phải chỉ tập hợp công nhân, nông dân, tiểu tư
sản, mà cả địa chủ yêu nước, nhân sĩ, thân hào tiến bộ.
Trong khi đại hội đảng 1939 Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ. Lực lượng chính của Mặt trận là: công nhân,
nông dân, đoàn kết với các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh
trong chốc lát hoặc cô lập giai cấp tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ.
Điểm khác biệt lớn nhất là tạm dừng cách mạng ruộng đất vì nó làm cho tinh
thần đoàn kết đân tộc tăng cao dẫn đến chủ trương xây dựng lực lượng giải phóng đân
tộc sẽ có cả tầng lớp địa chủ và tiểu tư sản thay vì cô lập như năm 1939, đây là một
bước đi sáng suốt tạo điều kiện cho CM tháng 8 thành công.

17

Trang



×