Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Hồ chí minh vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm chủ nghĩa mác lênin về con người và vai trò của con người đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở việt nam tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.89 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu

...........................................................................................................1

1. Lý do tính cấp thiết của đề tài…………………………………………….......1
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. ………………………………………….........2
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan. ………………………………………......2
4. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………......2
5. Phương pháp nghiên cứu. ……………………………………………….........2
6. Kết cấu tiểu luận..…………………………………………………………......2
Nội dung.……………………………………………………………………......3
Chương 1 : Quan niệm cơ bản về con người……………………………….....3
1.1 Khái niệm...…………………………………………………………….........3
1.2 Quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và vai trò của con người... 5
Chương 2:Hồ chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin về con người và vai trò của con người đối với cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..…………………………....................................8
2.1 Hồ chí Minh vận dụng, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con người……...……………………………………............................................8
2.2 Hồ chí Minh vận dụng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
vấn đề vai trò con người.………………………….............................................14
Chương 3: Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò con người đối với sự
nghiệp cách mạng ở Việt Nam. .………………………………………….......17
3.1 Về mặt lý luận..……………………………………………………….........17
3.2 Về măt thực tiễn………………………………………………………........18
Kết luận.…………………………………………………………………….....24
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………. ..25
Danh mục tài liệu viết tắt…………………………………………………......66



MỞ ĐẦU
1.Lý do tính cấp thiết chọn đề tài.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay loài người đã tạo ra những điều kiện
để nâng mình lên một trình độ chủ thể mới, có vai trò quyết định hơn đối với
tiến trình phát triển của lịch sử. Nhưng điều đó đồng thời cũng đặt ra với mức độ
bức thiết chưa từng thấy sự lựa chọn của người về một con đường thực sự đưa
mình tới tự do hạnh phúc.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa của con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển tiến bộ của xã hội, vì vậy cuộc cách mạng phải giải
phóng con người trên các phương diện chính trị, văn hóa, xã hội và tư tưởng.
Con người là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần của xã
hội. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người vừa là chủ thể tổ
chức của nền sản xuất xã hội, vừa tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là
một yếu tố của lực lượng sản xuất. Với ý nghĩa đó, con người chính là yếu tố
quyết định lực lượng sản xuất.
Khi hình thành quan niệm duy vật về lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên lịch sử của con người. Bằng
sự phát triển sự phát triển toàn diện thì con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực phát triển lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất càng phát triển thì khả
năng chiếm lĩnh và sử dụng các lực lượng tự nhiên ngày càng cao hơn, con
người tạo ra ngày càng nhiều hơn cơ sở vật chất cho bản thân mình, đồng thời từ
đó thúc đẩy con người tự hoàn thiện chính bản thân họ.
Vì vậy trong quá trình phát triển của cuộc cách mạng xã hội cần phải
khẳng định và phát triển thêm lý luận về con người nhằm xây dựng phát huy
sáng tạo vai trò của con người, vì con người là mục tiêu cao nhất, đồng thời là
động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Là sinh viên khoa chủ nghĩa xã hội được thầy cô hướng dẫn tác giả nhận
thấy đây là vấn đề cần được nghiên cứu đề tài tác giả trọn “Sự vận dụng và phát
triển của chủ tịch Hồ chí Minh đối với các luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin về con người và vai trò của con người đối với sự nghiệp cách mạng xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam”

2


2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Tiểu luận nghiên cứu vai trò của con người trong cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Sự sáng tạo của Hồ chí Mình về con người trong xã hội chủ nghĩa
Ý nghĩa của nó đối với sự giải phóng con người trong giai đoạn hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan.
Hiện nay có nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu có liên quan.
Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện, đại hóa . Phạm
minh Hạc, Nxb chính trị quốc gia 1996
Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới kỷ yếu hội nghị khoa học từ
28-29/7/ 1993 tại thành phố Hồ chí Minh
Các tài liệu này đã nhắc đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của đề tài
tiểu luận. Nhưng hầu hết vẫn chưa đi vào nghiên cứu đến sự kế thừa phát huy
các luận điểm của Hồ chí Minh về con người vì vậy tác giải nghiễn cứu và làm
rõ hơn nữa về vai trò của con người trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
4. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể làm tôt đề tài tác giả nhận định cần phải hoàn thành nhữn vấn
đề sau:
Quan niệm cơ bản về con người
Hồ chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con người và vai trò của con người đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò con người đối với sự nghiệp cách
mạng ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Tác giả dùng phương pháp nghiên duy vật lịch sử và tổng hợp tài liêu.

Ngoài da còn dùng các phương pháp tư duy lôgic, phân tích tổng hợp,
diễn dịch, quy nạp
6. Kết cấu tiểu luận.
Tiểu luận được chia làm 3 chương 8 tiết ngoài phần nội dung có phần
mục lục và tài liệu tham khảo.

3


NỘI DUNG
Chương I: QUAN NIỆM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI
1.1 Khái niệm.
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất
của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các
nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều
đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được
các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y
học, triết học, xã hội học.v.v...Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con
người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý
nghĩa riêng đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu
thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi
nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những
người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải
quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
trong chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là
một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con
người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể

của muôn loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là
phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là
do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hoòn
con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác
quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình

4


nhận thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra
được bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người
trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy
vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm
giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi
không có khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu
ớt, phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng
tạo của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản
phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan
điểm triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen
quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do
đó đời sống con người chỉ được xem xét vè mặt tinh thần Song Heghen cũng là
người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần
mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng
thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật
cơ bản của quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách đã phê phán
tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm

con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh học
trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự
nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá
trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong
mối liên hệ cộng đồng thì phơ bách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy
tâm.
Tóm lại: Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý
luận xem xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá
5


phần hồn thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực
quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên
họ vẫn còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến
bản chất con người.
Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó,
đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết
triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người thiện thực, con người thực
tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Con người vừa
là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên.
Như vậy con người là tổng hòa của các mối quan hệ trong xã hội, con
người phải được tồn tại trong xã hội không thể đứng ngoài xã hội.
1.2 Quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và vai trò của con
người.
1.2.1 Quan điểm Mác – Ăngghen về con người.
Con người là sản phẩm của xã hội, của lịch sử. Sự hình thành và phát triển
của con người luôn phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Con người có hai mặt: mặt tự nhiên (sinh vật ) và mặt xã hội. Là một sinh
vật con người cũng có nhưu cầu để tông tại và phát triển như ăn uống sinh sản,
bảo vệ và phát triển giống nòi… nhưng mặt tự nhiên của con người cũng khác

với các sinh vật khác do tính xã hội hóa, chịu sự tác động sâu sắc của xã hội
trong quá trình lịch sử. Con người chỉ thành người trong mối quan hệ xã hội
trong xã hội, tách biệt khỏi xã hội con người sẽ không có tính người.
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ của các mối quan hệ xã
hội, trong các quan hệ xã hội thì quan hệ sản xuất cơ bản nhất vì nó chi phối mọi
hoạt động của con người từ sản xuất vật chất đến hoạt động của con người từ
sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua
nhiều phương thức sản xuất khác nhau trên cơ sở những phương tiện sản xuất đó
tạo ra những mối quan hệ xã hội khác nhau, vì vậy nó cũng tạo ra những con
người khác nhau, khác nhau về mặt xã hội cho các thời đại riêng biệt. trong xã
6


hội có phân chia giai cấp, con người gắn với những giai cấp nhất định, không có
con người phi giai cấp.
Là sản phẩm của xã hội, của lịch sử con người được kế thừa những tiền
đề, những điều kiện của giai đoạn lịch sử chước đó. Chủ nghĩa tư bản tạo ra nền
đại công nghiệp cơ khí phát triển cao và cùng với nó là giai cấp công nhân hiện
đại với những phẩm chất tiên tiến, tiêu biểu cho con người mới trong xã hội
tương lai xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là những tiền đề quan trọng cho con người
mới ra đời và phát triển.
Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải gắn với những điều kiện kinh
tế xã hội, tạo ra hoàn cảnh để con người mới hình thành phát triển. Mặt khác cần
phải chú ý đến tính kế thừa, chú ý đến hai mặt tự nhiên và xã hội của con người,
chú ý đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần để không rơi vào chủ nghĩa
duy tâm.
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể làm ra lịch sử, lịch sử
của bản thân con người, do con người sáng tạo ra. Hoạt động của con người được
quy định một cách khách quan bởi các điều kiện kinh tế và xã hội. Ăngghen cho
rằng : “ chúng ta sáng tạo ra lịch sử của chúng ta, nhưng là một sáng tạo với những

điều kiện tiền đề và trong những điều kiện hết sức xác định ” [5, 82].
Chủ nghĩa cộng sản là hình thái kinh tế xã hội khác về chất so với mọi
hình thái kinh tế xã hội trước đó. Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể được xây dựng
bằng chính hoạt động tự giác của con người trong xã hội mới.
Con người được hình thành và phát triển với tư cách làm chủ thể chân
chính của xã hội mới sẽ tác động mạnh mẽ vào tiến trình phát triển của xã hội.
Con người hiểu rõ quy luật và hành động phù hợp thì như Ăngghen nói: “ những
lực lượng xã lạ khách quan, từ trước đến nay vẫn thống trị lịch sử, giờ đây sẽ
chính do con người kiểm soát. Chỉ có từ đó, loài người mới sáng tạo ra lịch sử
của mình một cách hoàn toàn tự giác, chỉ có từ đó những nguyên nhân xã hội mà
họ đem vận dụng mới đưa lại kết quả mà họ mong muốn, với một mức độ rất
lớn và luôn tăng mãi”
7


1.2.2 Quan điểm của Lênin về con người.
Lê Nin đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác về con người. Đặc biệt là vấn
đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Từ những quan điểm của Mác và dựa
vào thực tế nước Nga. Lê Nin đã đề ra những nội dung và biện pháp để xd con
người xã hội chủ nghĩa:
Về nội dung: con người XHCN là những con người có tinh thần, có năng
lực làm chủ tập thể, là người biết tham gia công việc quản lý đất nước.
“Làm thế nào mà để những con người bình thường nhất như chị nấu bếp
biết tham gia quản lý đất nước” lao động hết mình. Lê Nin nói: “họ làm việc
không chỉ riềng mình mà còn làm cho bà con ” Nghĩa là do toàn xã hội.
Con người mới phải là con người có tri thức nhiều lĩnh vực: khoa học
công nghệ muốn có tri thức phaỉ học tập “học, học nữa, học mãi”
“Người ta chỉ có thể làm người cộng sản chân chính khi biết làm giàu trí
tuệ của họ bằng tri thức mà loài người tạo ra”.
Phải xây dựng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trong trường học,

cung văn hoá, thư viện sân thể thao.
Cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu không thể phát huy vai trò của con người vì
vậy phải đẩy mạnh cuộc cách mạng văn hóa, để đào tạo đạo đức giáo giục lối
sống và văn hoá cho con người

8


Chương II: HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG
TẠO QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI
TRÒ CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG XHCN Ở VIỆT NAM
2.1 Hồ chí Minh vận dụng, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh
là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người.
Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề
trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân,
dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào
tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng
đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ
sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất
nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống
cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng
bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" [1, 56]
. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người
một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở

mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi
ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con
người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như
9


những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì
tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách
nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách
riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình"
[2,246]
.Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo
Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan,
trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ
của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá
nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng
đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù
bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một
cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị
áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt
Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những
"người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái
niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản
cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về
lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc
biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách

mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư
tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn
10


về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách
mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo
dục con người v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng
về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự
nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền
đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến
đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới
mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa
vào lực lượng của toàn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ
quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất
biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị,
văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất.
Theo Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là
làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là nhằm

nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân" xây dựng chủ nghĩa xã
hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người
dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách
11


quan, phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo
trên cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh giáo điều, rập khuôn máy móc.

Sự

sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận điểm của Ăngghen: "Đối
với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra,
không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa
cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay"[3, 270].
.Vì vậy, không chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà
cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra những mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, trước hết, "cần có con người xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh đã
thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con người là mục tiêu, đồng thời
vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân
con người.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con
người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao
động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương
yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi". Người có
một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô
tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được
hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước,
thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân
lao động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng sau sự phục

tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào
thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến" [4,209]. Tin vào quần
chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ
bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất,
giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước
xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người.
12


Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân",
thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực "lấy
dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan điểm
của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách",
một phương tiện để thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả
những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một
cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về
nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan
điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm
của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính
ra lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân
của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền
thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước
khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư
tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư
tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau
khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con
người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ

nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân
dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại
trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với
quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân
dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng,
Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to
13


lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự
nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự
nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống
nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu
thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản
thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi
lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng
nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con
người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn
cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định
thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật
triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư
cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ

trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào
sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất
so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có
tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa
nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt
cách của một nhà hiền triết phương Đông.
14


Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất
quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể
hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách của
Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển.
Con người Việt Nam đang là trung tâm trong "chiến lược phát triển toàn diện";
đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
2.2 Hồ chí Minh vận dụng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vấn đề vai trò con người.
Vật chất và tinh thần là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm
tính chất XHCN của các lý luận CNXH và các chính sách thực tiễn. Có thể thấy,
những vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra từ hàng nửa thế kỷ trước đây vẫn
còn nguyên tính chất thời sự cho ngày hôm nay, khi mà tình cảnh nghèo đói của
hàng trăm triệu người trên thế giới vẫn chưa được giải quyết, chưa có đường ra.
Đó là vấn đề làm sao mang lại hạnh phúc cho số đông người lao động hay làm
thế nào để khắc phục tình trạng nghèo đói, bệnh tật - những vấn đề mang tính
chất toàn cầu. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH trước hết nhìn nhận

con người như là mục tiêu quan trọng nhất của chế độ xã hội đó. Mặt khác,
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, con người cũng được nhìn nhận như là
động lực chính của cách mạng. Do đó “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, cộng
sản chủ nghĩa phải xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, con người cộng sản
chủ nghĩa. Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thì phải xây
dựng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Mà muốn có tư tưởng xã
hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thì phải gột sạch chủ nghĩa cá nhân... Mọi
15


người đều phải có tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình” [4,323].
Người khẳng điều này năm 1959 khi miền Bắc đang bước vào thời kỳ quá độ lên
CNXH. Con người XHCN phải là con người “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có
đức, vừa có tài trong đó đạo đức phải là gốc rễ. Người từng nói: “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó!”
Tuy nhiên, đức, tài không phải tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của quá trình trau
dồi, rèn luyện, học hành phấn đấu, nỗ lực của từng cá nhân dưới sự hậu thuẫn,
trợ giúp của xã hội. Trong bài nói về đạo đức cách mạng đăng trên Tạp chí Học
tập số 12-1958, Người khẳng định: Có gì sung sướng, vẻ vang hơn là trau dồi
đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng CNXH và
giải phóng loài người”. Người đặc biệt nhấn mạnh: chướng ngại vật lớn trên con
đường xây dựng CNXH chính là tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, thắng lợi của
CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Ngày 31-12-1958, nói chuyện với học sinh và giáo viên trường phổ thông cấp 3
Chu Văn An (Hà Nội), Hồ Chí Minh vạch rõ: Tư tưởng XHCN trái hẳn với tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa. Tuy nhiên, Người cũng phân biệt rất rõ chủ nghĩa cá
nhân với những lợi ích cá nhân đúng đắn của con người, “Chống chủ nghĩa cá
nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân”. CNXH là một chế độ xã hội
trong đó có sự hòa quyện một cách nhuần nhuyễn giữa cá nhân và tập thể, cá thể
và cộng đồng, lợi ích cộng đồng được đề cao song không làm mất đi và lu mờ

cái tôi của mỗi cá nhân. Trong chế độ XHCN và CSCN, mỗi người là một bộ
phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong
xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của
lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá
nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn. CNXH là một chế độ xã hội mang tính
nhân văn, nhân bản sâu sắc, hướng tới vì con người, cho con người, phát huy
sức mạnh của con người cá nhân cũng như con người cộng đồng, ở đó cái tôi và
cái chúng ta giao hòa với nhau.

16


Để có được một chế độ XHCN như vậy, phải tập trung phát triển kinh tế,
văn hóa trong đó kinh tế phải được ưu tiên hàng đầu, kinh tế là yếu tố quyết định
sự thắng lợi của chế độ XHCN so với các chế độ xã hội khác. Người khẳng định
tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần chúng
ngày 11-02-1960: Muốn tiến lên CNXH thì phải phát triển kinh tế và văn hóa.
Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới
vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước. Nhấn mạnh vai trò của phát triển kinh
tế với thắng lợi của chế độ XHCN, nói chuyện với nhân dân Thủ đô về thành
công của Đại hội lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên xô tối 19-02-1959, Người
khẳng định: “Tờ báo tư sản Mỹ Cộng hòa mới viết: “Liên Xô chọn kinh tế làm
chiến trường, trên chiến trường ấy chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi” [4,338].
Như vậy, nhìn nhận kinh tế như điểm mấu chốt của sự thắng lợi giữa chế độ xã
hội này với chế độ xã hội khác, có thể thấy quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về CNXH là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, có tính khả thi. Tuy nhiên, dù
là phát triển kinh tế hay văn hóa thì động lực chính ở đây vẫn không có cái gì
khác ngoài sức mạnh của quần chúng nhân dân. Đảng, Nhà nước chỉ giữ vai trò
của người lãnh đạo, quản lý, định hướng chứ không thể làm thay nhân dân:
CNXH là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên. Đó là công trình tập

thể của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH chính là kho báu vô giá
của Đảng và nhân dân ta, định hướng cho sự phát triển của đất nước ta trong bối
cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến đổi. Kiên định con đường XHCN mà
Đảng và Bác Hồ đã chọn, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, tăng cường các chính sách xã hội như xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao năng lực cho phụ nữ... chính là biểu hiện sinh động của
việc triển khai tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH trong tình hình mới. Dù có biểu
hiện dưới hình thái nào, thì điểm cốt lõi của việc vận dụng và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh về CNXH là hướng tới xây dựng một xã hội tất cả vì con người,
cho con người. Trong xã hội đó, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
17


sự phát triển. Mục tiêu này vừa là đích tới, vừa là thước đo tính chất XHCN của
tất cả các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước ta.

18


Chương III: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CON
NGƯỜI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM
3.1 Về mặt lý luận
Trong những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước tiến
lên, con người là nhân tố quan trọng bậc nhất, là nhân tố quyết định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
phải có con người XHCN". Chúng ta sẽ tiến lên, sẽ chiến thắng trong cuộc thách
thức mới của thời đại, chủ yếu là bằng sức mạnh sáng tạo của con người Việt
Nam XHCN.
Bởi vì, đối tượng của sự thách thức chính là con người Việt Nam, dân tộc

Việt Nam, và người đứng ra gánh vác nhiệm vụ phải giành thắng lợi trong cuộc
thách thức ấy cũng không phải là ai khác, mà chính là con người Việt Nam, dân
tộc Việt Nam. Con người luôn đứng ở trung tâm của mọi quá trình lịch sử, trên
đất nước ta đã như vậy, ở các nước khác trên thế giới và trong toàn bộ lịch sử
loài người cũng như vậy. Con người Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã sáng tạo
ra lịch sử của dân tộc, làm nên những sự tích phi thường, xây dựng nên truyền
thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Con người ấy sớm có
tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước nồng nàn, chí khí đấu tranh bất khuất,
dũng cảm và thông minh trong chiến đấu, cần cù và sáng tạo trong lao động.
Thời đại ngày nay đòi hỏi con người Việt Nam mới phải là con người vừa
cách mạng vừa khoa học, vừa có tinh thần làm chủ, vừa có năng lực làm chủ.
Con người ấy kế thừa và không ngừng nâng cao những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và của Đảng, phải thường xuyên đổi mới kiến thức văn hoá, nâng cao
trình độ kỹ thuật và công nghệ, có thể lực mạnh khoẻ, tâm hồn trong sáng, trí tuệ
và tài năng ngày càng được phát huy, có tầm hiểu biết rộng lớn về chính trị, tư
tưởng, về kinh tế và xã hội. Song ở đây cần phải nhìn thẳng vào sự thật. Bên
cạnh bản chất tốt đẹp và những tiến bộ lớn về nhiều mặt, con người Việt Nam
hiện nay vẫn còn có những hạn chế và thói quen do nền sản xuất nhỏ lâu đời để
19


lại, những ảnh hưởng của cách làm ăn tản mạn, bảo thủ trì trệ, thiếu đầu óc tổ
chức. Trong những năm gần đây, các nhân tố tiêu cực trong xã hội đang làm xói
mòn phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam mà Đảng đã dầy công vun đắp.
Trong một bộ phận thế hệ thanh niên ngày nay, đang xuất hiện những hiện
tượng thoái hoá về tinh thần và thể lực rất đáng lo ngại.
3.2 Về măt thực tiễn
Một nhiệm vụ cực kỳ to lớn và nặng nề của Đảng và Nhà nước là phải
chăm lo giáo dục và đào tạo con người Việt Nam, làm cho mỗi người đều trở
nên những con người mới XHCN có đầy đủ phẩm chất và tài năng để đảm nhận

công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bởi vì, chất lượng toàn diện của con
người Việt Nam XHCN là nhân tố quyết định vận mệnh của đất nước, tương lai
của dân tộc.
Bằng chính sách xã hội và bằng công tác giáo dục và đào tạo, chúng ta
phải ra sức phấn đấu để không ngừng nâng cao chất lượng của con người mới
Việt Nam trên hai phương diện: Với tư cách là người làm chủ tập thể XHCN,
đồng thời với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội nước ta, là "lực
lượng sản xuất vĩ đại nhất" như Mác đã từng khẳng định.
Con người mới XHCN ở nước ta phải được rèn luyện và đào tạo trong
quá trình tổng hợp của ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ
thuật là then chốt. Với những bước phát triển mới của cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cuộc cách mạng giáo dục phải được coi là một bộ phận hữu cơ không thể
thiếu, phải mở rộng cửa của giáo dục cho khoa học và kỹ thuật.
"Giáo dục toàn diện", "giáo dục thường xuyên", "giáo dục liên tục". Giáo
dục trong nhà trường, trong gia đình, trong xã hội, trong các cơ sở sản xuất,
trong lực lượng vũ trang, trong các đoàn thể quần chúng. Nội dung của cuộc
cách mạng giáo dục phải kết hợp chặt chẽ khoa học - kỹ thuật với lao động sản
xuất; "kết hợp lao động sản xuất của tất cả mọi người với việc giáo dục cho tất
cả mọi người"1 . Làm cho con người mới Việt Nam, từ giai cấp công nhân, nông
dân lao động, trí thức XHCN, mọi công dân thuộc các tầng lớp, các dân tộc đều
20


trở thành những con người mới, vừa cách mạng, vừa khoa học. Với trình độ
khác nhau và ngày càng được nâng cao, mọi người đều tiếp cận với những kiến
thức về văn hoá và khoa học, những tri thức về kỹ thuật và công nghệ mà xã hội
cần đến trong những năm trước mắt, đồng thời có được những dự trữ về kiến
thức văn hoá và khoa học cao hơn, trình độ kỹ thuật và công nghệ hiện đại hơn,
đáp ứng yêu cầu sau này của sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà. Ở đây, cần
phải nói đến vai trò và vị trí quan trọng của trên 14 triệu học sinh đại học, phổ

thông, tuy đang còn ở trên ghế nhà trường, nhưng vẫn là tiềm lực hùng hậu của
cách mạng khoa học - kỹ thuật, là những người làm chủ tương lai của đất nước.
Bởi vậy, việc tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng khoa học và kỹ
thuật một cách cân đối, đồng bộ, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược
phát triển chung, với các hướng khoa học, kỹ thuật và kinh tế ưu tiên trong từng
giai đoạn là một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn. Một mặt, phải tiếp tục đào tạo
tốt đội ngũ cán bộ chuyên môn và nghiên cứu khoa học, cán bộ đầu ngành và
liên ngành (cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật); đặc
biệt chú trọng đào tạo các kỹ sư thực hành, kỹ sư thiết kế, kỹ sư công nghệ có
trình độ cũng như các cán bộ quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý khoa học
và kỹ thuật có tài năng. Mặt khác phải đẩy mạnh hơn nữa việc đào tạo đội ngũ
công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ nông dân lao động tiên tiến và
có kỹ thuật; có chính sách để sử dụng tốt hơn, chăm lo đầy đủ hơn đến đời sống
vật chất và tinh thần của đội ngũ này.
Khoa học là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, tinh thần chủ động và sức
mạnh sáng tạo của quần chúng, tiềm lực tinh thần và trí tuệ, trình độ làm chủ kỹ
thuật và công nghệ, năng lực tổ chức và kỹ năng thực hành của hàng triệu người
- từ những người lãnh đạo và quản lý cấp cao của Đảng và Nhà nước đến mỗi
đảng viên, cán bộ, công nhân, nông dân và trí thức XHCN là nền tảng, là động
lực và là nguồn dự trữ chủ yếu để thực hiện chiến lược ổn định và đẩy nhanh sự
phát triển kinh tế và xã hội, thực hiện công nghiệp hoá XHCN và xây dựng
thành công CNXH ở nước ta.
21


Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta ngày càng phát triển. Sự nghiệp ấy
đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao đối với nhân dân lao động, đối với mỗi con
người Việt Nam. Vì vậy, con người Việt Nam mới phải tích cực và chủ động
vươn lên, cải tiến và phát triển không ngừng lối suy nghĩ cũng như cách làm
việc: Đổi mới tư duy, đôÃi mới phong cách công tác, xây dựng nếp sống mới.

Trong hơn nửa thế kỷ qua, trong thực tiễn chiến đấu và xây dựng, Đảng ta
đã từng bước nắm vững phương pháp tư duy của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày
nay, trước tình hình mới, chúng ta cần phát triển phương pháp tư duy ấy lên một
trình độ mới. Tư duy ấy đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc rằng: Khoa học là
động lực thúc đẩy tiến lên và cốt lõi của tư duy ấy không phải cái gì khác hơn là
phải phát hiện ra các hệ thống quy luật - từ những quy luật chung trong tình hình
chung đến quy luật cụ thể trong từng tình hình cụ thể. Sự vật luôn luôn đổi mới
đòi hỏi chúng ta phải phát hiện được những quy luật trong tình hình mới.
Nói đến tư duy khoa học cũng tức là nói đến sự cần thiết không những
phải tìm hiểu thế giới mà còn phải cải tạo thế giới. Cần thấm nhuần sâu sắc luận
điểm rất cơ bản mà từ lâu Mác đã khẳng định: Trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của một nước không phải tùy thuộc trình độ hiểu biết khoa học ở nước ấy
mà bằng trình độ ứng dụng thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
và đời sống. Chúng ta đều biết rằng, nước Mỹ thường dẫn đầu trong các phát
minh của khoa học tự nhiên, nhưng chính Nhật Bản lại là nước đã đi trước trong
việc làm chủ và vận dụng các phát minh ấy, tạo nên những tiến bộ vượt bậc về
kỹ thuật và công nghệ. Nước ta là một nước đang phát triển, chúng ta càng phải
đặt lên hàng đầu vấn đề ứng dụng thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất và đời sống; bao gồm cả những thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật
đã kết luận ở nước ta cũng như ở các nước trên thế giới. Nghiên cứu cơ bản cần
phải được định hướng vào đối tượng cụ thể là con người Việt Nam, điều kiện
thiên nhiên nhiệt đới của nước ta và yêu cầu tạo nên cơ sở để làm chủ các kỹ
thuật và công nghệ mới.

22


Tư duy mới là phải nhạy bén với cái mới, biết tiếp thu cái mới, cái tiên tiến,
chống lại lối suy nghĩ cũ kỹ, lỗi thời. Muốn đưa nền kinh tế - xã hội nước ta tiến
lên, chúng ta không thể dừng lại ở cái cũ, cái hiện nay, mà phải thấy trước

những nhu cầu mới của cuộc sống, phát hiện những quy luật mới, những khả
năng mới của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Từ đó, mà hướng mọi hoạt động
khoa học vào những cái mới, tạo điều kiện cho những mầm mống mới nảy sinh
và phát triển. Cho nên, những lề thói bảo thủ, an phận là kẻ thù của khoa học.
Tư tưởng tiến công thuộc về bản chất của tư duy khoa học.
Tri thức khoa học bao gồm những giá trị tri thức không những của dân tộc
ta mà của cả loài người tiến bộ. Hơn nữa, trong điều kiện về khoa học cũng như
về kỹ thuật và công nghệ, nước ta còn ở trong tình trạng trì trệ và lạc hậu, thì
chúng ta càng phải biết coi trọng và tiếp thu những thành tựu khoa học và tiến
bộ kỹ thuật của thế giới. Cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đang phát triển với
nhịp độ cao. Tuy duy khoa học của chúng ta, phải nhìn lên phía trước, nhanh
chóng tiếp thu những phát minh của thời đại.
Tư duy mới, phong cách mới. Khi nói đến phong cách công tác, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thường nói đến tinh thần cách mạng Nga
và đầu óc thực tế Mỹ. Trải qua lịch sử lâu đời, con người Việt Nam đã tự rèn
luyện lấy một phong cách sống và làm việc đầy tinh thần tiến thủ và chứa đựng
khả năng hành động thực tiễn lớn. Hiện nay, trong tình hình mới, để xây dựng
xã hội mới, nền kinh tế mới, con người mới Việt Nam cần có tiếp tục sự đổi mới
về phong cách.
Chúng ta đã từng nói nhiều đến sự cần thiết phải đổi mới phong cách làm
việc, tác phong công tác. Nhưng cũng từ lâu đã tồn tại dai dẳng một tác phong
cực kỳ tiêu cực, đó là tác phong nói mà không làm. Chúng ta thử điểm lại những
nghị quyết hay quyết định từ hơn một thập kỷ lại đây. Biết bao vấn đề chúng ta
đã đề ra như là những yêu cầu cấp bách, nghị quyết sau tiếp theo nghị quyết
trước, mà cuối cùng, việc tổ chức thực hiện vẫn không đưa lại hiệu quả gì hoặc
chỉ đưa lại hiệu quả không đáng kể. Nhiệm vụ đề ra càng cấp thiết thì tổ chức
23


thực hiện càng chậm chạp. Do vậy, nói đến tác phong công tác, thì trước hết, phải

nói đến phong cách lời nói đi đôi với việc làm, nói là làm, nói ít làm nhiều. Cần lên
án cái tác phong xấu xa nói mà không làm, phải bài xích nó, xóa bỏ nó đi.
Trong nghiên cứu khoa học, phải xây dựng phong cách học đi đôi với
hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Có học hàm học vị để đánh giá trình độ
của cán bộ là cần thiết. Nhưng cần phải đấu tranh kiên quyết chống lại lối học
"khoa cử", chỉ biết chạy theo và coi trọng văn bằng học vị mà coi nhẹ thực hành,
coi nhẹ kỹ thuật và công nghệ. Bởi vì, nền kinh tế và xã hội của nước ta sẽ tiến
lên nhanh hay chậm là tùy thuộc ở chỗ khoa học thông qua kỹ thuật và công
nghệ, thông qua các hình thức và phương pháp quản lý đã tác động như thế nào
vào nền sản xuất, vào mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Hơn nữa, chỉ có
gắn liền với thực tiễn thì khoa học mới có thể phát triển được. Khoa học phải trở
thành "một chức năng của quá trình sản xuất", "nền sản xuất, trở thành phạm vi
ứng dụng của khoa học, thành một nền sản xuất khoa học thực nghiệm sáng tạo
ra của cải vật chất".
Từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, lao động phần lớn mang tính chất thủ
công, tiến thẳng lên CNXH, chúng ta không chỉ thiếu một cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH - một nền công nghiệp sản xuất lớn hiện đại, mà còn thiếu cả
phong cách làm việc, tác phong công tác của con người lao động trong nền sản
xuất lớn. Bởi vậy, cần phải xây dựng cho được phong cách làm việc khoa học,
tác phong công tác của giai cấp công nhân - tác phong công nghiệp. Ra quyết
định thì phải có cơ sở khoa học, dựa vào kết quả của điều tra nghiên cứu, tránh
lề thói tùy tiện. Thực hiện quyết định thì phải có tổ chức, có kế hoạch, có kỷ
luật, có kiểm tra. Phong cách công tác mới phải coi "kỷ luật lao động là then
chốt của toàn bộ công cuộc xây dựng kinh tế của CNXH".
Đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật của chúng ta trong hoạt động của
mình, phải cùng với nhân dân lao động xây dựng nên nếp sống mới, một nếp
sống mang đầy đủ tính ưu việt của CNXH và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

24



"Sống, học tập và làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại". Sống giản dị, lành mạnh;
cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.
Khoa học là bản chất của sự vật. Ngay trong cuộc sống hàng ngày, người
cán bộ khoa học phải biết tôn trọng thực chất; tránh ba hoa, hình thức, phô
trương; phải cách mạng, khoa học, trung thực, đoàn kết. Luôn luôn đoàn kết và
hợp tác, tạo điều kiện cho mọi tài năng phát triển, nhất là đối với các cán bộ
khoa học trẻ. Biết tập hợp lực lượng và hành động thống nhất vì sự nghiệp
chung, vì lợi ích chung. Đồng thời kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong hoạt động khoa học và kỹ thuật. Tổ chức
công việc một cách khoa học, làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và
hiệu quả cao. Hăng say học tập và nghiên cứu, hăng say ứng dụng và triển khai
vào thực tiễn cuộc sống. "Học, học nữa, học mãi !". Học để hiểu biết và hiểu
biết là để hành động. Hành động có lý tưởng và mục đích rõ ràng: "Vì độc lập tự
do, vì CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân".

25


×