Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 2014 NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC THỰC THI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.39 KB, 40 trang )

LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 2014 - NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ
YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC THỰC THI
Luật Tổ chức tòa án được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2014 vừa qua
là một trong văn bản Luật được ban hành sớm nhất để cụ thể hóa các nguyên
tắc, các qui định của Hiến pháp năm 2013, trong đó có nguyên tắc “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nguyên
tắc này thể hiện một tư duy đột phá của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc
tổ chức bộ máy nhà nước theo các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Nguyên tắc này cho thấy quyền lực nhà nước ở Việt Nam được phân chia giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm soát chế ước lẫn nhau.
Đây là nguyên tắc xuyên suốt để xây dựng và ban hành các luật về tổ chức bộ
máy nhà nước. Luật tổ chức tòa án năm 2014 được ban hành trên nền tảng của
nguyên tắc này và cũng nhằm để chi tiết hóa nó trong tổ chức và hoạt động của
hệ
thống
tòa
án.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 có khá nhiều điểm mới và đặt trong bối
cảnh hiện tại cũng có thể được coi là những bước đột phá đầu tiên hướng đến
một hệ thống tòa án độc lập theo tinh thần của Hiến pháp 2013.
- Điểm mới đầu tiên là sự xuất hiện của Tòa án nhân dân cấp cao trong hệ
thống tòa án của đất nước. Với sự xuất hiện của tòa án cấp cao, hệ thống tòa án
đã bước đầu tách khỏi việc đặt tổ chức tòa án trong sự phụ thuộc vào địa giới
hành chính. Sự xuất hiện của tòa án cấp cao là cố gằng hiện thực hóa một trong
những mục tiêu cụ thể của Chiến lược cải cách tư pháp được khởi xướng cách
đây gần tròn 10 năm. Theo qui định của Luật tổ chức tòa án năm 2014, Tòa án
nhân dân cấp cao sẽ thực hiện chức năng phúc thẩm bản án, quyết định sơ
thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi
thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị;
Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án


nhân dân cấp tỉnh và tương đương thuộc địa hạt pháp lý bị kháng nghị. Tuy
chưa hoàn toàn độc lập với chính quyền địa phương do các tòa án có chức năng
xét xử sơ thẩm đều được bố trí theo địa giới hành chính, nhưng Luật Tổ chức
tòa án đang tạo những bước đi ban đầu tiến dần đến sự độc lập của cơ quan tư
pháp đối với cơ quan hành pháp. Hiện tại hệ thống tòa án theo Điều 3 của Luật
quy định về tổ chức Tòa án nhân dân bao gồm TANDTC; TAND cấp cao; TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc
tỉnh
(và
tương
đương)

Tòa
án
quân
sự.
Thứ hai, thẩm phán được phân định theo ngạch gồm (i) thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao; (ii) thẩm phán cao cấp; (iii) thẩm phán trung cấp và (iv) thẩm
phán sơ cấp. Việc phân định này thực sự sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc thay
đổi cách hiểu máy móc về vai trò và vị trí của thẩm phán. Cách gọi và cách hiểu
có phần mặc định như trước đây là thẩm phán tỉnh, thẩm phán huyện vô hình
trung đã địa phương hóa chức danh này. Thẩm phán dù ở địa phương nào, thẩm
phán cấp nào đều là những người nhân danh nhà nước, phán quyết của họ đều
phải được mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tôn trọng và nếu
có liên quan thì phải có nghĩa vụ thi hành. Họ là những người được bổ nhiệm để

1



thực hiện quyền lực tư pháp và không thể là viên chức của chính quyền tỉnh,
huyện và tuyệt nhiên không thể áp dụng các chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ
luật áp dụng dành cho công chức nhà nước thông thường. Việc phân định cấp
thẩm phán là quy định tiến bộ, song việc triển khai thực hiện nó cần có những
bước tiếp cận mới, với sự đoạn tuyệt đối với tư duy và cách hành xử theo đó
thẩm phán tòa án tối cao có quyền lực cao hơn thẩm phán tòa án, thẩm phán tòa
án tỉnh có quyền lực và ảnh hưởng cao hơn tòa án huyện. Cần bố trí để trong
tòa án huyện cũng có thể thẩm phán cao cấp, thẩm phán trung cấp thẩm phán
sơ cấp. Toà án cấp nào cũng cần Thẩm phán có trình độ tinh thông, dạng
chuyên gia luật pháp để hiểu đúng luật và áp dụng đúng luật ở cấp của mình.
Bỡi vì đa số bản án có hiệu lực thi hành là bản sơ thẩm, ở cấp xét xử đầu tiên.
Việc bổ nhiệm thẩm phán theo ngạch cao cấp, trung cấp hay sơ cấp không nên
gắn với nơi làm việc mà gắn với trình độ chuyên môn, thâm niên nghề nghiệp,
bản lĩnh chuyên môn thông qua những cuộc sát hạch khách quan, qua đánh giá
của dư luận xã hội. Trong thực tiễn những năm vừa qua, có những Thẩm phán
có thâm niên xét xử gần 40 nhưng do là thẩm phán huyện nên lương của họ
cũng chỉ đóng khung trong ngạch lương thẩm phán huyện. Vì thế, không ít thẩm
phán quan ngại việc làm việc ở huyện do cơ hội trở thành thẩm phán ngạch cao
hơn
không
rộng
mở
với
họ.
Thứ ba, Luật Tổ chức tòa án 2014 thể hiện sự thay đổi quan trọng đối với
nhiệm kỳ của thẩm phán. Rất nhiều nhà khoa học khi góp ý dự thảo Luật Tổ
chức tòa án cho rằng cần qui định nhiệm kỳ của thẩm phán là 10 năm hoặc trọn
đời, tránh cho thẩm phán đầu phải chịu áp lực của việc tái bổ nhiệm. Qui định
mới của Luật Tổ chức tòa án có sự dung hòa giữa những đề xuất mới và qui
định của Luật Tổ chức tòa án năm 2002. Việc bổ nhiệm thẩm phán với nhiệm kỳ

đầu tiên là 5 năm và các nhiệm kỳ sau nếu được tái bổ nhiệm là 10 năm cũng
chứa đựng sự hợp lý nhất định. Mặc dù chưa giống như nhiều quốc gia trên thế
giới thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời, qui định tái bổ nhiệm với nhiệm kỳ 10
năm cũng giải tỏa phần nào áp lực của thẩm phán trước vị trí của mình, giúp họ
trở nên bản lĩnh hơn trong xét xử. Thực tế cho thấy việc bổ nhiệm thẩm phán
theo Luật Tổ chức TAND năm 2002 khiến cho rất nhiều thẩm phán trước thời tái
bổ
nhiệm
gần
như
trở
nên
thiếu
tự
tin,
lo
lắng.
Việc bổ nhiệm suốt đời hoặc bổ nhiệm với nhiệm kỳ dài bắt nguồn từ tính
chất hoạt động của thẩm phán. Lao động của Thẩm phán là lao động đặc biệt,
lao động được nhà nước trực tiếp phân công (Chủ tịch nước bổ nhiệm). Khi xét
xử, thẩm phán nhân danh công lý, nhân danh quốc gia, thực thi công lý theo sự
ủy thác của nhân dân. Khi xét xử, người Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt
những nguyên tắc nhất định, trong đó nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất là
độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Thẩm phán cùng lúc phải tuân thủ các ngyên
tắc hết sức khắt khe như: "Không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm"
hay "xét xử tập thể và tuân theo đa số" nhưng lại phải "độc lập xét xử và chỉ tuân
theo pháp luật". Thẩm phán chỉ làm tốt những điều này nếu có những điều kiện
phù hợp với tính chất của nghề nghiệp mà họ đảm nhiệm. Việc tích lũy kiến
thức, kinh nghiệm, bản lĩnh theo thời gian cũng là một trong những điều kiện
then

chốt
đó.
Thứ tư, Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND trong lĩnh vực tố tụng

2


hình sự được mở rộng và phản ánh tốt hơn bản chất của quyền lực tư pháp. Một
số điểm mới liên quan đến chức năng, quyền hạn của thẩm phán được thể hiện
khá rõ nét trong Điều 2 của Luật Tổ chức tòa án năm 2014. Đáng chú ý là những
điểm mới sau: (i) xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử; (ii) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, do Luật sư, bị
can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp; (iii) Khi xét thấy cần
thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ
sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng
cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; (iv) Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm
sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại
phiên tòa; (vi) khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
Những điểm mới trên có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao vai trò của tòa
án, biến tòa án thành một biểu tượng của quyền lực nhà nước và công lý. Các
qui định mới này hướng tới sự kiểm soát của tòa án đối với hoạt động điều tra,
tuy tố. Quyền lực của cơ quan điều tra, công tố cần được kiểm soát và không ai
có thể kiểm soát tốt hơn so với thẩm phán thông qua thủ tục tố tụng công khai,
dân chủ tại phiên toà, nơi tập trung những người tiến hành và người tham gia tố
tụng và nơi mà các thành tố này chỉ được phép tìm tới sự thật khách quan của
vụ việc bằng công cụ pháp luật. Tuy nhiên, để những qui định mới phát huy
được tác dụng rất cần đến những giải pháp cụ thể và toàn diện, đặc biệt là việc
hoàn

thiện
thủ
tục
tố
tụng

pháp.
Đầu tiên, có thể thấy việc giao cho tòa án xem xét kết luận tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định tố tụng của kiểm sát viên, điều tra viên, xem xét tính hợp
pháp của chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra, truy tố thu thập, luật sư, bị can,
bị cáo và những người khác cung cấp là hết sức đúng đắn. Tố tụng hình sự là
một chuỗi các hành động, quyết định của cơ quan điều tra, công tố. Muốn mang
lại công lý cho người dân, thẩm phán phải trước hết phải chắc chắn việc đưa bị
cáo đưa ra trước tòa là kết quả của những hành vi, quyết định tố tụng đúng đắn,
phù hợp với pháp luật. Tuy nhiên, thẩm phán, tòa án phải thực hiện việc xem xét
các hành vi, quyết định tố tụng tại phiên tòa một cách độc lập, khách quan. Vì
vậy, cần hoàn thiện pháp luật tố tụng để thẩm phán, hội đồng xét xử có thể thực
hiện việc này mà không có sự phối hợp hoặc với cơ quan điều tra, công tố. Phối
hợp cần ở các cơ quan nhà nước khác song không nên tồn tại trong hoạt động
xét xử của tòa án. Vì vậy, luật tố tụng hình sự cần có những qui định chặt chẽ
nhằm loại trừ dần những cuộc họp bàn án giữa các cơ quan điều tra, truy tố và
tòa án. Tương tự, thẩm phán phải dựa trên những chứng cứ hợp pháp, có độ tin
cậy cao. Việc trao cho thẩm phán xem xét tính hợp pháp của chứng cứ, tài liệu
do có quan điều tra, truy tố thu thập, do luật sư và bị cáo cung cấp thông qua thủ
tục tố tụng rất phù hợp với yêu cầu của thực tiễn tư pháp ở nước ta. Việc giao
quyền đánh giá chứng cứ cho Thẩm phán là điều kiện cần, điều kiện đủ là phải
hình thành các quy định để đảm bảo cho việc thẩm phán hoàn toàn độc lập và
bình đẳng trong việc đánh giá chứng cứ cho dù đó là chứng cứ của cơ quan nhà
nước hay của luật sư, bị can hay người khác đưa ra.
Quyền của thẩm phán trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu


3


cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu
thập, bổ sung chứng cứ cũng là một điểm gây tranh luận về học thuật. Một số ý
kiến cho rằng việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, yêu cầu bổ sung tài liệu
trong quá trình xét xử về bản chất không khác gì sự phối hợp giữa cơ quan truy
tố và thẩm phán để buộc tội cho bằng được bị cáo. Thực tiễn hoạt động xét xử
cho thấy không ít trường hợp khi tòa án yêu cầu điều tra lại, cơ quan công tố, cơ
quan điều tra không thực hiện và yêu cầu tòa án xử theo những chứng cứ đã có.
Trong trường hợp này, thẩm phán phải xử mặc dù thấy chứng cứ không thỏa
đáng. Thẩm phán cũng chỉ có thể xử theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn chứ
không được xử theo tội danh nặng hơn so với truy tố của cáo trạng. Trường hợp
này thực tiễn còn tồn tại hướng dẫn là toà án phải trã hồ sơ cho Viện kiểm sát để
đề nghị truy tố về tội nặng hơn, nếu Viện kiểm sát không truy tố theo tội danh
nặng hơn thì toà vẫn xét xử theo tội danh đã truy tố và báo cáo lên toà án cấp
trên. Quy định này rõ ràng là không nhất quán nguyên tắc Hiến định là khi xét xử
Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc trả hồ sơ yêu cầu bổ sung
thực sự sẽ trở thành vấn đề nếu trong Bộ luật tố tụng hình sự sắp tới không có
những điều chỉnh thích hợp. Quan điểm cần ủng hộ là Bộ luật tố tụng hình sự
cần qui định việc trả hồ sơ yêu cầu bổ sung chỉ trong những trường hợp rất hạn
chế và với những điều kiện chặt chẽ. Nhìn chung, cần trao cho thẩm phán quyền
tuyên bố bị cáo vô tội nếu hội đồng xét xử thấy chứng cứ không đủ để buộc tội bị
cáo. Qui định này sẽ buộc cơ quan điều tra, truy tố đặc biệt cẩn trọng khi chuẩn
bị hồ sơ, chứng cứ và giúp tránh được những vụ án oan. Đồng thời, quy định
này cũng hạn chế được việc thẩm phán thiếu bản lĩnh, sợ trách nhiệm, không
dám phán quyết theo đúng tình trạng hồ sơ và kết quả tranh tụng, trã hồ sơ cho
an toàn, làm kéo dài vụ án, ảnh hưởng quyền lợi của người tham gia tố tụng.
Việc qui định cho tòa án được xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ cũng là

điểm mới nhằm nâng cao vai trò của tòa án trong thực thi quyền lực tư pháp.
Tuy nhiên, điểm mới này rất đáng quan ngại về mặt lý luận, về mặt tổ chức
quyền lực tư pháp và tính khả thi trong tương lai. Giao cho tòa án quyền thu thập
bổ sung chứng cứ dễ biến tòa án thành cơ quan điều tra và như vậy xóa mờ
ranh giới giữa quyền lực tư pháp và quyền lực hành pháp, điều mà Hiến pháp
2014 đã xác định rõ ràng hơn. Một khía cạnh lý luận nữa tòa án bổ sung chứng
cứ để làm rõ vấn đề cho bên nào? Liệu điều này có làm mất đi vị thế “trọng tài”
giữa cơ quan truy tố và bị cáo hay không? Ai sẽ tiến hành thu thập, bổ sung
chứng cứ? thành viên của hội đồng xét xử hay cán bộ của tòa án? Liệu việc thu
thập chứng cứ này có dẫn tới những mối quan hệ thân hữu hay sự thiếu thiện
cảm với bị cáo, luật sư? Những vấn đề nêu trên đặt ra cho Bộ luật tố tụng hình
sự những yêu cầu đối với việc tòa án thực hiện việc thu thập, bổ sung chứng cứ.
Bộ luật tố tụng hình sự cần qui định rõ trong trường hợp nào thì tòa án có thể thu
thập, bổ sung chứng cứ. Hơn nữa, việc thu thập, bổ sung chứng cứ được thực
hiện như thế nào? phạm vi, giới hạn và những công cụ pháp lý nào để toà án
thực
thi
quyền
này.
Thứ năm, Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị là là qui định rất phù hợp
với yêu cầu thực tiễn hoạt động xét xử. Về mặt lý luận, tòa án thực hiện quyền
tư pháp và chỉ có bản án của tòa án mới được coi là nhân danh công lý. Nếu

4


bản án của tòa án bị bất cứ cơ quan nào xem xét lại thì quyền lực tư pháp không
còn ý nghĩa. Điểm mới này của Luật Tổ chức tòa án sẽ mang lại nhiều giá trị
thực tiễn, chấm dứt tình trạng các vụ án vòng đi vòng lại nhiều lần, mất hàng

chục năm vẫn chưa có điểm dừng. Không một quốc gia nào huy động cả hệ
thống tòa án để xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, sau đó giám đốc thẩm, tái thẩm và
đưa trở lại vòng thứ hai, thứ ba đối với vụ án giá trị không lớn. Ngay cả những
vụ án lớn, cũng cần có điểm dừng trong phạm vi cơ quan tư pháp. Việc xử án
qua nhiều vòng đối với những vụ án giá trị không lớn, không đáng kể chính là sự
lãng phí nguồn lực xã hội. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng
dân sự, Luật tố tụng hành chính cần phải được sửa đổi để đảm bảo việc giám
đốc thẩm, tái thẩm các bản án đã có hiệu lực phải đáp ứng các yêu cầu luật định
hết sức nghiêm ngặt. Ngay cả kháng nghị phúc thẩm cũng cần phải cân nhắc
xem liệu có cần huy động hệ thống tư pháp để phúc thẩm những bản án mà giá
trị của nó chỉ là thỏa mãn sự hiếu thắng, sự cố chấp của một bên trong vụ án.
Đặc biệt, các vụ án đã có hiệu lực, được các bên thoả thuận thi hảnh hoặc cơ
quan có thẩm quyên tổ chức thi hành xong, về mặt nội dung không có sai lầm
lớn, song thủ tục tố tụng có vi phạm thì cũng không nên quy định giám đốc thẩm
những trường hợp này bỡi vì ý nghĩa chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội không lớn.
Tóm lại, Luật Tổ chức tòa án năm 2014 tuy có những điểm mới nhất định thể
hiện trong các qui định. Tuy nhiên, để có thể phát huy giá trị của những qui định
mới này thì các văn bản pháp luật tố tụng cần được hoàn thiện một cách tương
thích. Nếu các cơ quan được giao soạn thảo các văn bản pháp luật này không
tính đến triết lý, chính sách bên trong các điểm mới này thì chắc chắn hệ thống
tòa án khó có thể mang lại những đột phá cần thiết mà Hiến pháp năm 2013 đã
đặt
nền
tảng

người
dân
đang
kỳ
vọng.

Đ/c Lê Hồng Quang
- Tỉnh ủy viên, Bí thư Ban cán sự Đảng,
Chánh án TAND tỉnh Quảng Trị
Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
1. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức Toà án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013
Quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp năm 2013) về
Tòa án nhân dân được thực hiện trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và Cải cách tư pháp ở nước ta trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước.
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là tư tưởng
xuyên suốt được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng ta nhiều năm nay. Từ góc độ tổ chức và
hoạt động của Toà án nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang những đặc điểm
chính sau đây:
Một là, bảo đảm dân chủ xã hội chủ nghĩa; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp phải nhằm mục đích bảo vệ công lý, bảo đảm
quyền con người theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tư pháp là hoạt động giải quyết các tranh chấp trong xã hội, xử lý các vi phạm pháp
luật. Hoạt động đó liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích của con người, của công dân. Vì

5


vậy, trong hoạt động Tư pháp, vi phạm quyền con người, quyền công dân và lợi ích chính đáng
có nguy cơ xảy ra rất cao. Do đó, tổ chức và hoạt động tư pháp, nhất là của Tòa án một mặt phải
hiệu quả, bảo vệ quyền con người, lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân; nhưng trước hết, Tòa án phải là biểu tượng của Công lý, là nơi công dân gửi gắm niềm tin
rằng bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng bị xử lý nghiêm minh; bất kỳ quyền hoặc lợi ích hợp
pháp nào của con người, của công dân bị xâm phạm đều được bảo vệ theo đúng pháp luật. Do
vậy, mỗi khi con người có tranh chấp và khởi kiện đến Toà án thì Toà án không được từ chối giải

quyết vì bất cứ một lý do gì.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quyền lực nhà nước (cũng là quyền lực của nhân dân) là thống nhất, không thể phân chia. Tuy
nhiên, việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân công rõ ràng
theo chức năng cơ bản của mỗi loại cơ quan: Quyền lập pháp phải do cơ quan lập pháp - Quốc
hội - thực hiện; quyền hành pháp phải do cơ quan hành pháp - Chính phủ - thực hiện; quyền tư
pháp phải do cơ quan tư pháp - Toà án - thực hiện. Ví dụ, không thể để tình trạng giao cho cơ
quan hành pháp thẩm quyền xét xử, giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật (thuộc chức
năng tư pháp) và ngược lại. Bởi vì điều đó trái với nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực
của Nhà nước pháp quyền, dẫn đến tình trạng chồng chéo nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan và vì vậy làm giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Khi đã có sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước thì không thể thiếu sự giám sát, kiểm soát
việc thực hiện quyền lực giữa các cơ quan để tránh lạm quyền. Đây là điểm mới rất quan trọng
trong quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, việc xây
dựng các cơ chế (giám sát ngoài hệ thống, giám sát trong từng hệ thống; giám sát nhà nước và
giám sát xã hội…) để hoạt động giám sát phù hợp với từng loại cơ quan, tránh chồng chéo, trùng
lắp, bảo đảm khách quan, hiệu quả là rất cần thiết. Đối với Tòa án nhân dân, do xuất phát từ
chức năng (xét xử, áp dụng pháp luật để xử lý các vi phạm, tranh chấp pháp luật), tổ chức (theo
cấp xét xử, không theo đơn vị hành chính) và các nguyên tắc hoạt động cơ bản (như nguyên tắc
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc hai cấp xét xử; nguyên tắc Tòa án cấp trên
giám đốc hoạt động xét xử Tòa án cấp dưới)… đòi hỏi cơ chế kiểm soát, giám sát phải có tính
đặc thù, tránh trường hợp "vừa đá bóng, vừa thổi còi", ảnh hưởng đến tính đúng đắn, khách
quan của hoạt động tư pháp; đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
Thứ hai, việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta nhằm mục đích xây dựng hệ
thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người.
Làm rõ quyền tư pháp và từ đó xác định cơ quan có chức năng thực hiện quyền tư pháp là rất
quan trọng. Quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp dụng pháp luật để ra phán quyết về
các vi phạm pháp luật và các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Tòa án là cơ quan duy nhất thực

hiện quyền tư pháp, là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước. Vì vậy, xử lý các vi phạm pháp
luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực Nhà nước đều phải thuộc
thẩm quyền của Tòa án. Các cơ quan nhà nước khác tham gia vào việc xử lý, giải quyết đó
không phải là cơ quan tư pháp, không có chức năng thực hiện quyền tư pháp mà các cơ quan
này chỉ thực hiện các hoạt động tư pháp. Từ đó, mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử
các loại vụ án, giao cho Tòa án bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật là xu thế tất yếu của nhà
nước pháp quyền. Điều đó thể hiện vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, khẳng
định vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.
Hiến pháp năm 2013 kế thừa những nội dung hợp lý, phù hợp của Hiến pháp năm 1992 về Tòa
án nhân dân, đồng thời có những sửa đổi, bổ sung quan trọng đáp ứng yêu cầu Cải cách tư
pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Tại Điều 102 của Hiến pháp quy định chức năng, hệ thống tổ chức và nhiệm vụ của Tòa án nhân
dân như sau:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp.

6


2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân.
Như vậy, cũng như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 khẳng định chỉ Tòa án nhân dân
tối cao, các Tòa án khác do luật định là những cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, tức có
chức năng xét xử các vụ án, giải quyết các việc có tranh chấp theo thẩm quyền quy định. Ngoài
Tòa án nhân dân không có cơ quan nào khác được giao phán xử về các vi phạm pháp luật, các
tranh chấp trong xã hội. Quy định này phù hợp với việc phân công thực hiện quyền lực trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định bản chất nhân dân của Tòa án nước ta thông qua tên

gọi và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động. Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp
năm 2013 có quy định mới về hệ thống tổ chức và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân. Khoản 2 Điều
102 quy định khái quát, theo nguyên tắc mở về hệ thống Tòa án nhân dân. Ngoài Tòa án nhân
dân tối cao, Hiến pháp năm 2013 không liệt kê cụ thể các Tòa án khác, mà giao cho luật định.
Điều này bảo đảm tính khái quát, ổn định lâu dài của Hiến pháp và tính linh hoạt của luật phù
hợp nhu cầu phát triển của đất nước trong từng thời khác nhau. Cụ thể hoá Hiến pháp, Luật tổ
chức Toà án nhân dân năm 2014 quy định Toà án nhân dân ở nước ta gồm Toà án nhân dân tối
cao, các Toà án nhân dân cấp cao, Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân cấp huyện.
Hiến pháp năm 2013 không quy định về Tòa án đặc biệt để phù hợp với bản chất của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với yêu cầu bảo vệ quyền con người, hội nhập quốc tế hiện nay,
đồng thời bỏ quy định về tổ chức hòa giải ở cơ sở. Bởi vì, dù việc thành lập các tổ chức ở cơ sở
để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân là cần thiết, nhưng
lại không thuộc chức năng tư pháp của Tòa án nhân dân, không thuộc hệ thống Tòa án nhân dân
và không cần thiết ở mức hiến định.
Quy định của Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cũng là một điểm mới cần
ghi nhận. Thay cho việc quy định chung nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân với nội dung không thể hiện tính đặc thù trong hoạt động của Tòa án, Hiến pháp năm 2013
quy định riêng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân.
Hiến pháp nhấn mạnh rằng bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân là những nhiệm vụ
đầu tiên của Tòa án nhân dân, sau đó mới là nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án phải là nơi mà
mọi người, mọi công dân tìm đến lẽ phải, sự thật; có nhiệm vụ bảo vệ công lý khi quyền, lợi ích
của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm hại; khi công dân yêu cầu Toà án giải quyết mọi tranh chấp
thì Toà án có trách nhiệm thụ lý giải quyết mà không có quyền từ chối.
2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân. Đó là:
1. Việc xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo
thủ tục rút gọn.
2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,

cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
3. Toà án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần
phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu
chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.
4. Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút
gọn.
5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.

7


7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo
đảm.
Theo quy định trên thì Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và có bổ sung cho chính xác, phù hợp
với thực tiễn và tinh thần cải cách tư pháp một số nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân - cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp ở nước ta. Đó là:
- Nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia
Theo Hiến pháp năm 2013 thì Hội thẩm chỉ tham gia trong xét xử ở cấp sơ thẩm; còn việc xét xử
ở cấp phúc thẩm là không bắt buộc. Sự sửa đổi này cũng xuất phát từ thực tiễn xét xử những
năm qua.
- Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập
Nguyên tắc này có một bổ sung quan trọng trong Hiến pháp năm 2013. Đó là “Cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Bổ sung này nhấn mạnh tầm
quan trọng cũng như thái độ dứt khoát của Nhà nước ta đối với việc can thiệp vào hoạt động xét
xử của Tòa án, bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế.
- Nguyên tắc xét xử tập thể
Để thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả của việc xét xử, bảo đảm cho việc xét xử
nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm, Hiến pháp năm 2013 quy định ngoại lệ cho phép Tòa án xét xử
bằng một Thẩm phán trong trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn

- Nguyên tắc xét xử công khai
Thay cho quy định trường hợp ngoại lệ do luật định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm
2013 quy định cụ thể điều kiện cho phép Tòa án xét xử kín. Đó là “Trong trường hợp đặc biệt cần
giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ
bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự” thì Toà án phải xét xử kín;
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của
đương sự
Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người một cách toàn diện, công bằng, Hiến pháp năm
2003 ngoài việc quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo, còn bổ sung việc bảo đảm quyền
bảo vệ lợi ích hợp pháp của các đương sự khác như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung một số nguyên tắc quan trọng, bảo đảm sự phù hợp với
tinh thần Cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người và thông lệ quốc tế. Các nguyên tắc được
bổ sung là:
- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Đây là nguyên tắc thể hiện nội dung rất quan trọng trong Cải cách tư pháp ở nước ta. Sự thật chỉ
được xác định, công lý chỉ được thiết lập khi có sự tranh tụng giữa các bên trong tố tụng tư pháp,
nhất là trong xét xử các vụ án;
- Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc xuyên suốt của hệ thống tư pháp của bất kỳ một quốc
gia nào; được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và pháp luật của mọi
quốc gia. Thực hiện hai cấp xét xử là một trong những biện pháp bảo vệ quyền con người hữu
hiệu; đồng thời bảo đảm cho hoạt động tư pháp thận trọng nhưng có điểm dừng, tránh kéo dài,
chậm trễ.
Khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 không quy định nguyên tắc Toà án nhân
dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền
dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án. Đây là một quy định rất quan trọng,
nhưng không chỉ trong lĩnh vực tư pháp, mà cả trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tinh thần
quan trọng này đã được Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 3 Điều 5 “Các dân tộc có quyền


8


dùng tiến nói, chữ viết… của mình”, nên không cần quy định lặp lại ở chương về Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân nữa.
Hiến pháp năm 2013 không quy định nguyên tắc xét xử trực tiếp, nguyên tắc xét xử liên tục vì
không đặc trưng cho hoạt động xét xử và phù hợp với thực tiễn hoạt động tư pháp ngày càng
phức tạp, thường xuyên kéo dài hiện nay. Đồng thời, tạo điều kiện để Toà án hoạt động có hiệu
quả về mặt thời gian, chi phí vật chất; sử dụng công nghệ kỹ thuật số hiện đại; bảo đảm an toàn
cho những người tham gia tố tụng khi cần thiết.
3. Chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ các chức danh trong Tòa án
nhân dân, chế độ trách nhiệm của Chánh án
Các Điều 104, Điều 105, Hiến pháp năm 2013 cơ bản vẫn giữ lại các quy định của Hiến pháp
năm 1992 về Tòa án nhân dân tối cao cũng như Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân và có
những bổ sung cần thiết.
Ngoài việc giữ lại quy định Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án
khác, trừ trường hợp do luâât định, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
tối cao là thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong
xét xử. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 giao cho Tòa án nhân dân tối cao bằng các biện pháp
khác nhau như hướng dẫn áp dụng pháp luật bằng các nghị quyết; ban hành án lệ… để bảo đảm
áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử của các Tòa án nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định về Chánh án, Thẩm phán các cấp. Theo đó, nhiệm kỳ của
Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức và nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác, của Thẩm phán, nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật
định. Đây là những căn cứ hiến định cho việc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp trong Luật tổ
chức Tòa án nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 có bổ sung quan trọng về việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao. Theo khoản 7 Điều 70, Khoản 3 Điều 88 thì Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch
nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo phê chuẩn của Quốc hội. Thẩm phán các cấp khác

do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn và giám sát Thẩm phán quốc
gia. Quy định này thể hiện nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền,
nâng cao vị thế của cơ quan tư pháp (Toà án) tương xứng với cơ quan lập pháp, cơ quan hành
pháp; bảo đảm nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Về chế độ báo cáo và chế độ trách nhiệm, Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Một điều đáng lưu ý là Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định về chế độ báo cáo của các Tòa án
khác, mà không quy định chế độ trách nhiệm như Hiến pháp năm 1992. Đây cũng là sửa đổi
quan trọng của Hiến pháp năm 2013, nhằm hướng tới xây dựng hệ thống Tòa án không quá phụ
thuộc vào các đơn vị hành chính lãnh thổ; bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và
Hội thẩm.
Hiến pháp năm 2013 giữ lại quy định của Hiến pháp năm 1992 về hiệu lực của phán quyết mà
Tòa đưa ra, nhưng được diễn đạt lại cho gọn. Điều 106 quy định “Bản án, quyết định của Toà án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
PGS. TS. Trần Văn Độ
Phó Chánh án – Tòa án nhân dân tối cao

ột số điểm mới của luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014

9


Ngày 24/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 (Quốc hội khóa XIII). Quốc hội đã thông qua
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Luật sẽ chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/6/2015 và thay thế cho Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002. Với 11 chương, 98 điều,
luật cơ bản thay đổi một số nội dung như quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức bộ máy của TAND; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong

TAND; về bảo đảm hoạt động của TAND…cụ thể:

Thứ nhất, về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Điều 2 của Luật quy định:
- Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành
với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của
cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp
luật khác.
- Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,
hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét
đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá
trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội
hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp,
quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được
cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành.
- Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền:
+ Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng
của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án;
+ Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư,

bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp;

10


+ Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung;
yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác
minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
+ Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về
các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát
hiện có việc bỏ lọt tội phạm;
+ Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự.
- Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ
quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử
lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa
án giải quyết vụ án.
Với những quy định mới về chức năng nhiệm vụ của Toà án, Luật tổ chức
TAND năm 2014 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo
đảm Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, quyền con người, quyền công dân...; bảo đảm nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thể chế
hóa những định hướng của Đảng về cải cách tư pháp.
Thứ hai, Về tổ chức bộ máy TAND gồm 4 cấp theo thẩm quyền xét xử,
không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Theo đó, tổ chức Tòa án nhân dân gồm: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa

án nhân dân cấp cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương; các Toà án quân sự (Điều 3).
Về thẩm quyền của các Toà án Luật quy định:
- Đối với Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản
án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh
thổ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng 3 Thẩm phán
hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.

11


- Về Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo quy
định của Luật, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử
phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân sơ thẩm có
kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền
của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; không thực
hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương, theo quy định của Luật, Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương có nhiệm vụ, quyền hạn xét xử sơ thẩm hầu hết
các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án và giải quyết các loại việc khác theo
quy định của pháp luật.
- Về Toà án quân sự, theo quy định tại Điều 49 của Luật, các Toà án quân
sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án mà
bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của luật.
Với quy định trên luật Tổ chức toà án nhân dân năm 2014 thì Tổ chức bộ
máy của các Toà án được quy định theo hướng chuyên môn hoá nhưng linh hoạt,

tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí, bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc về
tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đó là tổ chức theo
thẩm quyền xét xử, bảo đảm độc lập xét xử..., góp phần khắc phục những hạn
chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Tòa án hiện nay. Đây cũng là
phương thức để nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền
XHCN.
Thứ ba, về nhiệm kỳ làm việc, chế độ, chính sách của Thẩm phán
Theo quy định tại Điều 74 của Luật mới thì nhiệm kỳ đầu của các Thẩm
phán là 5 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch
Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.
Luật quy định có 4 ngạch Thẩm phán (Điều 66) gồm: Thẩm phán
TANDTC, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp.
Điểm mới nữa là Luật quy định thành lập Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm
phán quốc gia.
Điều 75 của Luật quy định về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, theo
đó: Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán;
Thẩm phán được cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm nhiệm
vụ; Thẩm phán được bảo đảm tôn trọng danh dự, uy tín; được bảo vệ khi thi
hành công vụ và trong trường hợp cần thiết; Thẩm phán được đào tạo, bồi
12


dưỡng để nâng cao trình độ và nghiệp vụ Tòa án; nghiêm cấm các hành vi cản
trở, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của Thẩm
phán và thân nhân của Thẩm phán; Thẩm phán được tôn vinh và khen thưởng
theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Thứ 4 quy định về Hội thẩm.
Các quy định về Hội thẩm cũng có những bổ sung quan trọng nhằm khắc
phục những tồn tại, bất cập hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Hội thẩm
Tòa án nhân dân; bảo đảm việc tham gia của Hội thẩm vào công tác xét xử là

phương thức để nhân dân thực hiện quyền tư pháp; đồng thời, thực hiện quyền
giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử. cụ thể Điều 91 của luật quy
định.
- Hội thẩm được tổ chức thành Đoàn Hội thẩm.
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phối hợp với
Bộ Nội vụ và Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm.
- Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Tòa án
quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực phân công Hội
thẩm tham gia xét xử, bảo đảm phù hợp với yêu cầu xét xử vụ án.
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân có người được bầu hoặc cử
làm Hội thẩm có trách nhiệm tạo điều kiện để Hội thẩm làm nhiệm vụ.
- Trong thời gian Hội thẩm làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh
án Tòa án thì cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân có Hội thẩm đó không
được điều động, phân công Hội thẩm làm việc khác, trừ trường hợp đặc biệt và
phải thông báo cho Chánh án Tòa án biết.
Ngoài các nội dung nêu trên, trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân còn có
các quy định cụ thể về các chức danh Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên; quy định
về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân và hiệu lực thi hành của Luật tổ
chức Tòa án nhân dân.
Tóm lại Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 đã thể chế hóa các chủ
trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị
quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW, Thông
báo số 181-TB/TW của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI;
trong đó đã thể chế hóa được những định hướng về cải cách tư pháp, đó là xác

13



định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp; tổ
chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt
động xét xử; tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, cán
bộ, công chức Tòa án; xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Tòa
án từng bước hiện đại, khoa học; bảo đảm chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức Tòa án, qua đó nâng cao chất lượng xét xử, thực hiện có hiệu quả
quyền tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các hoạt động tư pháp.
Thạc sỹ: Nguyễn Thọ Hoà
Trưởng khoa nhà nước và pháp luật

Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 quy định về Tòa án
nhân dân
Ngày 28/11/2013, với tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội tán thành,
Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây được coi là một sự kiện chính trị - pháp lý đặc
biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước
ta.
Là đạo luật cơ bản của đất nước đang chuyển sang giai đoạn phát triển
mới, Hiến pháp năm 2013 đã phản ánh một cách biện chứng những bước
tiến trong nhận thức lý luận và kết quả thực tiễn của quá trình cải cách bộ
máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Trong đó, Hiến pháp
năm 2013 đã dành 05 điều để quy định về Tòa án nhân dân, được thể hiện từ
điều 102 đến điều 106. Trong đó có những điểm mới, nổi bật như sau:
1. Về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Để thể hiện nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước với đủ
ba yếu tố phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên kể từ sau Hiến pháp năm
1946 đã xác định rành mạch: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp,

14


Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Tòa án nhân dân là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp.
Trong đó, Khoản 1 Điều 102 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp”.
Chức năng xét xử của Tòa án là một chức năng đã được thể hiện
xuyên suốt trong các bản Hiến pháp trước đây. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên
Tòa án được trao một sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án đó là “thực hiện
quyền tư pháp”. Đây là quy định rất mới của Hiến pháp năm 2013. Thực
hiện quyền tư pháp ở đây là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”
Đây là định hướng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo kiểu nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung mới nêu trên về Tòa án nhân
dân còn mang ý nghĩa thực tiễn, là cơ sở pháp lý để giao cho Tòa án nhân
dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quan đến việc hạn chế
quyền nhân thân của công dân, mà những loại việc đó hiện nay do các cơ
quan hành chính đang thực hiện, ví dụ như việc ra các quyết định áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh hoặc quyết định đưa người vào các trung tâm
giáo dưỡng, cai nghiện… Hiện nay, ngành Tòa án nhân dân đã và đang
chuẩn bị hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng đó.
Thực hiện nguyên tắc hiến định trên, ngày 24 tháng 11 vừa qua Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã được Quốc hội thông qua và nội
dung này được thể hiện tại Điều 2 của Luật.
2. Về hệ thống Tòa án nhân dân
Về hệ thống Tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1992 quy định hệ thống
tòa án gồm: “Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa

15


án quân sự và các Tòa án khác do luật định”. Quy định này là nhằm xác định
Tòa án được tổ chức theo địa giới hành chính địa phương từ cấp huyện đến
cấp tỉnh. Nghĩa là, có đơn vị hành chính cấp huyện hoặc cấp tỉnh thì đồng
thời có Tòa án cấp huyện hoặc Tòa án cấp tỉnh. Nghị quyết 49 của Bộ Chính
trị về cải cách tư pháp đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử
không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế
quan điểm này về tổ chức Tòa án nhân dân, cụ thể là: Khoản 2 Điều 102
Hiến pháp sửa đổi quy định “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao
và các Tòa án khác do Luật định”.
Căn cứ quy định trên, Điều 3 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 đã quy định Tổ chức Tòa án nhân dân gồm có: Tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương; Tòa án quân sự.
Như vậy so với quy định trước đây, có bổ sung thêm quy định về Tòa
án nhân dân cấp cao. Tuy nhiên vấn đề xác định tổ chức hệ thống Tòa án
theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính vẫn chưa được giải
quyết.
3. Về các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân
Hiến pháp năm 2013 có một số nội dung quy định mới, nhằm đảm bảo
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xét xử của Tòa án nhân dân các
cấp. Cụ thể là:
- Đối với nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập, Hiến pháp năm 1992 quy
định “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật”, còn Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can


16


thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Với quy định này của Hiến
pháp năm 2013 thì nguyên tắc độc lập xét xử có nội dung mới là:
+ Tiến trình Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi
hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ
án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét
xử” như quy định của Hiến pháp năm 1992.
+ Cụm từ “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào
việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” trong công tác xét xử và cũng là
đảm bảo cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm.
- Đối với nguyên tắc xét xử tập thể, Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số trừ trường
hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Cụm từ “trừ trường hợp xét xử theo thủ tục
rút gọn” là nội dung mới của nguyên tắc này. Còn thủ tục rút gọn được quy
định trong pháp luật tố tụng theo hướng những vụ việc đơn giản, rõ ràng thì
chỉ cần 1 Thẩm phán xem xét giải quyết chứ không cần Hội đồng xét xử như
hiện nay, nhằm những vụ việc đó được giải quyết nhanh chóng, kịp thời
nhưng vẫn đảm bảo đúng pháp luật và đạt hiệu quả, tiết kiệm về thời gian
cho những người tham gia tố tụng.
- Hiến pháp năm 2013 có bổ sung nguyên tắc mới về hoạt động của
Tòa án, đó là nguyên tắc: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm
bảo”. Nội dung này được thể hiện tại Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014. Thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua cho thấy mô hình tố
tụng tại phiên tòa của Việt Nam theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh
tụng, các chứng cứ, tình tiết của vụ án đã được những người tham gia tố
tụng trình bày khách quan tại phiên tòa và trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử ra
các phán quyết nhằm đảm bảo các phán quyết đó chính xác, đúng pháp luật.

17


Vì vậy, chất lượng xét xử của Tòa án các cấp trong thời gian vừa qua cũng
đã được nâng lên, giảm các vụ, việc oan, sai. Từ cơ sở thực tiễn đó và nhằm
thể chế các quan điểm của Đảng về xác định mô hình tố tụng Việt Nam,
Hiến pháp sửa đổi đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm
bảo. Xuất phát từ quy định này của Hiến pháp, pháp luật tố tụng phải quy
định chi tiết, cụ thể về tranh tụng tại phiên tòa của tất cả các lĩnh vực xét xử.
- Hiến pháp năm 2013 bổ sung nguyên tắc mới là “Chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được đảm bảo”. Về bản chất thì cách thể hiện của nguyên
tắc nêu trên của Hiến pháp sửa đổi có kế thừa song có bao hàm những nội
dung mới đó là khẳng định hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm.
Hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án không phải là cấp xét xử.
Có như vậy thì những vụ việc được Tòa án giải quyết xét xử đã có
hiệu lực pháp luật (đã qua giải quyết xét xử ở cấp phúc thẩm) phải được thi
hành, tránh khiếu nại kéo dài. Đương nhiên, nguyên tắc này nhằm xác định
trách nhiệm của ngành Tòa án trong công tác xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
của Tòa án các cấp có thẩm quyền đó phải đảm bảo chất lượng xét xử cao
nhất. Nội dung này đã được thể hiện tại Điều 6 Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2104.
4. Về Thẩm phán Tòa án nhân dân
Khoản 3 Điều 105 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc bổ nhiệm,
phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu,
nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật định”. Quy định này của Hiến pháp năm
2013 sẽ bao hàm những nội dung mới về Thẩm phán, là định hướng để Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân, sửa đổi bổ sung theo những nội dung mới so với
Hiến pháp năm 1992:
- Về thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán, Hiến pháp năm 2013 quy định
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao,

18


Thẩm phán khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước; đối với việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán TAND tối cao có sự phê
chuẩn của Quốc hội. Ý nghĩa lý luận của quy định này nhằm đề cao địa vị
pháp lý của Thẩm phán, đặc biệt là địa vị pháp lý của Thẩm phán TAND tối
cao. Bởi vì, chính đội ngũ Thẩm phán là những người trực tiếp giải quyết,
xét xử các loại vụ án và thực hiện quyền tư pháp. Chất lượng giải quyết, xét
xử và thực hiện quyền tư pháp của các Thẩm phán là biểu hiện của nền công
lý của quốc gia. Do đó, họ được xã hội thừa nhận có địa vị pháp lý cao và
được tôn trọng là phù hợp với tiến bộ xã hội và phù hợp với xu thế hội nhập
quốc tế. Ý nghĩa thực tiễn của quy định này là nhằm xác định Thẩm phán là
Thẩm phán của quốc gia, không phụ thuộc vào địa phương nào, đó là đảm
bảo hoạt động của Thẩm phán là nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì với quy
định của Hiến pháp nêu trên bao hàm ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì,
Thẩm phán TAND tối cao sẽ có số lượng hạn chế so với số lượng Thẩm
phán TAND tối cao hiện nay (có thể khoảng không được 17 người, thay vì
số lượng 120 người như hiện nay). Thẩm phán TAND tối cao do Chủ tịch
nước bổ nhiệm và được Quốc hội phê chuẩn. Thủ tục này tương tự như thủ
tục bổ nhiệm, phê chuẩn các thành viên Chính phủ (Bộ trưởng ). Do vậy,
Thẩm phán TAND tối cao phải là những người ưu tú nhất trong hệ thống
Tòa án và cơ quan tư pháp, có nhiều kinh nghiệm trong công tác giải quyết
xét xử các loại vụ án, có uy tín cao trong các cơ quan tư pháp và trong xã
hội, họ thực sự là biểu tượng của công lý của Nhà nước.
- Đối với các quy định về ngạch Thẩm phán, tiêu chuẩn Thẩm phán,
quy trình tuyển chọn, nhiệm kỳ Thẩm phán, mặc dù Hiến pháp năm 2013
không nêu cụ thể nhưng Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định
như sau:

19


+ Về ngạch Thẩm phán, trước đây theo quy định thì có 3 ngạch Thẩm
phán là Thẩm phán TAND tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp.
Nay bổ sung thêm ngạch Thẩm phán cao cấp.
+ Về quy trình tuyển chọn Thẩm phán, xuất phát từ ý nghĩa Thẩm
phán là của quốc gia, không phụ thuộc vào địa phương, do đó việc thi tuyển,
tuyển chọn phải do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia, thay thế các
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
như hiện nay. Thể chế hóa nội dung này, Điều 70 Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014 đã bổ sung quy định hoàn toàn mới là Hội đồng tuyển chọn,
giám sát thẩm phán quốc gia. Hội đồng thẩm phán quốc gia có nhiệm vụ
xem xét tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn, điều kiện làm Thẩm phán.
+ Về nhiệm kỳ Thẩm phán, Thẩm phán là chức danh nghiệp vụ,
không phải là chức vụ lãnh đạo quản lý, nên việc gắn nhiệm kỳ cho chức
danh Thẩm phán phát sinh rất nhiều bất cập trong thực tiễn hoạt động của
Thẩm phán. Tuy nhiên theo Điều 74 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 quy định: Nhiệm kỳ đầu của thẩm phán là 05 năm; trường hợp được
bổ nhiệm lại hoặc bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp
theo là 10 năm;
Linh
Nhâm (tổng hợp)
Cơ cấu tổ chức
Toà án nhân dân tối cao
Gồm có:[2]



20


Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động,
Toà hành chính và các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao trong trường hợp





cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách
khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao
Bộ máy giúp việc.
Toà án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký Toà
án. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu[3] trên cơ sở đề nghị của
Chủ tịch nước.[4]

Toà án tỉnh
Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương:[5]





Uỷ ban Thẩm phán
Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính. Trong
trường hợp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao
Bộ máy giúp việc. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có
Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án.
Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm sau khi có sự thống nhất với Thường trực Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.[6]

Toà án huyện
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc hai Phó
Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án. và có bộ máy giúp việc.
Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao bổ nhiệm sau khi có sự thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân
huyện, quận, thị xã.[6][7]

Chế độ và nguyên tắc xét xử ( tham kh ảo)
Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.[8]



Xét sử sơ thẩm
Xét xử phúc thẩm

Đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm
pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm do pháp luật tố tụng quy định.
Nguyên tắc xét xử[9]





21

Có hội thẩm tham gia

Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Toà án xét xử công khai, (trừ trường hợp cần xét xử kín)






Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
Toà án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Toà án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ viết
của dân tộc mình trước Toà án.

Một số nội dung cơ bản của Luật Tổ chức
tòa án nhân dân năm 2014
Thứ Hai, 26/01/2015, 14:43 [GMT+7]
(BNCTW) - Ngày 24-11-2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật Tổ chức Toà án nhân dân. Đây là một trong
những đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước được Quốc hội thông qua theo
tinh thần Hiến pháp mới; thể chế hóa các quan điểm lớn, tiến bộ của Đảng và Nhà nước
ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về
quyền tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực
cao. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển của Tòa án nhân dân, bảo
đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân gồm 11 chương, 98 điều, gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh

Theo tinh thần nhất thể hóa các luật, pháp lệnh về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân, về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Điều 1 của Luật tổ chức Tòa án nhân
dân quy định: “Luật này quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân
dân; về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân.”
2. Về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Với tinh thần cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân, bảo
đảm Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền công dân...; bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thể chế hóa những định hướng của Đảng về
cải cách tư pháp, tại Điều 2 của Luật tổ chức Toà án nhân dân đã quy định cụ thể chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân, trong đó có những nội dung mới, quan
trọng; cụ thể là:
(1) Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình
sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải
quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện
các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh
tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng
hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân
thân.

22


Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành.
(2) Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền:
- Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra

viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;
- Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều
tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác cung cấp;
- Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện
kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung
chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có
liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội
phạm;
- Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự.
(3) Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm
quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có
trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của
pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án.
Bên cạnh các nội dung nêu trên, tại Điều 2 của Luật tổ chức Toà án nhân dân cũng đã quy
định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ
án hành chính, xử lý vi phạm hành chính, công tác thi hành án; bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của
luật.
3. Về nguyên tắc tổ chức hoạt động của Toà án nhân dân
Luật tổ chức Toà án nhân dân đã cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ bản được quy định
tại Điều 103 của Hiến pháp, trong đó có những nguyên tắc mới quan trọng như nguyên
tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét xử; nguyên tắc suy đoán vô tội; đồng thời, bổ sung
thêm nguyên tắc có tính chất đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Tòa án đã được ghi
nhận tại các văn kiện Đại hội Đảng gần đây và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị

về cải cách tư pháp, cụ thể là “Các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm
quyền xét xử” (Điều 5).
4. Về tổ chức bộ máy của các Toà án nhân dân
Luật Tổ chức Toà án nhân dân đã thể chế hóa nội dung của Nghị quyết số 49-NQ/TW,
Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW, Thông báo số 181-TB/TW của Bộ Chính
trị về tổ chức Tòa án; theo đó, tổ chức Tòa án nhân dân gồm: Tòa án nhân dân tối cao;
các Tòa án nhân dân cấp cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; các Toà
án quân sự (Điều 3).

23


Tổ chức bộ máy của các Toà án được quy định theo hướng chuyên môn hoá nhưng linh
hoạt, tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí. Ở Tòa án nhân dân tối cao được tổ chức
theo hướng tinh gọn với Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có từ 13 đến 17
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; ở Tòa án nhân dân cấp cao, Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ngoài các Tòa chuyên trách hiện có trong cơ cấu tổ chức
của Tòa án nhân dân như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao
động, trong Luật tổ chức Toà án nhân dân lần này quy định thêm Tòa gia đình và người
chưa thành niên để giải quyết các vụ việc có liên quan đến người chưa thành niên; Ở Toà
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có Tòa hình
sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Tuy nhiên,
việc thành lập các Tòa chuyên trách này ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp
huyện cụ thể nào phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công
chức của từng Tòa án và do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định. Trường hợp
do yêu cầu thực tế xét xử, cần thành lập thêm Tòa chuyên trách khác trong Tòa án nhân
dân cấp cao, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương, Toà án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị
Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

5. Về phân định thẩm quyền của các Tòa án nhân dân
Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân mới, Tòa án nhân dân tối cao không thực hiện nhiệm
vụ xét xử phúc thẩm mà chỉ thực hiện nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các Tòa án
khác; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 5 Thẩm phán hoặc Hội
đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; tổng kết thực tiễn xét xử; bảo đảm áp
dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; quản lý các Toà án về tổ chức; xây dựng pháp
luật theo sự phân công của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; bổ sung nhiệm vụ đào
tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm
và các chức danh khác của Tòa án; đồng thời, để cụ thể hóa quy định tại khoản 1 Điều
104 của Hiến pháp về việc “Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tại khoản 4 Điều 22 của Luật quy định: “Quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là quyết
định cao nhất, không bị kháng nghị”.
Bên cạnh các nội dung nêu trên, tại điểm c khoản 2 Điều 22 của Luật quy định Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ
để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Quy định này sẽ đáp ứng yêu cầu phải
kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình
trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Hơn nữa, việc
công bố án lệ sẽ giúp người dân nắm rõ đường lối xét xử, dự báo được kết quả những vụ
việc có liên quan đến quyền và lợi ích của họ. Về phía Tòa án, tham khảo án lệ, phân tích
thiếu sót trong những vụ án xét xử trước đó cũng sẽ giúp Thẩm phán rút kinh nghiệm,
hạn chế việc kết án oan, sai. Với việc lựa chọn, ban hành án lệ, xác định trách nhiệm của
Thẩm phán và Hội đồng xét xử phải nghiên cứu, làm theo, chắc chắn sẽ có hiệu quả rất
lớn trong việc hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc xét xử oan, sai, hạn chế việc “lách
luật” do tiêu cực của những người tiến hành tố tụng, luật sư và những người tham gia tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án và do đó về mặt xã hội, việc xây dựng và phát triển

24



án lệ là một trong những phương thức hữu hiệu để bảo đảm công lý, góp phần duy trì, ổn
định trật tự pháp luật trong đời sống xã hội.
Về Toà án nhân dân cấp cao, theo quy định của Luật, Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm
vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc
thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ
đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng 3 Thẩm phán hoặc Hội đồng
toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.
Về Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo quy định của Luật, Toà
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử phúc thẩm các bản án, quyết
định sơ thẩm của Toà án nhân dân sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm
một số vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh; không thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, theo quy
định của Luật, Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương
có nhiệm vụ, quyền hạn xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án
và giải quyết các loại việc khác theo quy định của pháp luật.
Về Toà án quân sự, theo quy định tại Điều 49 của Luật, các Toà án quân sự được tổ chức
trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ
và những vụ án khác theo quy định của luật.
6. Về Thẩm phán
Trong Luật tổ chức Toà án nhân dân, các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện và trình tự,
thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán đã có nhiều nội dung mới nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ Thẩm phán và phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm; Thẩm phán
các Tòa án khác do Chủ tịch nước bổ nhiệm; người muốn được bổ nhiệm làm Thẩm phán
ngoài những điều kiện như trước đây còn phải có thêm điều kiện đã trúng tuyển kỳ thi
tuyển chọn Thẩm phán, có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên (thay vì 04

năm như trước đây); Thẩm phán sơ cấp muốn được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán
trung cấp phải trải qua kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán trung cấp
muốn được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán cao cấp phải trải qua kỳ thi nâng ngạch
Thẩm phán cao cấp. Cùng với việc nâng cao các tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm Thẩm
phán, Luật tổ chức Tòa án cũng quy định về việc Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với
Thẩm phán nhằm góp phần bảo đảm cho Thẩm phán yên tâm công tác, xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật.
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng được kéo dài hơn theo định hướng đã được xác định
trong các văn kiện của Đảng; cụ thể: “Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm;
trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm
kỳ tiếp theo là 10 năm.”
Bên cạnh các nội dung nêu trên, Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định chỉ thành lập
một Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia để bảo đảm chất lượng đồng đều
giữa các ứng viên được tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán; quy định thành
lập Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao
cấp để tổ chức các kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán, kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán.
7. Về Hội thẩm

25


×