Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài viết thảo luận môn quản lý tài chính công đề tài thực trạng hoạt động của các quỹ ngoài ngân sách việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.55 KB, 11 trang )

BÀI VIẾT THẢO LUẬN
Mơn: QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CƠNG

Tên chun đề:
“Thực trạng hoạt động của các quỹ ngoài NSNN của Việt Nam”
--------------------------------------------NỘI DUNG CHÍNH
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, ngồi ngân sách nhà nước (NSNN) cịn có
trên 50 quỹ tài chính tập trung hoặc chuyên dùng cũng là ngân quỹ nhà nước,
thuộc phạm vi tài chính nhà nước. Khơng ít quỹ quản lý số tiền lên tới hàng
ngàn tỷ đồng nhưng Quốc hội chưa bao giờ được báo cáo về nguồn hình
thành, tình hình sử dụng và kết quả sử dụng của các quỹ này. Câu hỏi đặt ra
là thực trạng các quỹ này hiện nay ra sao?
MỘT SỐ NÉT CHÍNH VỀ QUỸ TÀI CHÍNH NGỒI NGÂN SÁCH
Quỹ tài chính nhà nước ngồi NSNN (gọi tắt là quỹ ngồi NSNN), có vai trị
hết sức quan trọng trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
từng thời kỳ. Theo quy định của Nhà nước, các địa phương, bộ, ngành, doanh
nghiệp (DN) nhà nước được quyền chủ động thu, chi, quản lý loại quỹ này theo các
quy định của pháp luật hiện hành. Dù các quỹ được thiết lập với mục đích khác
nhau nhưng đều nhằm thực hiện sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế.
Nguồn tài chính hình thành các quỹ ngồi NSNN, một phần trích từ NSNN
theo quy định của Luật NSNN (tạo vốn ban đầu cho quỹ hoạt động), một phần huy


động từ các nguồn tài chính trong xã hội, chủ yếu là nguồn tài chính tạm thời nhàn
rỗi của các tổ chức kinh tế, xã hội và các tầng lớp dân cư. Nhìn chung, độ lớn của
các quỹ ngồi NSNN phụ thuộc vào thực trạng của nền kinh tế. Hơn nữa, dù cho
nguồn lực của xã hội có được tập trung vào quỹ ngồi NSNN thì đó thực sự vẫn là
chuyển giao nguồn lực từ khu vực tư cho khu vực cơng, từ hàng hóa cá nhân sang
hàng hóa cơng và thực hiện các chương trình phân phối lại thu nhập của Nhà nước.
Để quản lý, giám sát các quỹ này, khoản 5 Điều 15 Luật Phòng, chống tham
nhũng quy định: Quỹ có nguồn từ NSNN phải cơng khai các nội dung sau đây:


Quy chế hoạt động và cơ chế tài chính của quỹ; Kế hoạch tài chính hằng năm,
trong đó chi tiết các khoản thu, chi có quan hệ với NSNN theo quy định của cấp có
thẩm quyền; Kết quả hoạt động của quỹ; Quyết toán năm được cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 192/2004/ QĐ-TTg ngày
16/11/2004 ban hành Quy chế công khai tài chính, trong đó: các quỹ có nguồn từ
NSNN và các quỹ có nguồn từ các khoản đóng góp của nhân dân được thành lập
theo quy định của pháp luật phải cơng khai tài chính theo quy định của quy chế
này. Ngày 20/11/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 33/2008/CT-TTg,
chấn chỉnh công tác quản lý thu, chi tài chính- ngân sách, trong đó nhấn mạnh:
nghiêm cấm việc lập các quỹ ngoài ngân sách và sử dụng ngân sách để cho vay,
tạm

ứng đối

với

những

việc,

nội

dung sai

chế

độ quy

định…


Bộ Tài chính cũng có Thơng tư 19/2005/TT-BTC ngày 11/3/2005 hướng dẫn việc
cơng khai tài chính đối với các quỹ có nguồn từ NSNN và các khoản đóng góp từ
nhân dân và Quyết định số 72/QĐ-BTC ngày 10/01/2013 ban hành kèm theo Quy
trình thanh tra các Quỹ tài chính ngồi NSNN.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ NGOÀI NGÂN SÁCH


Số lượng quỹ ngồi NSNN
Chưa có tài liệu nào thống kê chính xác, đầy đủ các Quỹ ngồi NSNN. Theo
chúng tơi, hiện nay có 36 Quỹ ngồi NSNN; trong đó: có 21 quỹ do Thủ tướng có
quyết định thành lập và quy định tổ chức hoạt động của quỹ; 09 quỹ do Chính phủ
có nghị định thành lập và quy định tổ chức hoạt động của quỹ; 06 quỹ do các bộ,
ngành có quyết định thành lập. Các địa phương ngoài việc thành lập các Quỹ ngoài
NSNN theo quy định pháp luật, căn cứ đặc thù, tình hình của địa phương đã thành
lập thêm các quỹ như: Quỹ nạn nhân chất độc da cam/dioxin; Quỹ Cứu trợ; Quỹ hỗ
trợ học sinh nghèo hiếu học; Quỹ hỗ trợ cho tù chính trị bị địch bắt tù đày; Quỹ
điện công cộng; Quỹ mái ấm Cơng đồn...
Mục tiêu, phạm vi và kết quả hoạt động của một số quỹ
Quỹ Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc được thành lập theo quy định tại
Nghị định số 12/1995/NĐ-CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành
Điều lệ BHXH; Luật BHXH. Số dư quỹ đến ngày 31/12/2010 là 129.088 tỷ đồng,
đến ngày 31/12/2011 khoảng 156.700 tỷ đồng, ước tính cuối năm 2012 số dư
khoảng 200.619 tỷ đồng. Số người tham gia đến 31/12/2011 khoảng 10 triệu người
và đối tượng được hưởng đến 31/12/2011 khoảng 2,5 triệu người. Bình quân một
năm BHXH bắt buộc tăng khoảng 0,3 triệu người nhưng số người xin nghỉ hưởng
BHXH một lần lại gấp đơi. Tình trạng nợ đọng, chậm đóng quỹ BHXH đang diễn
ra khá phổ biến trong cả nước trong khi đó việc mở rộng quy mơ quỹ đang diễn ra
khá chậm, khiến nguồn quỹ này đang dứng trước nguy cơ cạn kiệt. Đồng thời, nếu
lương tiếp tục điều chỉnh lên, dự báo đến năm 2023 có khoảng 10 triệu người
hưởng lương hưu, tiền quỹ chỉ đủ dùng để chi chứ khơng có đầu tư.



Nguồn tài chính để tạo lập các quỹ ngồi NSNN đều có nguồn gốc (ít hoặc
nhiều) từ NSNN nên tổ chức sao hợp lý về số lượng và quy mô các quỹ ngồi
NSNN là điều cần được tính tốn, cân nhắc nhằm tránh phân tán nguồn lực của
tài chính cơng.
Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được thành lập theo quy định tại Luật
BHXH. Số dư quỹ đến ngày 31/12/2010 là 8.980 tỷ đồng, đến ngày 31/12/2011
khoảng 15.500 tỷ đồng, cuối năm 2012 là khoảng 21.815 tỷ đồng. Theo số liệu
thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, năm 2011 số người đăng ký
thất nghiệp là 333.305 người (tăng 77% so với 2010). Tổng số người tham gia đến
31/12/2011 khoảng 7,93 triệu người; đối tượng được hưởng đến 31/12/2011
khoảng 292.000 người. Gần 4 năm chỉ có hơn 1% số người lao động thất nghiệp
được đào tạo nghề thông qua Quỹ này.
Theo quy định BHTN hiện hành thì người có thu nhập cao thì được hỗ trợ
lớn. Nhà nước hỗ trợ mức đóng mức phí BHTN cho người lao động tương đương
1%/lương; người có thu nhập kịch trần 16 triệu/tháng tham gia đóng BHTN, hàng
tháng Nhà nước hỗ trợ là 160.000 đồng; người có mức thu nhập 1,5 triệu
đồng/tháng, mức hỗ trợ của Nhà nước là 15.000 đồng/tháng, có sự chênh lệch về
sự hỗ trợ của Nhà nước giữa người lao động tới hơn 10 lần.
Quỹ BHXH tự nguyện, được thành lập theo quy định tại Luật BHXH. Số dư
của quỹ đến ngày 31/12/2010 là 341 tỷ đồng; đến ngày 31/12/2011 khoảng 595 tỷ
đồng; đến cuối năm 2012 số dư khoảng 978 tỷ đồng. Số người tham gia đến ngày
31/12/2011 khoảng 104.518 người; đối tượng được hưởng đến ngày 31/12/2011
khoảng 1.393 người.


Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong năm 2012,
BHXH Việt Nam đã thực hiện đầu tư 199,5 tỷ đồng, thu hồi 148 tỷ đồng, tổng số
dư nợ đầu tư đến cuối năm 2012 là 233.611 tỷ đồng (bao gồm cả số tiền đầu tư từ

quỹ Bảo hiểm y tế(BHYT), tăng 52.649 tỷ đồng (29%) so với năm 2011. Số dư nợ
đầu tư: cho NSNN vay 129.000 tỷ đồng (55,2%); mua trái phiếu chính phủ 42.500
tỷ đồng (18,2%); cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước, Ngân hàng Phát
triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội vay 58.363 tỷ đồng (25%)… Mức lãi
suất đầu tư năm 2012: các khoản mua trái phiếu chính phủ là 9,25%/năm; cho
Ngân hàng Nhà nước vay là 10,14%/năm; cho các ngân hàng thương mại Nhà
nước vay là 11,75%/năm. Tổng số tiền sinh lời thu được trong năm khoảng 18.000
tỷ đồng, tăng 3.622 tỷ đồng (25%) so với năm 2011. Dự kiến phân bổ vào quỹ
BHXH bắt buộc là 12.943 tỷ đồng, quỹ BHXH tự nguyện là 45 tỷ đồng, quỹ bảo
hiểm thất nghiệp khoảng 1.200 tỷ đồng, còn lại phân bổ vào quỹ BHYT và trích
cho chi phí quản lý bộ máy và chi đầu tư xây dựng cơ bản của ngành BHXH.
Tình hình thực hiện thu quỹ BHXH bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và thất nghiệp
năm 2012 ước đạt 97.799 tỷ đồng, tăng 14.991 tỷ đồng (18%) so với năm 2011;
tăng thu chủ yếu do đối tượng tham gia BHXH tăng 3,3% so với năm 2011, mức
lương tối thiểu vùng tại các DN, tổ chức kinh tế khu vực ngồi nhà nước thực tế
bình qn tăng khoảng 30%. Số nợ đọng chậm đóng BHXH là 4.639 tỷ đồng.
Tổng số chi ước đạt 99.949 tỷ đồng trong năm 2012 (chi BHXH bắt buộc 97.269 tỷ
đồng, chi BHXH tự nguyện 55 tỷ đồng, chi BHTN 2.625 tỷ đồng), tăng 22.303 tỷ
đồng (28,7%) so với năm 2011; tăng chi chủ yếu là đối tượng hưởng lương hưu,
trợ cấp BHXH hàng tháng tăng 0,122 triệu người (4,9%) so với năm 2011, việc
điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp BHXH tăng 26,5% (từ ngày 1/5/2012). Quỹ


BHYT, được thành lập theo quy định tại Luật BHYT.
Năm 2009, thu BHYT: 13.053,8 tỷ đồng; chi BHYT: 15.481,4 tỷ đồng; bội chi
2.247,6 tỷ đồng; lũy kế đến ngày 31/12/2009: bội chi 3.083 tỷ đồng. Năm 2010,
thu BHYT: 25.579 tỷ đồng; chi BHYT: 19.686 tỷ đồng; kết dư 5.893 tỷ đồng; dư
lũy kế đến cuối năm 2010: 2.751 tỷ đồng (chưa bao gồm 59 tỷ kết dư theo định
suất); tuy nhiên, vẫn còn 14 tỉnh, thành phố bị bội chi quỹ BHYT. Năm 2011, thu
BHYT: 29.981 tỷ đồng; chi BHYT: 25.564 tỷ đồng; kết dư 4.417 tỷ đồng; dư lũy

kế đến 31/12/2011: 7.227 tỷ; vẫn còn 11 tỉnh, thành phố bị bội chi quỹ BHYT.
Tính đến 31/12/2011, số người tham gia BHYT khoảng 55,836 triệu người.
Các quỹ ngồi NSNN khơng chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi Luật NSNN mà
được quản lý theo các quy định riêng. Điều này vừa gây ra khó khăn cho hoạt
động quản lý Nhà nước đối với các quỹ, làm hạn chế tính đầy đủ, chính xác của
việc phân tích đánh giá chi tiêu cơng, hạn chế tính minh bạch của ngân sách. Do
đó, vấn đề xây dựng một hệ thống khung pháp luật thống nhất điều chỉnh hoạt
động của các quỹ ngoài ngân sách đang trở nên cần thiết và cấp bách.
Đến cuối năm 2011, cả nước vẫn còn 9 tỉnh chỉ đạt dưới 50% dân số tham
gia BHYT; việc tổ chức bán thẻ BHYT tự nguyện chưa được thực hiện phổ biến và
thường xuyên; mặc dù, trẻ em dưới 6 tuổi được Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí
mua thẻ BHYT nhưng chỉ có khoảng 80% được cấp thẻ BHYT.
Người thuộc hộ cận nghèo được Nhà nước hỗ trợ 70% (nhiều địa phương hỗ trợ tới
80-90%) kinh phí mua thẻ BHYT nhưng tỷ lệ tham gia BHYT chỉ đạt khoảng 25%.
Các tỉnh, thành phố lớn, những địa phương gần bệnh viện trung ương, Quỹ BHYT


hầu như ít kết dư, trong khi các tỉnh miền núi, tỉnh xa trung ương kết dư khá nhiều,
gây thiệt thịi về quyền lợi của người có thẻ BHYT ở những vùng này.
Quỹ Phát triển Khoa học và công nghệ quốc gia, được thành lập theo quy
định tại Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003 của Chính phủ. Cơ chế tài
chính thực hiện theo Thông tư số 129/2007/ TTLT/BTC-BKHCN ngày 2/11/2007
của Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và cơng nghệ.
Hàng năm NSNN bổ sung vốn điều lệ cho quỹ 200 tỷ đồng; quỹ cịn huy động các
nguồn ngồi NSNN để thực hiện các hoạt động tài trợ, cho vay để thực hiện các
nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Tổng kinh phí từ 2008-2011 là 354,7 tỷ đồng
(NSNN cấp 300 tỷ đồng, tiếp nhận Quỹ Mơi trường tồn cầu 35 tỷ đồng, Quỹ
Flanders 16,2 tỷ đồng và thu sự nghiệp 3,5 tỷ đồng). Kinh phí đã sử dụng là
328,310 tỷ đồng (nguồn NSNN là 295,795 tỷ đồng; vốn đầu tư từ Quỹ Flanders là
16,200 tỷ đồng; bảo lãnh vay vốn 16,135 tỷ đồng).

Nếu quy chiếu theo các quy định tại Nghị định số 122/2003/NĐ-CP thì đến
nay Quỹ hoạt động chưa đáp ứng được đầy đủ về vai trị của Quỹ. Ngồi giải ngân
nguồn vốn NSNN thì Quỹ mới chỉ huy động được rất ít nguồn vốn khác. Quỹ cũng
mới chỉ thực hiện được 1 trong 3 hoạt động chính được giao. Quỹ chưa thực hiện
hết các hoạt động tài trợ được giao, chưa thực hiện được các hoạt động cho vay,
bảo lãnh và hoạt động uỷ thác. Thời gian tới, cần nghiên cứu hồn thiện cơ chế
quản lý quỹ theo mơ hình Quỹ ở các nước phát triển. Theo đó, quỹ là một đơn vị
hoạt động độc lập, không chịu sự quản lý về mặt hành chính, nhân sự và tài chính
của một cơ quan chủ quản (Bộ KH&CN).
Quỹ Hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC), được thành lập theo
Quyết định số 1215/TC- LHH ngày 17/11/1992 của Liên hiệp các Hội khoa học và


kỹ thuật Việt Nam. Cơ chế tài chính, thực hiện theo Quyết định số 550/TC-LHH
ngày 06/7/2001 của Chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp các Hội KH&KT
Việt Nam. Quỹ huy động tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; các
nguồn thu từ việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật do Quỹ tham gia và các dịch vụ khoa
học kỹ thuật mang lại. Trường hợp các nguồn thu khơng đủ bù đắp chi phí, NSNN
sẽ bố trí để đảm bảo cho Quỹ thực hiện các nhiệm vụ được giao. Quỹ thực hiện
trao thưởng cho 03 giải thưởng: (i) Giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt
Nam; (ii) Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc (Hội thi); (iii) Cuộc thi sáng tạo thanh
thiếu niên và nhi đồng tồn quốc.
Kinh phí NSNN đã cấp cho Quỹ năm 2011 là 4.800 triệu đồng, năm 2012 là
5.900 triệu đồng. Mặc dù đã đi vào hoạt động 20 năm nhưng cho đến nay vẫn chưa
có văn bản pháp quy của Nhà nước hướng dẫn về cơ chế hoạt động của Quỹ. Do
vậy cần nghiên cứu, ban hành trong thời gian tới.
Quỹ phòng, chống ma túy được thành lập tại Quyết định 31/2000/QĐ-TTg
ngày 02/3/2000; Quyết định số 114/2004/QĐ-TTg ngày 24/6/2004; Quyết định số
110/2008/QĐ-TTg ngày 13/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Bộ Cơng
an chịu trách nhiệm quản lý, điều hành, sử dụng và thanh quyết tốn Quỹ phịng,

chống ma tuý của Trung ương; phối hợp với cơ quan Thi hành án các cấp và
UBND cấp tỉnh trong quá trình thi hành các bản án, quyết định xử lý của Toà án
đối với các vụ án phạm tội về ma tuý trên địa bàn các địa phương; phối hợp với
UBND cấp tỉnh trong việc trích lập Quỹ theo quy định... Chủ tịch UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quản lý, điều hành, sử dụng và thanh quyết tốn
Quỹ phịng, chống ma tuý của địa phương; hỗ trợ từ Ngân sách địa phương cho
Quỹ của địa phương theo đúng quy định hiện hành về phân cấp, quản lý NSNN...
Cơ chế tài chính của Quỹ thực hiện theo Thơng tư liên tịch Bộ Tài chính, Bộ Cơng


an số: 05/2001/TTLT-BTC-BCA ngày 16/01/2001; số 96/2005/TTLT-BTC-BCA
ngày

2/11/2005/TTLT-BTC-BCA



số

114/2009/TTLT-BTC-BCA

ngày

16/7/2009.
Những vấn đề đặt ra
- Về công tác thu: (i) Một số quỹ mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng cổ
phần có lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp hơn một số ngân hàng thương mại cổ
phần thuộc hệ thống Ngân hàng Nhà nước, làm giảm thu nhập của quỹ; chưa thực
hiện việc đối chiếu xác nhận các khoản phải nộp của các DN có nghĩa vụ đóng góp
với quỹ; (ii) Một số địa phương tiếp tục thu từ các DN thực hiện cổ phần hóa

nhưng chưa nộp về quỹ Trung ương theo quy định tại Nghị định số 187/2004/NĐCP hay xác định thiếu số thu về quỹ đối với các khoản lãi cho vay vốn, giá trị DN;
báo cáo thiếu vốn cổ tức nhà nước, chưa xác định số lãi chậm nộp; (iii) Chưa phản
ánh vào số thu của quỹ đối với các khoản đã thu thực hiện đầu tư khơng đúng, như
cấp vốn cho các DN, góp vốn liên doanh hoặc phản ánh vào số thu NSNN của địa
phương; (iv) Hạch tốn khoản hỗ trợ từ quỹ chưa có sự thống nhất với Bộ Tài
chính; cơ cấu nguồn thu không được đảm bảo, chủ yếu là nguồn thu từ ngân sách;
(vi) Việc ghi chép sổ theo dõi tiền gửi tại kho bạc không đầy đủ, tài khoản sử dụng
chung nhiều nguồn nhưng không tách thu, chi từng nguồn tiền gửi hàng tháng,
năm.
- Về công tác chi: (i) Một số quỹ sử dụng vốn sai mục đích như cho DN
ngồi quỹ vay không hợp đồng và ý kiến của cơ quan có thẩm quyền; cho DN vay
vốn ưu đãi sai mục đích; (ii) Cịn có quỹ chi chưa đúng quy định, chưa đôn đốc thu
hồi tạm ứng đối với các khoản nợ tồn đọng; chưa hoàn thiện thủ tục, chế độ quy
định về việc sử dụng quỹ để khen thưởng phúc lợi; (iii) Một số DN chưa báo cáo
số dư và chưa trích lập quỹ trợ cấp mất việc làm nên làm tăng số phải hỗ trợ từ quỹ


lao động dôi dư hay đề nghị cấp tiền hỗ trợ để chi trả cho các lao động không đúng
quy định; (iv) Một số địa phương chi quỹ sắp xếp DN chưa tuân thủ quy định tại
Quy chế quản lý Quỹ của Bộ Tài chính; chi quỹ khơng đúng mục đích như chi cho
vay, cấp vốn; chi bổ sung ngân sách tỉnh; chi cho Quỹ Bảo lãnh tính dụng DN vừa
và nhỏ; chi quỹ hỗ trợ xuất khẩu; (vi) Việc sử dụng khoản tiền chi từ quỹ hỗ trợ
xuất khẩu khơng thống nhất, quyết tốn khơng rõ ràng dẫn đến việc hạch tốn khác
nhau; có đơn vị hạch tốn tiền thưởng kim ngạch vào thu nhập, nhưng có một số
đơn vị lại hạch toán vào Quỹ khen thưởng, phúc lợi… Một số đơn vị sử dụng tiền
hỗ trợ xúc tiến thương mại chưa đúng đối tượng, hạch toán tiền thưởng vượt kim
ngạch không đúng.
Việc tổ chức các quỹ tiền tệ thuộc tài chính cơng theo cơ chế nhiều quỹ
thành quỹ NSNN và các quỹ ngoài NSNN là phù hợp với việc thực hiện phân cấp,
phân công quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Điều đó đảm bảo phát huy tính

tích cực, chủ động sáng tạo của các địa phương, các ngành, các đơn vị trong quản
lý kinh tế, xã hội và là điều kiện thực hiện chuyên mơn hố lao động trong quản lý
tài chính cơng đảm bảo cho việc quản lý đó được chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, nguồn tài chính để tạo lập các quỹ ngồi NSNN đều có nguồn gốc (ít
hoặc nhiều) từ NSNN nên tổ chức sao hợp lý về số lượng và quy mơ các quỹ ngồi
NSNN là điều cần được tính tốn, cân nhắc nhằm tránh phân tán nguồn lực của tài
chính cơng. Các quỹ ngồi NSNN khơng chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi Luật
NSNN mà được quản lý theo các quy định riêng. Điều này vừa gây ra khó khăn
cho hoạt động quản lý Nhà nước đối với các quỹ, làm hạn chế tính đầy đủ, chính
xác của việc phân tích đánh giá chi tiêu cơng, hạn chế tính minh bạch của ngân


sách. Do đó, vấn đề xây dựng một hệ thống khung pháp luật thống nhất điều chỉnh
hoạt động của các quỹ ngồi ngân sách trở thành địi hỏi cần thiết và cấp bách.
---------------------



×