Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

TÀI LIỆU ÔN THI VÀO LỚP 10 MÔN NGỮ VĂN _ CHI TIẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 107 trang )

ÔN TẬP THƠ HIỆN ĐẠI
Lập bảng thống kê các bài thơ đã học.
Tác phẩm

Tác giả

Hoàn cảnh

Đồng chí
(Là 1 trong
những tp tiêu
biểu nhất viết
về người lính
cách
mạng
của văn học
thời kì kc
chống Pháp
(1946-1954)

Chính Hữu
(Sinh 1926. Nhà
thơ quân độ
trưởng thành từ
hai cuộc k.c
chống Pháp và
chống Mĩ)

1948
(Sau khi tác
giả


cùng
đồng
đội
tham
gia
chiến
đấu
trong chiến
dịch
Việt
Bắc – Thu
đông)

Tiểu đội xe
không kính
(Giải
nhất
báo văn nghệ
năm
1969.
Nằm
trong
tập
“Vầng
trăng quầng
lửa”)
Đoàn thuyền
đánh cá.
(In trong tập
thơ

“Trời
mỗi ngày lại
sáng)

PhạmTiến Duật
(Sinh 1941,
là1trongnhững
gương mặt tiêu
biểu của thế hệ
các nhà thơ trẻ
thời chống Mĩ
cứu nước)

1969
(Thời kì ác
liệt của
chiến tranh
chống Mĩ)

Tự do

Huy Cận (1919 2005)
Là nhà thơ tiêu
biểu của nền thơ
hiện đại VN. Ông
tham gia các
mạng từ trước
1945)
BằngViệt
(Sinh 1941.

Thuộc thế hệ các
nhà thơ trưởng
thành trong thời
kì kc chống Mĩ)

1958
(Trong
chuyến đi
thực tế dài
ngày ở vùng
mỏ Quảng
Ninh)

7 chữ

- Thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên
và con ngƣời lao động, bộc lộ niềm
vui, niềm tự hào của nhà thơ trƣớc đất
nƣớc và cuộc sống.

1963
( Khi tác giả
đang là sinh
viên
học
ngành luật ở
Liên Xô)

8 chữ


Qua hồi tƣởng và suy ngẫm của ngƣời
cháu đã trƣởng thành, bài thơ đã gợi lại
những kỉ niệm đầy xúc động về ngƣời
bà và tình bà cháu đồng thời thể hiện
lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của
ngƣời cháu đối với bà và cũng là đối
với gia đình, quê hƣơng, đất nƣớc.

Nguyễn Khoa
Điềm
(Sinh 1943.
Nhà thơ trưởng
thành trong cuộc
kc chống Mĩ)
Nguyễn Duy
(1948. Gương
mặt tiêu biểu
trong lớp nhà thơ
trẻ thời chống Mĩ
cứu nước)

1971
(khi
ông
đang công
tác ở chiến
khu miền tây
Thừa Thiên)
1978
(3 năm sau

ngày giải
phóng hoàn
toàn Miền
Nam, thống
nhất đất
nướ, tại TP
HCM)
1962

Tám
tiếng
(hát
ru)

- Tình yêu thƣơng con gắn liền với tình
yêu nƣớc, với tinh thần chiến đấu của
ngƣời mẹ miền tây Thừa Thiên và ƣớc
vọng của ngƣời mẹ dân tộc Tà ôi trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc.

Năm
tiếng

- Bài thơ là lời nhắc nhở về những năm
tháng gian lao đã qua của cuộc đời
ngƣời lính gắn bó với thiên nhiên, đất
nƣớc, bình dị, hiền hậu.
- Từ đó, gợi nhắc ngƣời đọc thái độ
sống “uông nƣớc nhớ nguồn”, ân nghĩa
thuỷ chung cùng quá khứ.


Tự do

Từ hình tƣợng con cò trong những lời
hát ru, ngợi ca tình mẹ và ý nghĩa của
lời ru đối với đời sống con ngƣời.

1980

năm

- Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu

Bếp lửa
(In trong tập
thơ “Hương
cây bếp lửa”
- tập thơ đầu
tay)

Khúc hát ru
những
em
bé...

Ánh Trăng
(Tập
thơ
“Ánh trăng”
được

trao
giải A của
hội nhà văn
VN
năm
1984)
Con cò
(in trong tập
“Hoa ngày
thường, chim
báo bão” –
1967)

Chế Lan Viên.
(1920- 1989)
( Là nhà thơ tên
tuổi hàng đầu
của nền thơ Việt
Nam thế kỉ 20)

Mùa xuân

Thanh Hải

Thể
loại
Thơ
tự do

Nội dung

- Tình đồng chí của những ngƣời lính
dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và
lí tƣởng chiến đấu đƣợc thể hiện thật
tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi
hoàn cảnh, góp phần quan trọng tạo
nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của
ngƣời lính cách mạng.
- Hình tƣợng ngƣời lính cách mạng và
sự gắn bó keo sơn của họ tạo thành sức
mạnh và vẻ đẹp tinh thần của anh bộ
đội cụ Hồ.
- Bài thơ khắc họa một hình ảnh độc
đáo: những chiếc xe không có kính.
- Qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh
những ngƣời lính lái xe Trƣờng Sơn
với tƣ thế hiên ngang, tinh thần lạc
quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn
nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải
phóng Miền Nam

1

Nghệ thuật
- Chi tiết, hình ảnh, ngôn
ngữ, giản dị, chân thực, cô
đọng, giàu sức biểu cảm.
- Hình ảnh thơ sáng tạo vừa
hiện thực vừa lãng mạn: “đầu
súng trăng treo”


-Tứ thơ độc đáo: những chiếc
xe không kính
- Giầu chất liệu hiện thực
chiến trƣờng.
- Ngôn ngữ, giọng điệu mang
nét riêng tự nhiên, khoẻ
khoắn, vui tếu có chút ngang
tàng; lời thơ gần với lời văn
xuôi, lời nói thƣờng ngày.
-Nhiều hình ảnh thơ đẹp,
tráng lệ.
- Sáng tạo hình ảnh thơ bằng
liên tƣởng, tƣởng tƣợng
phong phú, độc đáo.
- Âm hƣởng khoẻ khoắn, hào
hùng, lạc quan.
- Kết hợp giữa biểu cảm với
miêu tả, tự sự và bình luận.
- Hình ảnh thơ sáng tạo, giàu
ý nghĩa biểu tƣợng: bếp lửa
gắn liền với hình ảnh ngƣời
bà, làm điểm tựa để khơi gợi
mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy
nghĩ về bà và tình bà cháu.
- Giọng điệu thơ thiết tha,
ngọt ngào, trìu mến.
- Bố cục đặc sắc: hai lời ru
đan xen ở mỗi khổ thơ tạo
nên một khúc hát ru trữ tình,
sâu lắng.

- Giọng điệu tâm tình tự
nhiên, hình ảnh giàu tính
biểu cảm. Bài thơ Kết hợp
giữa yếu tố trữ tình và tự sự.

- Vận dụng sáng tạo hình ảnh
và giọng điệu lời ru của ca
dao, có những câu thơ đúc
kết đƣợc những suy ngẫm
sâu sắc.
-Hình ảnh con cò mang ý
nghĩa biểu tƣợng sâu sắc.
Thể thơ 5 chữ có nhạc điệu


nho nhỏ
(được phổ
nhạc)

Viếng lăng
Bác
(in trong tập
“Như mây
mùa xuân” –
1978)
- Là một
trong những
bài thơ cảm
động và xuất
sắc nhất viết

về lãnh tụ
HCM
Sang thu

Nói với con

(1930-1980)
Nhà thơ xứ Huế,
là cây bút có
công XD nền văn
học cách mạng ở
miền Nam từ
những ngày đầu)
Viễn Phƣơng
( Sinh 1928.
Là một trong
những cây bút có
mặt sớm nhất của
lực lượng văn
nghệ giải phóng
ở miền Nam thời
kì chống Mĩ cứu
nước)

(Bài thơ
được viết
không bao
lâu trước khi
nhà thơ qua
đời)


chữ

mến và gắn bó với đất nƣớc, với cuộc
đời, thể hiện ƣớc nguyện chân thành
của nhà thơ đƣơợ cống hiến cho đất
nƣớc, góp mùa xuân nhỏ của đời mình
vào mùa xuân lớn của dân tộc.

trong sáng, tha thiết, gần gũi
với dân ca: hình ảnh đẹp giản
dị, những so sánh ẩn dụ sáng
tạo.

1976
(TG ra thăm
miền Bắc,
vào lăng
viếng Bác
Hồ. Ngay
sau cuộc kc
chống Mĩ
kết thúc,
miền Nam
hoàn toàn
giải phóng)

Tám
chữ


Bài thơ thể hiện lòng thành kính và
niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và
của mọi ngƣời đối với Bác Hồ khi vào
lăng viếng Bác.

Giọng điệu trang trọng và
thiết tha, nhiều hình ảnh ẩn
dụ đẹp và gợi cảm; ngôn ngữ
bình dị, cô đúc.

Hữu Thỉnh
(Sinh 1942. Là
tổng thư kí hội
Nhà Văn VN)
Y Phƣơng
(Sinh 1949. Là
nhà thơ dân tộc
Tày. Chủ tịch hội
văn học NT Cao
Bằng)

Sau 1975

Năm
chữ

Bài thơ gợi lại sự biến chuyển của
thiên nhiên lúc giao mùa từ hạ sang thu
qua sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ


Sau 1975

Tự do

Bằng lời trò chuyện với con, bài thơ
thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca
ngợi truyền thống cần cù, sức sống
mạnh mẽ của quê hƣơng và dân tộc
mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức
sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân
tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó
với truyền thống , với quê hƣơng và ý
chí vƣơn lên trong cuộc sống.

HÌnh ảnh thiên nhiên đƣợc
gợi tả bằng nhiều cảm giác
tinh nhạy, ngôn ngữ chính
xác, gợi cảm.
Cách nói giầu hình ảnh, vừa
cụ thể, gợi cảm, vừa gợi ý
nghĩa sâu xa.

2


Bài 1: “ĐỒNG CHÍ ” - CHÍNH HỮU.
A. Kiến thức cần nhớ.
1.Tác giả
- Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê ở Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Từ ngƣời lính Trung đoàn Thủ đô trở thành nhà thơ quân đội. Chính Hữu làm thơ không nhiều, thơ ông thƣờng viết về ngƣời lính và chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của

ngƣời lính, nhƣ tình đồng chí, đồng đội, tình quê hƣơng đất nƣớc, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phƣơng.
- Thơ ông có những bài đặc sắc, giàu hình ảnh, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc.
- Chính Hữu đƣợc Nhà nƣớc trao tặng Giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
2. Tác phẩm
- Bài “Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu
đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Trong chiến dịch ấy, cũng như
những năm đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn. Nhưng nhờ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và
tình đồng chí, đồng đội, họ đã vượt qua tất cả để làm nên chiến thắng. Sau chiến dịch này, Chính Hữu viết bài thơ “Đồng
chí” vào đầu năm 1948, tại nơi ông phải nằm điều trị bệnh. Bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc
sâu xa, mạnh mẽ, tha thiết của tác giả với đồng đội, đồng chí của mình trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
- Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về ngƣời lính cách mang của văn học thời kháng chiến chống thực
dân Pháp (1946 – 1954).
- Bài thơ đi theo khuynh hƣớng : Cảm hứng thơ hƣớng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp, chất thơ
trong cái bình dị, bình thƣờng, không nhấn mạnh cái phi thƣờng.
- Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những ngƣời lính cách mạng – mà phần lớn họ đều xuất thân
từ nông dân. Đồng thời bài thơ cũng làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn, thiếu thốn. (Đó là hai nội dung đƣợc đan cài và thống nhất với nhau
trong cả bài thơ)
- Chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
- Mạch cảm xúc (bố cục)
- Bài thơ theo thể tự do, có 20 dòng, chia làm hai đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí,
đồng đội, nhƣng ở mỗi đoạn, sức nặng của tƣ tƣởng và cảm xúc đƣợc dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tƣợng sâu
đậm (các dòng 7,17 và 20)
Phần 1: 6 câu thơ đầu: Lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Câu 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ với một từ với dấu chấm than) nhƣ
một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những ngƣời lính.
Phần 2: 10 câu thơ tiếp theo: Những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí, đồng đội của ngƣời lính
+ Đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tƣ, nỗi lòng của nhau (Ruộng nƣơng anh gửi bạn thân cày…… nhớ ngƣời ra lính)
+ Đó là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời ngƣời lính (Áo anh rách vai…. Chân không giầy)
+ Sự lạc quan và tình đồng chí đồng đội đã giúp ngƣời lính vƣợt qua đƣợc những gian khổ, thiếu thốn ấy.
-Phần 3: 3 câu cuối: Biểu tƣợng giầu chất thơ về ngƣời lính.

3. Phân tích bài thơ.
Đề bài : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy bài thơ đã diễn tả sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng
liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
Dàn ý chi tiết:
I - Mở bài:
Cách 1:
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội trƣởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Phần lớn thơ ông hƣớng về đề tài ngƣời lính với lời thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ hàm súc, cô đọng giàu
hình ảnh
- Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ viết về ngƣời lính hay của ông. Bài thơ đã diễn tả thật sâu sắc tình
đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
Cách 2: Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh ngƣời lính mãi mãi là hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất.
Hình tƣợng ngƣời lính đã đi vào lòng ngƣời và văn chƣơng với tƣ thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác
phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những ngƣời lính Cụ Hồ là “Đồng chí” của Chính
Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính sự trải nghiệm của ngƣời trong cuộc, qua bài thơ “Đồng chí”,
Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
II – Thân bài
Chính Hữu viết bài thơ : “Đồng chí” vào đầu năm 1948, khi đó ông là chính trị viên đại đội, đã từng theo đơn vị tham
gia chiến dịch Việt Bắc, và cũng là ngƣời đã từng sống trong tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó vƣợt qua những khó
khăn gian khổ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
1. Trong 7 câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính
cách mạng
3


- Cùng chung cảnh ngộ xuất thân: Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cƣờng chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc không ai khác chính là những ngƣời nông dân mặc áo lính. Từ giã quê hƣơng, họ ra đi tình nguyện đứng
trong đội ngũ những ngƣời chiến đấu cho một lí tƣởng chung cao đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc. Mở đầu bài thơ là
những tâm sự chân tình về con ngƣời và cuộc sống rất bình dị và cũng rất quen thuộc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua.

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình nhƣ lời kể chuyện, tâm sự của hai ngƣời đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên
gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, là những nông dân ở nơi “nƣớc mặn đồng chua” hoặc ở chốn
“đất cày lên sỏi đá”.Hình ảnh “quê hƣơng anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, mặc dù nhà thơ
không chú ý miêu tả. Nhƣng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung kia trở nên cụ thể đến
mức có thể nhìn thấy đƣợc, nhất là dƣới con mắt của những ngƣời con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian đƣợc tác
giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ khiến ngƣời đọc có thể dễ dàng hình dung đƣợc những miền quê nghèo khổ, nơi
sinh ra những ngƣời lính. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong
đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
=> Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê anh – làng tôi” đã diễn tả sự tƣơng đồng về cảnh ngộ. Và
chính sự tƣơng đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của ngƣời
lính.
- Cùng chung lí tưởng chiến đấu: Trƣớc ngày nhập ngũ, những con ngƣời này vốn “xa lạ”:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà nhƣ một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thƣơng nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tƣơng
thân tƣơng ái vốn có từ lâu giữa những ngƣời nghèo, ngƣời lao động. Nhƣng “tự phƣơng trời” họ về đây không phải do cái
nghèo xô đẩy, mà họ về đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lí tƣởng chung, cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo
vệ Tổ Quốc. Hình ảnh : “Anh – tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tƣơng đồng của họ trong
nhiệm vụ và lí tƣởng chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tƣợng
trƣng cho nhiệm vụ chiến đấu và lý tƣởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” đƣợc nhắc lại hai lần nhƣ nhấn mạnh tình cảm
gắn bó trong chiến đấu của ngƣời đồng chí.
- Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của
những ngƣời bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung
chăn thành đôi tri kỉ”. Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp đƣợc chăn thì hở đầu,
đắp đƣợc bên này thì hở bên kia. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành tri kỉ của nhau.
“Tri kỉ” là ngƣời bạn thân thiết hiểu rất rõ về ta. Vất vả nguy nan đã gắn kết những ngƣời đồng chí khiến họ trở thành ngƣời
bạn tâm giao gắn bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, nhƣ đƣợc chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời ngƣời lính gian
khổ. Bao nhiêu yêu thƣơng đƣợc thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi vừa tình cảm hàm súc ấy. Chính Hữu đã từng là
một ngƣời lính, đã trải qua cuộc đời ngƣời lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng, sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu

thƣơng với đồng đội. Hình ảnh thật giản dị nhƣng rất cảm động.
- Từ trong tâm khảm họ, bỗng bật thốt lên hai từ « đồng chí ». Từ “đồng chí” đƣợc đặt thành cả một dòng thơ ngắn gọn
mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “đồng chí‟ với dấu chấm cảm nhƣ một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái
biểu cảm khac nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình cảm mới mẻ này. Đồng chí là cùng chí hƣớng, cùng mục
đích. Nhƣng trong tình cảm ấy một khi có cái lõi bên trong là « tình tri kỉ » lại đƣợc thử thách, đƣợc tôi rèn trong gian khổ thì
mới thực sự vững bền. Không còn anh, cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó. Nhƣ vậy,
trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con ngƣời cùng
chung lí tƣởng, chung mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí” họ không chỉ còn là ngƣời nông dân
nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành anh em trong cả một cộng đồng với một lý tƣởng cao cả vì đất nƣớc quên thân để tạo
nên sự hồi sinh cho quê hƣơng, cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có 2 chữ nhƣ chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu
thơ trƣớc và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả thật ngôn từ Chính Hữu thật là hàm súc.
2.Nhưng Chính Hữu đã không dừng lại ở việc biểu hiện những xúc cảm về quá trình hình thành tình đồng chí. Trong
mười câu thơ tiếp theo nhà thơ sẽ nói với chúng ta về những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí
Trƣớc hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tƣ, nỗi lòng của nhau.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
+ Họ là những ngƣời lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lƣng mảnh trời quê hƣơng với những băn khoăn,
trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của ngƣời chiến
sĩ: “Ruộng nƣơng” đã tạm gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” giờ để “mặc kệ gió lung lay”. Lên đƣờng đi chiến đấu,
ngƣời lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những tính toán riêng tƣ. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên đƣợc cái kiên
quyết dứt khoát mạnh mẽ của ngƣời ra đi khi lí tƣởng đã rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ ra
đi nhƣng những ngƣời lính nông dân hiền lành chân thật ấy vẫn nặng lòng với quê hƣơng. Chính thái độ gồng mình lên ấy lại
cho ta hiểu rằng những ngƣời lính càng cố gắng kiềm chế tình cảm bao nhiêu thì tình cảm ấy càng trở nên bỏng cháy bấy
4


nhiêu. Nếu không đã chẳng thể cảm nhận đƣợc tính nhớ nhung của hậu phƣơng: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hình ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hoá này càng tô đậm sự gắn bó yêu thƣơng của ngƣời lính đối với quê nhà, nó giúp
ngƣời lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nƣớc gốc đa kia nhớ ngƣời ra lính hay chính tấm lòng

ngƣời ra lính không nguôi nhớ quê hƣơng và đã tạo cho giếng nƣớc gốc đa một tâm hồn? Quả thực giữa ngƣời chiến sĩ và
quê hƣơng anh đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc đậm đà. Tác giả đã gợi nên hai tâm tình nhƣ đang soi rọi vào nhau
đến tận cùng. Ba câu thơ với hình ảnh: ruộng nƣơng, gian nhà, giếng nƣớc, gốc đa, hình ảnh nào cũng thân thƣơng, cũng ăm
ắp một tình quê, một nỗi nhớ thƣơng vơi đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ
dàng của ngƣời lính. Tâm tƣ ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng
nhau. Tình đồng chí đã đƣợc tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hƣơng đất nƣớc ấy.
- Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu thốn của cuộc đời ngƣời lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Là ngƣời lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong hoàn cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang
phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá: “áo rách vai, quần tôi vài mảnh vá, chân không giày…” Tất cả những khó khăn
gian khổ đƣợc tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không một chút tô vẽ. Ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội Cụ
Hồ mới đƣợc thành lập, thiếu thốn đủ đƣờng, quần áo rách bƣơm phải buộc túm lại nên ngƣời lính vệ quốc còn đƣợc gọi là
“vệ túm”. Đọc những câu thơ này, ta vừa không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu nhƣng gian nan vất vả mà thế hệ cha ông đã
từng trải qua vừa trào dâng một niềm kính phục ý chí và bản lĩnh vững vàng của những ngƣời lính vệ quốc.
- Cùng hƣớng về một lí tƣởng, cùng nếm trải sự khắc nghiệt của chiến tranh, ngƣời lính chia sẻ cho nhau tình
thƣơng yêu ở mức tột cùng. Chi tiết “miệng cƣời buốt giá” đã ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thân lạc quan của
ngƣời chiến sĩ. Rồi đến cái cử chỉ “thƣơng nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện đƣợc tình thƣơng yêu đồng đội sâu sắc.
Cách biểu lộ tình thƣơng yêu không ồn ào mà thấm thía. Trong buốt giá gian lao, những bàn tay tìm đến để truyền cho nhau
hơi ấm, truyền cho nhau niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh để vƣợt qua tất cả, đẩy lùi gian khổ. Những cái nắm tay ấy đã
thay cho mọi lời nói. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thƣơng! Nhà thơ đã phát hiện rất tinh cái sức mạnh tinh
thần ẩn sâu trong trái tim ngƣời lính. Sức mạnh tinh thần ấy, trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau đã tạo nên
chiều sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhƣng rất đỗi thiêng liêng này.
3.Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ tả một đêm phục kích giặc. Nền bức tranh là đêm – “rừng hoang sƣơng muối”gợi ra một cảnh tƣợng âm u,

hoang vắng và lạnh lẽo. Không chỉ cái giá, cái rét cứ theo đuổi mà còn bao nguy hiểm đang rình rập ngƣời chiến sĩ.
- Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những ngƣời lính đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới trong cái nơi mà sự sống và
cái chết chỉ trong gang tấc. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tƣ thế, cái tinh thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những
ngƣời lính đứng cạnh bên nhau vững chãi, truyền cho nhau hơi ấm thì tình đồng chí đã trở thành ngọn lửa sƣởi ấm họ để họ
có sức mạnh vƣợt qua cái cái gian khổ, ác liệt, giá rét ấy… Tầm vóc của những ngƣời lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng.
- Câu thơ cuối là một hình ảnh đẹp đƣợc nhận ra từ những đêm hành quân phục kích giặc của chính ngƣời lính. Đêm khuya,
trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở vào một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng nhƣ treo trên đầu mũi súng của
ngƣời chiến sĩ đang phục kích chờ giặc.Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho ngƣời lính nét lãng
mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ
khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sƣơng muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhậy cảm của ngƣời chiến sĩ vẫn tìm thấy
chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng. Bốn chữ “Đầu súng trăng treo”chia làm hai vế làm nhịp thơ đột ngột thay
đổi, dồn nén, nhƣ nhịp lắc của một cái gì đó chông chênh, trong bát ngát…gây sự chú ý cho ngƣời đọc. Từ “treo” đã tạo nên
một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau - mặt đất và bầu trời, gợi những liên tƣởng thú vị, bất ngờ.
“Súng” là biểu tƣợng của chiến đấu, “trăng” là biểu tƣợng của cái đẹp, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống.
Súng và trăng là hƣ và thực, là chiến sĩ và thi sĩ, là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng
cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm cho ngƣời chiến sĩ cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức
mạnh chiến đấu và chiến thắng.
=> Hiếm thấy một hình tƣợng thơ nào vừa đẹp vừa mang đầy ý nghĩa nhƣ “Đầu súng trăng treo”. Đây là một sáng tạo đầy bất
ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo đƣợc những dƣ vang sâu lắng trong lòng ngƣời đọc.
4. Suy nghĩ về tình đồng chí: Nhƣ vậy tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con
ngƣời gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tƣởng chung. Đó là mối tình có cơ sở hết sức vững chắc: sự đồng
cảm của những ngƣời chiến sĩ vốn xuất thân từ những ngƣời nông dân hiền lành chân thật gắn bó với ruộng đồng. Tình cảm
ấy đƣợc hình thành trên cơ sở tình yêu Tổ Quốc, cùng chung lí tƣởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ
và ác liệt lại tôi luyện thử thách làm cho mối tình đồng chí đồng đội của những ngƣời lính càng gắn bó, keo sơn. Mối tình
thiêng liêng sâu nặng, bền chặt đó đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để những ngƣời lính “áo rách vai”, “chân không giầy”
5


vt lờn mi gian nguy i ti v lm nờn thng trn vit lờn nhng bn anh hựng ca Vit Bc, Biờn gii, Ho Bỡnh, Tõy
Bc. tụ thm thờm trang s chng Phỏp ho hựng ca dõn tc.

III - Kt lun:
Bi th ng chớ va mang v p gin d li va mang v p cao c thiờng liờng, th mng. Cu trỳc song hnh
v i xng xuyờn sut bi th lm hin lờn hai gng mt ngi chin s rt tr nh ang th th, tõm tỡnh, lm ni bt ch
t tng: Tỡnh ng chớ gn bú keo sn. Chõn dung ngi lớnh v quc trong nhng ngy u khỏng chin chng Phỏp
hin lờn tht p qua nhng vn th mc mc, chõn tỡnh m gi nhiu suy tng. Vi nhng c im ú, bi th xng
ỏng l mt trong nhng tỏc phm thi ca xut sc v ti ngi lớnh v chin tranh cỏch mng ca vn hc Vit Nam.
B. Mt s cõu hi luyn tp
Cõu 1: Vit on vn trỡnh by cm nhn ca em v on cui bi th ng chớ ca Chớnh Hu.
(Tham kho phn 3 ca bi phõn tớch)
Cõu hi tng t: Sa li cõu vn sau : Vi hỡnh nh ô u sỳng trng treo ằ ó din t y sc gi cm mi tỡnh tỡnh ng
chớ keo sn trong bi bi th ô ng chớ ằ c sỏng tỏc nm 1954 sau chin thng Vit Bc.
Trin khai on vn cú cõu ch trờn.
Cõu 2: Phõn tớch hỡnh nh ngi lớnh trong bi th ng chớ
- Bi th v tỡnh ng chớ ó cho ta thy v p bỡnh d m cao c ca ngi lớnh cỏch mng, c th õy l anh b i
hi u cuc khỏng chin chng Phỏp.
+ Hon cnh xut thõn: h l nhng ngi nụng dõn nghốo ra i t hai min t xa nhau: nc mn ng chua, t
cy lờn si ỏ.
+ H ra i vỡ ngha ln (hai ch mc k núi c cỏi dt khoỏt, mnh m ...mc dự vn luụn lu luyn vi quờ hng
ging nc gc a....
+ H ó tri qua nhng gian lao, thiu thn tt cựng, nhng cn st rột run ngi, trang phc phong phanh gia mựa
ụng lnh giỏ => Nhng gian kh cng lm ni bt v p ca anh b i: sỏng lờn n ci ca ngi lớnh (ming ci but
giỏ)
+ p nht h l tỡnh ng chớ ng i sõu sc, thm thit
+ Kt tinh hỡnh nh ngi lớnh v tỡnh ng chớ ca h l bc tranh c sc trong on cui ca bi th.
Cõu 3.Theo em, vỡ sao tỏc gi t tờn cho bi th v tỡnh ng i ca nhng ngi lớnh l ng chớ?
ú l tờn mt tỡnh cm mi, c bit xut hin v ph bin trong nhng nm cỏch mng v khỏng chin. ú l cỏch
xng hụ ph bin ca nhng ngi lớnh, cụng nhõn, cỏn b t sau Cỏch mng. ú l biu tng ca tỡnh cm cỏch mng, ca
con ngi cỏch mng trong thi i mi.
Cõu 4: Phõn tớch giỏ tr ngh thut ca hỡnh nh hoỏn d mang tớnh nhõn hoỏ trong cõu th: Ging nc gc a nh
ngi ra lớnh

(Tham kho bi tp lm vn)
Cõu 5 : 1.Giả sử em phải làm bài văn phân tích bài thơ Đồng chí , em hãy xét xem phần thân bài của bài làm có đ-ợc
trình bày theo dàn ý đại c-ơng d-ới đây không? Vì sao? Nếu thấy dàn ý ch-a đúng em hãy sửa lại cho hợp lí:
a.Phân tích 7 câu thơ đầu
b. Bài thơ nói lên tình đồng chí gắn kết những ng-ời chiến sĩ trong một cuộc chiến đầu đầy gian khổ
c. Bài thơ còn nêu lên một hình ảnh rất đẹp vào một đêm chờ giặc giữa rừng trong đêm trăng lạnh
Nhn xột dn ý: Khụng chia theo mt cn c nht nh: mc a chia theo b cc; mc b, c chia theo ni dung.
Mc b cha phõn tớch rừ v sõu ý ngha cao p ca tỡnh ng chớ trong 10 cõu th.
Mc c lc ý, mang nng t cnh, cha xoay quanh vn v tỡnh ng chớ.
Sa li dn ý:
a.By cõu u: s lớ gii v tỡnh ng chớ.
b.Mi cõu tip theo: l nhng biu hin c th ca tỡnh ng chớ.
c.Ba cõu cui cựng: biu tng p giu cht th ca tỡnh ng chớ.
Cõu 6. Phõn tớch bi th thy rừ ch ng chớ hin lờn trong th Chớnh Hu vi rt nhiu dỏng v:
Ch ng chớ hin lờn trong th Chớnh Hu vi rt nhiu dỏng v. Anh vi tụi khi thỡ riờng r trong tng dũng th
núi v cnh ng ca nhau: Quờ hng anh nc mn ng chua/ Lng tụi nghốo t cy lờn si ỏ; khi li chen lờn ng
vo cựng mt dũng: Anh vi tụi ụi ngi xa l/ T phng tri chng hn quen nhau. T riờng l ó nhp thnh ụi,
thnh chung khng khớt khú tỏch ri: Sỳng bờn sỳng, u sỏt bờn u/ ờm rột chung chn thnh ụi tri k. õy l nhng
hỡnh nh y p k nim v m ỏp tỡnh ng chớ. Cõu th ang t tri di, bng cụ ng li thnh hai ting ng chớ! vang
lờn thit tha, m ỏp, xỳc ng nh ting gi ca ng i v nú khc ghi trong lũng ngi v hai ting mi m, thiờng liờng
ú. Tỡnh ng chớ l cựng giai cp, cựng nhau t nhng chi tit nh nht ca i sng: õo anh rỏch vai/ Qun tụi cú vi
mnh vỏ/ Ming ci but giỏ/ Chõn khụng giy. Trong but giỏ gian lao, cỏc anh chuyn cho nhau hi m tỡnh ng i:
Thng nhau tay nm ly bn tay. Nhng bn tay khụng li m núi c tt c, cỏc anh sỏt cỏnh bờn nhau cựng i ti
mt chiu cao: ờm nay rng hoang sng mui/ ng cnh bờn nhau ch gic ti/ u sỳng trng treo. Cựng chung
chin ho, cựng chung sng cht, ú chớnh l biu hin cao p nht ca tỡnh ng chớ. Chớnh tỡnh ng chớ ó khin cỏc anh
ngay gia nguy him gian lao vn thy tõm hn thanh thn v lóng mn. V ú cng chớnh l tỡnh cm xó hi thiờng liờng
nht, l ci ngun ca tỡnh yờu nc, ca sc mnh con ngi Vit Nam
6



Câu 7: Viết đoạn văn quy nạp (15 câu) :
Tám câu thơ (Đồng chí – Chính Hữu) đã nói thật giản dị những thiếu thốn của cuộc kháng chiến. Và tình đồng đội đầy mến
thƣơng đã tiếp thêm sức mạnh giúp họ vƣợt qua mọi thử thách.
Gợi ý :
- 5 câu đầu : những câu thơ dung dị nói về những gian khổ của ngƣời lính : ngƣời nông dân mặc áo lính giản dị, nghèo
khó…áo rách, quần vá… hình ảnh thơ giản dị nhƣ đời sống.
- Nói đến những thiếu thốn của ngƣời chiến sĩ nhƣng ở những câu thơ tiếp theo, ta thấy những thiếu thốn ấy đâu chỉ tồn tại
riêng rẽ với hai cá thể anh và tôi mà đã hoà nhập yêu thƣơng gắn bó. Nụ cƣời buốt giá, cái cƣời lạc quan, xua đi cái lạnh giá
… nụ cƣời của những con ngƣời nhƣ đang cố gắng vƣợt qua cái rét buốt ruột buốt gan ấy. Hình ảnh thơ vừa tô đậm những
gian nan, thiếu thốn, vừa thể hiện nghị lực vƣợt qua mọi khó khăn của những anh lính vệ trọc (sốt rét - rụng tóc) =>Những
câu thơ đƣợc viết theo thể thơ tự do rất dung dị với những hình ảnh thơ chân thực càng giúp ta thêm hiểu về cuộc chiến tranh
đã qua, những vất vả mà ngƣời lính đã nếm trải, vừa cảm phục quá khứ hào hùng….
- Đến câu cuối khổ, nhịp thơ thay đổi, dài ra trầm lắng, âm điệu câu thơ lan toả nhƣ bộc lộ tình cảm. Đây có thể là hình ảnh
cảm động nhất của bài, từ « thƣơng nhau » đứng ở đầu câu nhƣ bộc lộ tình yêu da diết, sâu nặng của những con ngƣời cùng lí
tƣởng chiến đấu, họ nắm lấy bàn tay nhau nhƣ truyền cho nhau hơi ấm….Chân không giầy giữa vùng rừng núi gập ghềnh,
hiểm trở . Áo rách, quần vá giữa cái lạnh cắt da cắt thịt, tình đồng chí đã giúp họ vƣợt qua tất cả : « thƣơng nhau tay nắm lấy
bàn tay » => Tình đồng đội và tình ngƣời ấy cũng là sức mạnh chiến thắng.
- 3 câu thơ cuối cùng kết lại trong một hình ảnh đẹp, lãng mạn đến bất ngờ, thú vị bằng hai âm bằng : « Đầu súng trăng
treo ». Âm điệu câu thơ nhƣ ngân vang, câu thơ nhƣ mở ra, ánh trăng nhƣ soi sáng khắp núi rừng. Phải chăng chính tình
đồng chí, đồng đội đã đem lại cho họ những khoảng lặng hiếm hoi trong đời lính gian nan.

BÀI 2: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - PHẠM TIẾN DUẬT.
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp đại học, năm 1964 vào bộ đội, hoạt động ở tuyến
đƣờng Trƣờng Sơn và trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống đế
quốc Mỹ.
- Thơ ông giàu chất liệu hiện thực, chiến trƣờng, thể hiện sinh động, có giọng điệu ngang tàng, tinh nghịch, sôi nổi, tƣơi trẻ,
đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ ở Trƣờng Sơn và những khó khăn của thời đánh Mỹ gian khổ.
- Phạm Tiến Duật thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ qua những hình tƣợng cô gái

thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đƣờng Trƣờng Sơn.
- Tác phẩm chính: Vầng trăng -Quầng lửa(1970), Thơ một chặng đƣờng ( 1971), Ở hai đầu núi (1981). Nhiều bài thơ đã đi
vào trí nhớ của công chúng nhƣ các bài: Trường Sơn Đông, Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong….
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính rút từ tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa của tác giả. Là tác phẩm đoạt giải nhất
trong cuộc thi thơ trong báo Văn nghệ (1969 - 1970).
- Bài thơ đƣợc ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diiễn ra rất ác liệt. Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn
bom trên con đƣờng chiến lƣợc Trƣờng Sơn. Trong khi đó những đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trƣờng vì Miền Nam phía
trƣớc.
b. Nội dung.
- Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những
ngƣời lính lái xe ở Trƣờng Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc, với tƣ thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái
độ bất chấp khó khăn coi thƣờng gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền
Nam, trái tim yêu nƣớc nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ.
c. Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, gieo vần ở tiếng cuối cùng của dòng thơ.
- Phƣơng thức biểu đạt chính là biểu cảm nhƣng có sự gia tăng đáng kể của các yếu tố tự sự. Điều đó tạo nhiều cơ sở
để biểu cảm đồng thời tăng sức phản ánh hiện thực cho thơ.
- Tác giả đƣa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trƣờng, cùng với ngôn ngữ và giọng
điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn, có nét khá đặc biệt gần với văn xuôi, gần với lời nói bình thƣờng hàng ngày.
Nét nổi bật là giọng điệu vui, tinh nghịch, lạc quan. Nó làm nên chất trẻ trong thơ Phạm Tiến Duật nói riêng và thơ chống Mĩ
nói chung.
4. Phân tích những nội dung chính của bài thơ.
a. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.
Bài thơ có một nhan đề khá dài, tƣởng nhƣ có chỗ thừa nhƣng chính nhan đề ấy lại thu hút ngƣời đọc ở cái vẻ lạ, độc
đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát
7



hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực dời sống chiến tranh trên tuyến đƣờng Trƣờng
Sơn. Nhƣng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”? Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện
thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ
yếu là Phạm Tiêến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vƣợt
lên những thiếu thốn, gian khổ, khắc nghiệt của chiến tranh.
b. Hình ảnh những chiếc xe không kính.
Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trƣờng.
-Xƣa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đƣa vào thơ thì thƣờng đƣợc “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” và thƣờng mang ý
nghĩa tƣợng trƣng hơn là tả thực. Ngƣời đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “tiếng hát con tàu”
của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính đƣợc miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thƣờng, để đảm bảo an
toàn cho tính mạng con ngƣời, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trƣờng Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế
mà chuyện “xe không kính” lại là môt thực tế, những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng
ra tiền tuyến.
+ Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thƣờng ấy:
Không có kính không phải vì xe khôg có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc ngƣời ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của
câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản
nhiên, ngang tàng trong đó ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta
hình dung đƣợc một vùng đất từng đƣợc mệnh danh là “túi bom” của dịch vừa giúp ta thấy đƣợc sự khốc liệt của chiến tranh
và đó chính là nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính.
- Những chiếc xe nhƣ vậy vốn không hiếm trong chiến tranh, nhƣng phải có một hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng,
tinh nghịch thích cái lạ nhƣ Phạm Tiến Duật mới nhận ra đụơc và đƣa nó vào thơ thành hình tƣợng thơ độc đáo của thời chiến
tranh chống Mĩ. Hơn nữa, viết về những ngƣời lái xe thì không gì gắn họ với hình ảnh chiếc xe, qua xe mà làm nổi bật hình
ảnh ngƣới lái xe.
b. Hình ảnh những chiếc xe không kính đó làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn.Thiếu đi những
phƣơng tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để ngƣời lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao
của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp khó khăn, gian khổ.
*Trƣớc hết là tƣ thế hiên ngang, sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trƣờng hiểm nguy.

- Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên ngƣời
lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “:gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đƣờng chạy thẳng vào tim”, rồi
“sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ nhƣ sa, nhƣ ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi, thân
mình. Dƣờng nhƣ chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ
mới sinh động và cụ thể, đầy ấn tƣợng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
- Cảm giác, ấn tƣợng căng thẳng, đầy thử thách. Song ngƣời chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt, trái lại tƣ thế các anh
vấn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng.... “ung dung.... nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung.... thẳng” đã nhấn mạnh
tƣ thế ngồi lái tuyệt đẹp của ngƣời chiến sĩ trên những chiếc xe không kính. Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn” cho ta
thấy cái tƣ thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của ngƣời làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí
căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hƣớng về phía trƣớc của một con ngƣời luôn coi
thƣờng hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, nhƣ diễn tả thái độ thản
nhiên đàng hoàng. Với tƣ thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đƣờng thành niềm vui thích. Chỉ có những ngƣời
lính lái xe với kinh nghiệm chiến trƣờng dày dạn, từng trải mới có đƣợc thái độ, tƣ thế nhƣ vậy.
=> Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những ngƣời chiến sĩ lái xe TSơn đã trải qua.
Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng
ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thƣờng. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy nhƣ những
chiếc xe vun vút chạy trên đƣờng.
* Thái độ bất chấp khó khăn, coi thƣờng gian khổ, tinh thần lạc quan hồn nhiên, yêu đời của ngƣời lính trẻ.
- Nếu nhƣ hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách,
khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mƣa tuôn xối xả” (gió, bụi, mƣa tƣợng trƣng cho gian khổ
thử thách ở đời). Trên con đƣờng chi viện cho miền Nam ruột thịt, những ngƣời lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
+ Trƣớc thử thách mới, ngƣời chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mƣa tuôn, mƣa
xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhƣng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại nhƣ đem lại
niềm vui cho ngƣời lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ
thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên nhƣ một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi.
Dƣờng nhƣ gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chƣa làm mảy may ảnh hƣởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là
một dịp để thử sức mình nhƣ ngƣời xƣa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cƣời đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vƣợt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô
mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối
8



đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản.
Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động nhƣ sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đƣờng đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhƣng
càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe nhƣ họ đƣơng cƣời đùa, tếu táo
với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đƣờng Trƣờng Sơn, là một ngƣời lính thực thụ đã giúp Phạm tiến
Duật đƣa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, giọt
rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng
làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tƣợng của
ngƣời lính lái xe Trƣờng Sơn. Cái cƣời sảng khoái vô tƣ, khác với cái cƣời buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cƣời hồn
nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cƣời ngạo nghễ của những con ngƣời luôn luôn chiến thắng và tràn
đầy niềm tin.
* Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết.
- Sau mỗi trận mƣa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút
dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội xe không kính” - tiểu đội những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn
nhiên tinh nghịch. Hình tƣợng ngƣời chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn bó,
chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng
chí, đồng đội đầy mộc mạc nhƣng thấm thía : “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những ngƣời
lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ nhƣng mang dấu ấn của cả một thời
đại hào hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhƣờng nhịn nhau nhƣ anh em ruột
thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh... chỉ trong một thoáng chốc. Tình cảm gia đình ngƣời lính thật bình dị, ấm
áp thân thƣơng tạo nên sức mạnh, nâng bƣớc chân ngƣời lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời xanh
thêm”, đi đến thắng lợi cuối cùng.Trong tâm hồn họ, trời nhƣ xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay
bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” đƣợc
lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có
thể ngăn cản nổi. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tƣ thế kiêu hãnh, hiên ngang – tƣ thế của ngƣời chiến
thắng.
d. Khổ cuối dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị khái quát nội dung cả bài thơ.

- Hai câu đầu là hình ảnh những chiếc xe không còn nguyên vẹn về phƣơng tiện kĩ thuật, dồn dập những mất mát, khó
khăn do quân địch gieo xuống, do đƣờng trƣờng gây ra: những chiếc xe bị hƣ hỏng nhiều hơn “không kính, không mui,
không đèn, thùng xe có xƣớc...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Ấy vậy mà những chiếc xe mang trên mình đầy
thƣơng tích đó lại nhƣ những chiến sĩ kiên cƣờng vƣợt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng
liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim”
- Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vƣợt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trƣớc, hƣớng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm
thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nƣớc đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe
đó lại nguyên vẹn một trái tim dũng cảm. Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái
tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của ngƣời chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và
thiêng liêng: tất cả vì Miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang
tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc
rễ, phẩm chất anh hùng của ngƣời cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cƣờng, giầu bản lĩnh và chan
chứa tình yêu thƣơng này. Nhà văn đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có” để làm nổi bật chân lí của thời đại:
bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhƣng không thể bẻ gẫy đƣợc
những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi một nƣớc nhỏ nhƣ Việt Nam đã chiến thắng một cƣờng quốc lớn.
=> Điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tƣơng ứng “vẫn … chỉ cần có” đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ,
hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhƣng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa
nhƣ một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của ngƣời lính không có đạn bom nào của kẻ thù có
thể làm lay chuyển đƣợc.
B. Câu hỏi luyện tập.
Câu 1: “Không có kính rồi xe không có đèn”
a. Chép tiếp câu thơ trên để hoàn chỉnh đoạn thơ gồm 4 dòng.
b. Cho biết, đoạn thơ vừa chép trong bài thơ nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ
c. Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng của đoạn vừa chép được dùng với nghĩa như thế nào?
d. Viết một đoạn văn diễn dịch từ 6 đến 8 câu phân tích hình ảnh người lính lái xe trong đoạn thơ.
Gợi ý:
a. Chép tiếp: Không có kính rồi xe không có đèn.
Không có mui xe thùng xe có xƣớc.
9



Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trƣớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
b. (tham khảo phần kiến thức cần nhớ)
c. Từ “Trái tim” trong câu thơ cuối cùng có thể hiểu theo nghĩa chuyển:
- Chỉ ngƣời lính lái xe
- Chỉ sự nhiệt tình cứu nƣớc, lòng yêu nƣớc nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
d. Đoạn văn phải đảm bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức (tham khảo câu 3,4)
- Cuộc chiến đấu ngày càng gian khổ, ác liệt (qua hình ảnh những chiếc xe ngày càng méo mó, biến dạng)
- Bất chấp gian khổ, hi sinh, những chiếc xe vẫn thẳng đƣờng ra tiền tuyến.
- Những ngƣời lính lái xe quả cảm vững tay lái vì học có một trái tim tràn đầy nhiệt tình cách mạng, tình yêu tổ quốc
nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá.
Tham khảo đoạn văn phân tích:
Hai câu cuối của “bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của ngƣời chiến sĩ lái xe trên đƣờng
Trƣờng Sơn :
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trƣớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số an toàn, tƣởng nhƣ không thể lăn
bánh. Vậy mà những ngƣời chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lƣơng thực, thuốc men, đạn
dƣợc vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bời phía trƣớc là miền Nam đang vẫy gọi. Công cuộc giành độc lập tự do của nửa nƣớc
vẫn phải tiếp tục. Dùng hình ảnh tƣơng phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật đƣợc sự ngoan cƣờng, dũng cảm, vƣợt lên
trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật đƣợc ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nƣớc. Hơn thế hình ảnh hoán
dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ chỉ ngƣời lính lái xe, chỉ sự nhiệt tình cứu nƣớc, lòng yêu nƣớc nồng nàn,
quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất Tổ quốc. Hình ảnh này kết hợp cùng kết cấu câu “vẫn - chỉ cần” đã lý giải
về sức mạnh vƣợt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của ngƣời lính lái
xe. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục.
Câu 2 : Triển khai câu chủ đề sau : Cả bài thơ là dòng cảm xúc của người lính lái xe trên con đường xe ra tiền tuyến.
Thật vậy, dòng cảm xúc ấy tuôn chảy dào dạt trong suốt bài thơ. Đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin
của những ngƣời có lý tƣởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên tâm hồn ngƣời lính cũng có những nét thanh thản, vui

tƣơi. Điều khiển những chiếc xe không kính với một tốc độ phi thƣờng nhƣ lƣớt nhanh trong bom đạn họ có cảm giác thích
thú, nhƣ cảm nhận cả con đƣờng nhƣ “chạy thẳng vào tim”. Qua khung cửa qua những chiếc xe không kính, các anh cảm
nhận đƣợc vẻ đẹp của những “cánh chim chiều” và “cả những ánh sao đêm” lấp lánh trên bầu trời.. nhƣ “sa nhƣ ùa” vào
buồng lái. Gió cũng đƣợc nhân hoá và chuyển đổi cảm giác thật ấn tƣợng: “gió vào xoa mắt đắng”, mắt đắng, mắt cay là
những con mắt đói ngủ vì phải thức thâu đêm. Trong gian khổ ấy, họ vẫn cất lên những nụ cƣời lạc quan, yêu đời từ những
khuôn mặt lấm lem khi đồng đội gặp nhau. Những câu thơ lạc quan yêu đời nhƣ thách thức với mọi khó khăn : “không có
kính, ừ thì có bụi. Bụi phun tóc trắng nhƣ ngƣời già. Chƣa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc. Nhìn nhau mặt lấm cƣời ha
ha”.Cái bắt tay của ngƣời lính cũng thật hồn nhiên, mộc mạc mà thấm thía tình đồng chí đồng đội: “bắt tay qua cửa kính vỡ
rồi”. “Từ trong bom rơi” mà vẫn có cái bắt tay nhƣ thế thì thật mừng vui, tự tin và tự hào biết mấy. Đời ngƣời lính là đi, nhất
là lính lái xe, nhƣng trong những phút dừng chân ngắn ngủi, ta càng thấy rõ sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội.
Chỉ là “bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” Rồi cả những bữa cơm hội ngộ thân mật, tình đồng chí cũng nhƣ tình
anh em ruột thịt: “chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy”. Đến cả giấc ngủ ngắn cũng rất đặc biệt thú vị : “võng mắc chông
chênh đƣờng xe chạy. Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Trong tâm hồn họ, trời nhƣ xanh hơn chứa chan hy vọng. Không dễ gì có
đƣợc thái độ lạc quan đến nhƣ thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nƣớc của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
Phải nói rằng hình ảnh ngƣời chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tƣơi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và
tự hào về họ.
Câu 3: Triển khai câu chủ đề:
Bài thơ gây được ấn tượng mạnh về các anh, những chiến sĩ lái xe rất dũng cảm, rất đáng yêu bởi những nét
nghịch ngợm, ngang tàng. Thật vậy, ngƣời lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ
động, tự tin của những ngƣời có lý tƣởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh
thản, vui tƣơi. Lái xe trên con đƣờng Trƣờng Sơn khói lửa, con đƣờng ấy trong bom đạn, mƣa tuôn phải trả giá bằng bao mồ
hôi, xƣơng máu nhƣng các vẫn tràn đầy nghị lực bất chấp gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “không kính,
không mui, không đèn” mà tâm thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều mà mắt vẫn “nhìn trời, đất, gió chim”, vẫn hiên
ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai nhƣ
thách thức với mọi khó khăn:
- Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng nhƣ ngƣời già
Chƣa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cƣời ha ha
- Không có kính, ừ thì ƣớt áo

10


Mƣa tuôn, mƣa xối nhƣ ngoài trời
Chƣa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mƣa ngừng, gió lùa khô mau thôi
Chuyện vặt ấy mà, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đó. Đọc những câu thơ
trên, ta tƣởng nhƣ nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cƣời ha ha, sảng khoái của ngƣời lính.Nhƣng
đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì
không thể đùa vui nhƣ vậy giữa cái tuyến đƣờng Trƣờng Sơn ác liệt này. Và điều đó đã ngân lên câu hát nâng bƣớc chân
ngƣời lính đi tiếp những chặng đƣờng mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có đƣợc một thái độ dũng cảm đến
ngang tàng và lạc quan đến nhƣ thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nƣớc can trƣờng!
Câu 4: Cảm nhận của em về hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật.
Ngƣời lái xe trong bài thơ là những ngƣời chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với
thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các anh coi thƣờng: ừ thì có bụi, ừ thì ƣớt áo. Thái độ “chƣa cần rửa, phì phèo châm điếu
thuốc, chƣa cần thay, lái trăm cây số nữa là sự thách thức, coi thƣờng khó khăn gian khổ. Những chiếc xe từ trong bom rơi, bị
bom giật, bom rung, nhƣng ngƣời chiến sĩ vẫn ung dung. Các anh nhìn thẳng phía trƣớc, vui vẻ bắt tay nhau. Xe hƣ hỏng
không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xƣớc, nhƣng xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trƣớc. Tất cả vì tiền
tuyến, vì mặt trận, đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe mang đầy thƣơng tích vẫn lăn bánh ra mặt trận. Có thể nói
những ngƣời lái xe, ngƣời làm chủ phƣơng tiện là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi trên mặt trận vận tải và cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nƣớc.
Câu 5:
a. Phân tích giá trị biểu cảm của từ “Chông chênh” trong câu thơ: “Võng mắc chông chênh đƣờng xe chạy. Lại đi, lại đi trời
xanh thêm”
b. Chỉ với hai câu thơ trên, Phạm Tiến Duật đã cho ta hiểu vẻ đẹp ngƣời lái xe Trƣờng Sơn thời chống Mĩ. Hãy viết tiếp từ 7
đến 12 câu tạo đoạn văn diễn dịch hoàn chỉnh (trong đó có sử dụng phép nối và câu đơn mở rộng thành phần chủ ngữ)
Gợi ý:
a. - “Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tƣ thế không thăng bằng, không
chắc chắn, không vững chãi, gợi sự nguy hiểm của ngƣời lính trên đƣờng lái xe ra tiền tuyến. Đây là một nét vẽ hiện thực mà

Phạm Tiến Duật tái hiện lại cuộc đời gian khổ của ngƣời lính lái xe Trƣờng Sơn. Trong hoàn cảnh chiến đấu hết sức gian
khổ, họ phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn trên xe hoặc trên dọc đƣờng đi, giữa làn mƣa bom của kẻ thù nhằm huỷ diệt
sự sống.
- Song từ “chông chênh” còn gợi tả phong thái hiên ngang của ngƣời lính. Bom đạn của kẻ thù tƣởng nhƣ có thể dùng
sức mạnh để huỷ diệt sự sống con ngƣời nhƣng không! HÌnh ảnh những chiếc võng mắc “chông chênh” trên tuyến đƣờng TS
khói lửa ấy đã chứng minh điều ngƣợc lại: sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tƣ thế kiêu hãnh, hiên ngang, tƣ
thế của ngƣời chiến thắng.
b. Viết đoạn văn :
- Câu thơ tái hiện một cách tinh tế gian khổ mà những ngƣời lính lái xe Trƣờng Sơn phải trải qua. Đó là cuộc sống
gian khổ, phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn ngay trên xe giữa những làn mƣa bom của giặc đang ngày đêm trút xuống
nhằm huỷ diệt sự sống.
- Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tƣ thế không thăng bằng, không
chắc chắn, không vững chãi, gợi sự nguy hiểm. Song trong hoàn cảnh của bài thơ, từ “chông chênh” còn gợi tả phong thái
hiên ngang của ngƣời lính nhƣ ngạo nghễ, thách thức kẻ thù.
- Họ luôn có tƣ thế tiến về phía trƣớc. Điệp từ “lại đi” tái hiện vòng bánh xe lăn tiến lên phía trƣớc, rộng hơn là đoàn
xe vận tải lao nhanh ra mặt trận bỏ lại đằng sau tất cả đạn bom u ám để đến với bầu trời xanh phía trƣớc.
- Bầu trời xanh là hình ảnh tƣợng trƣng cho hoà bình, cho cuộc sống tƣơi đẹp. Với hình ảnh này, ta thấy đƣợc niềm lạc
quan, niềm tin bất diệt của ngƣời lính vào chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh lớn lao để đoàn xe lăn bánh tới đích?
Câu 6: Khi phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, trong phần giải quyết vấn đề, bạn em đã nêu được một
nhận xét:
“Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những chiếc xe không kính mà từ
trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là lời khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên
tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ”
a. Câu văn trên chứa đựng đề tài gì?
b. Triển khai 1 ý trong đề tài trên thành một đoạn văn hoàn chỉnh.
Gợi ý:
a.Đề tài:
- Bài thơ phản ánh đƣợc cái khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những ch iếc xe không kính.
- Bài thơ là khú hát ngợi ca vẻ đẹp của những ngƣời chiến sĩ lái xe Trƣờng Sơn.
a. Triển khai đề tài 2: Vẻ đẹp của những ngƣời chiến sĩ lái xe (theo các ý sau)

- Tƣ thế hiên ngang, bình tĩnh (khi xe mất đi những hệ số an toàn)
- Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy, đón nhận gian khổ khó khăn rất đàng hoàng, chủ động.
11


- Lạc quan, vui vẻ, trẻ trung
- Tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vƣợt lên mọi thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy, tất cả vì Miền Nam phía trƣớc.
Phần tập làm văn
Phân tích bài thơ “tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
I - Mở bài :
Cách 1:
- Phạm Tiến Duật là một trong những tác giả tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống MĨ cứu nƣớc. Thơ Phạm Tiến
Duật có giọng ngang tàng, tinh nghịch mà sôi nổi, tƣơi trẻ, đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ - đặc biệt là lớp trẻ ở tuyến
đƣờng Trƣờng Sơn và không khí của thời đánh Mĩ gian khổ, ác liệt.
-“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ra đời trong hoàn cảnh đó. Đây là một trong những bài thơ đặc sắc của Phạm Tiến Duật,
nằm trong chùm thơ đƣợc tặng giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ 1969 - 1970.
-Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo : Những chiếc xe không kính để làm nổi bật hình ảnh những ngƣời lái xe ở chiến
trƣờng Trƣờng Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi…Qua đó nhà thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng Cách mạng của
Việt Nam thời đánh Mĩ.
Cách 2:
Ngƣời lính trở thành một đề tài lớn trong văn học chống Pháp, chống Mĩ thời kì 1945 – 1975. Những anh bộ đội cụ Hồ,
những con ngƣời chịu bao hi sinh thử thách. Vì thế thật dễ hiểu tại sao hình ảnh của họ lại in đậm trong văn chƣơng thời kì
đó, nhƣ: Đồng chí, Khoảng trời hố bom….. Và “bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những
sáng tác ấy. Bài thơ đã khắc hoạ một cách độc đáo ngƣời lính lái xe Trƣờng Sơn trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
II – Thân bài :
1. Hình ảnh những chiếc xe không kính.
-Tứ thơ xe không kính là một hình ảnh độc đáo và ít thấy trong thơ và nó rất khác với những hình ảnh xe cộ đã từng có trong
thơ ca trƣớc đó. Thông thƣờng hình ảnh xe trong thơ ca thƣờng đƣợc miêu tả theo cách “mĩ lệ hóa” hoặc “tƣợng trƣng”.
-Ở bài thơ này, hình ảnh chiếc xe không kính là một hình ảnh hoàn toàn có thực trong chiến tranh đƣợc tác giả miêu tả cụ
thể, chi tiết và rất thực

-Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:
-“Không có kính không phải vì xe không có kính.
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
-Bom đạn khốc liệt của chiến tranh làm cho những chiếc xe ấy không có kính. Cái hình ảnh thực này đƣợc diễn tả bằng hai
câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên pha chút ngang tàng, đọc lên nghe rất thú vị. Ba chữ “không” đi liền nhau
với hai nốt nhấn “ Bom giật, bom rung” biểu lộ chất lính trong cách nói phóng khoáng hồn nhiên. Nhƣ vậy tác giả đi từ hiện
thực khốc liệt, những chiếc xe vận tải bị bom Mỹ tàn phá để xây dựng lên một hình tƣợng thơ độc đáo và nhiều ý nghĩa.
2.Hình ảnh người chiến sỹ lái xe :
Tác giả miêu tả những chiếc xe không kính nhằm làm nổi rõ hình ảnh những ngƣời chiến sĩ lái xe ở Trƣờng Sơn. Thiếu
đi những điều kiện phƣơng tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để ngƣời lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh
tinh thần lớn lao của họ. Những phẩm chất cao đẹp ấy đƣợc khắc hoạ 1 cách cụ thể và gợi cảm ở 14 câu thơ tiếp theo.
a. Trước hết là sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường hiểm nguy.
- Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên ngƣời
lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “:gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đƣờng chạy thẳng vào tim”, rồi
“sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ nhƣ sa, nhƣ ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi, thân
mình. Dƣờng nhƣ chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ
mới sinh động và cụ thể, đầy ấn tƣợng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
- Cảm giác, ấn tƣợng căng thẳng, đầy thử thách. Song ngƣời chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt, trái lại tƣ thế các anh
vấn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng.... “ung dung.... nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung.... thẳng” đã nhấn mạnh
tƣ thế ngồi lái tuyệt đẹp của ngƣời chiến sĩ trên những chiếc xe không kính. Hai chữ “ta ngồi” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy
cái tƣ thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của ngƣời làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng
thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hƣớng về phía trƣớc của một con ngƣời luôn coi thƣờng
hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, nhƣ diễn tả thái độ thản nhiên
đàng hoàng. Với tƣ thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đƣờng thành niềm vui thích. Chỉ có những ngƣời lính
lái xe với kinh nghiệm chiến trƣờng dày dạn, từng trải mới có đƣợc thái độ, tƣ thế nhƣ vậy.
=> Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những ngƣời chiến sĩ lái xe TSơn đã trải qua.
Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng
ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thƣờng. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy nhƣ những
chiếc xe vun vút chạy trên đƣờng.
b. Những người lính trẻ rất yêu đời lạc quan, bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ.

- Nếu nhƣ hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách,
khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mƣa tuôn xối xả” (gió, bụi, mƣa tƣợng trƣng cho gian khổ
thử thách ở đời). Trên con đƣờng chi viện cho miền Nam ruột thịt, những ngƣời lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
12


+ Trƣớc thử thách mới, ngƣời chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mƣa tuôn, mƣa
xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhƣng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại nhƣ đem lại
niềm vui cho ngƣời lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ
thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên nhƣ một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi.
Dƣờng nhƣ gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chƣa làm mảy may ảnh hƣởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là
một dịp để thử sức mình nhƣ ngƣời xƣa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cƣời đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vƣợt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô
mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối
đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản.
Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động nhƣ sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đƣờng đi tới.
(Nếu chúng ta quen đọc, hoặc yêu thích nhƣng vần thơ trau chuốt, mƣợt mà thì lần đầu tiên đọc những vần thơ này, có
thể cảm thấy hơi gợn, ít chất thơ. Nhƣng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng.
Ta nghe nhƣ họ đƣơng cƣời đùa, teeos táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đƣờng Trƣờng Sơn, là
một ngƣời lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đƣa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô
tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, giọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu
thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ
trung. Đó cũng là một nét rất ấn tƣợng của ngƣời lính lái xe Trƣờng Sơn. Cái cƣời sảng khoái vô tƣ, khác với cái cƣời buốt
giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cƣời hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cƣời ngạo nghễ của những
con ngƣời luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.)
c. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương.
- Sau mỗi trận mƣa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút
dừng chân ngắn ngủi. Hình tƣợng ngƣời chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn
bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình

đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhƣng thấm thía : “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những
ngƣời lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ nhƣng mang dấu ấn của cả một
thời đại hào hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhƣờng nhịn nhau nhƣ anh em ruột
thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh... chỉ trong một thoáng chốc. Để rồi lại tiếp tục hành quân”Lại đi lại đi trời
xanh thêm”. Trong tâm hồn họ, trời nhƣ xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng
mạn, thật mộng mơ. Điệp từ “lại đi” đƣợc lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính
mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tƣ thế kiêu
hãnh, hiên ngang – tƣ thế của ngƣời chiến thắng.
d. Khổ cuối dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị làm nổi bật sự khốc liệt trong chiến tranh
nhƣng cũng làm nổi bật ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, tình cảm sâu đậm với miền Nam ruột thịt.
+ Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đƣờng trƣờng gây ra: những chiếc xe bị
hƣ hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xƣớc...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Điệp
ngữ “không có” nhắc lại 3 lần nhƣ nhân lên 3 lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm 4 khúc nhƣ bốn chặng gập
ghềnh, khúc khuỷu đầy chông gai, bom đạn.... Ấy vậy mà những chiếc xe nhƣ những chiến sĩ kiên cƣờng vƣợt lên trên bom
đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trƣớc. Chỉ cần trong xe có một trái tim”
+ Hai câu cuối âm điệu đối chọi mà trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vƣợt lên bom
đạn, hăm hở tiến ra phía trƣớc, hƣớng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu
giành độc lập thống nhất đất nƣớc đang vẫy gọi.
+ Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của ngƣời cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái
“trái tim” gan góc, kiên cƣờng, giầu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thƣơng này. Phải chăng chính trái tim con ngƣời đã cầm
lái? Tình yêu Tổ Quốc, tình yêu thƣơng đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên ngƣời chiến sĩ vận
tải vƣợt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hƣớng để đƣa đoàn xe khẩn trƣơng tới
đích?
+ Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn hƣớng ngƣời đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh
quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ... mà là con ngƣời- con ngƣời mang trái tim nồng nàn yêu thƣơng, ý
chí kiên cƣờng dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói, bài thơ hay nhất là câu thơ cuối cùng này.
Nó là nhãn tự, là con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tƣợng nhân vật trong thơ.
(Tô đậm những cái không để làm nổi bật cái có….=> nổi bật chân lí của thời đại, bom đạn, chiến tranh có thể làm méo

mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhƣng không thể bẻ gẫy đƣợc những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi
một nƣớc nhỏ nhƣ Việt Nam đã chiến thắng một cƣờng quốc lớn…. Phải chăng đó là câu trả lời …? )
III - Kết luận :
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ. Bài thơ gợi lại bao kỷ niệm hào
hùng của ngƣời chiến sĩ lái xe nơi Trƣờng Sơn khói lửa. Đọc xong bài thơ, ta càng hiểu hơn về các chiến sĩ lái xe, về lòng
13


dũng cảm, tƣ thế hiên ngang bất khuất của họ. Ta cũng thấy đƣợc chất tinh nghịch hồn nhiên của mỗi ngƣời lính trẻ. Chiến
tranh đã qua đi nhƣng lời thơ của Phạm Tiến Duật vẫn còn văng vẳng đâu đây cái chất vui tƣơi khỏe khoắn yêu đời của cả
một thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

Đề số 2: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ: “Đồng chí” và “Tiểu đội xe không kính”.
A. Mở bài:
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết cho vinh.
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tƣởng. Chúng ta nhƣ đƣợc sống lại một thời hào
hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị nhƣ cuộc đời ngƣời lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ
nói về họ - những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mƣơi. Tiêu biểu cho hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ là hai bài thơ:
“Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
- Những ngƣời lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau nhƣng ở họ có nhiều nét đẹp chung của ngƣời lính cách
mạng và của con ngƣời Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nƣớc.
B.Thân bài.
1. Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do để đi vào cuộc
chiến đấu.
- Ngƣời lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó: “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên
sỏi đá”. Họ là những ngƣời nông dân vừa đƣợc cách mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập
bộ đội cầm lấy khẩu súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để giải phóng triệt để cho thân phận của mình, cho quần

chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ “mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng
nƣơng, nhà cửa vốn hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời ngƣời chiến sĩ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
- Còn ngƣời lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất trẻ, có tri thức, họ sẵn sàng gác lại những ƣớc
vọng tƣơng lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam yêu dấu: “Xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
2.Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hoà và nhờ lòng dũng cảm, hiên ngang, mà họ đã bất
chấp những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để hoàn thành nhiệm vụ.
- Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu biết bao khó khăn gian khổ, thiếu thốn.
+ Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian nan vất vả, các anh đã từng chịu những cơn “sốt run
người vầng trán ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy”… Cũng chính từ trong
gian khổ và thiếu thốn của những ngày đầu tiên bƣớc vào quân ngũ ấy đã nẩy sinh ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng chí! Và
chính có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức mạnh lớn lao để vƣợt qua tất cả: “thƣơng
nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang đầy sƣơng muối, ở nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang
tấc, những ngƣời chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh gác quân thù trong đêm trăng sáng. Các anh vẫn chiến đấu và vẫn cứ tin
có ngày chiến thắng. Ta thấy đƣợc ở các anh một tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cƣờng, một niềm lạc quan bất diệt. Đời
lính gian khổ nhƣng luôn giữ mãi nụ cƣời dẫu cho nó cận kề cái chết. “Đầu súng trăng treo”, một biểu tƣợng đẹp của hình
ảnh ngƣời lính, biểu tƣợng cao quý của mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí mọi ngƣời.
(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho ta thấy rõ điều đó:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Chính điều đó đã giúp ta hiểu đƣợc sự quyết tâm của ngƣời lính và ta thêm cảm phục sự hi sinh ấy hơn. Tấm lòng của các
anh thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó cũng là hình ảnh chung của những ngƣời lính trong thời kì kháng chiến chống
Pháp - những con ngƣời bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang.
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành đƣợc thắng lợi vẻ vang với trận Điện Biên Phủ lẫy lừng. Đất nƣớc vẫn
chƣa đƣợc bình yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa và những ngƣời con của quê hƣơng lại tiếp tục lên đƣờng. Những

anh chiến sĩ lái xe trên tuyến đƣờng Trƣờng Sơn hiện lên trong trang thơ của Phạm Tiến Duật là những anh lính thật ngang
tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng phút, các anh phải đối mặt với nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của
bom đạn quân thù hằng ngày trút xuống con đƣờng và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và ác liệt hiện hình
trong hình ảnh những chiếc xe không kính rồi không cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xƣớc, méo mó. Gian khổ tƣởng chừng
14


nhƣ không thể vƣợt qua đƣợc, cái chết nhƣ kề bên, vậy mà lúc nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn
trời nhìn thẳng”.
Mở đƣờng Trƣờng Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác
liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có những chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm
vụ thiêng liêng cao cả này. Những chiếc xe tƣởng chừng nhƣ không thể sử dụng đƣợc vậy mà nó vẫn tiến lên phía trƣớc bởi
có những nụ cƣời rất ngang tàng, rất nghịch ngợm của những anh lái xe rất phớt đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Bằng sự đồng cảm của một ngƣời lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã xây dựng nên hình ảnh những chiến
sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử chỉ: “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cƣời “ha ha” nhƣ một lời thách thức của
họ đối với quân thù. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn sức mạnh nào nữa khiến cho những chiếc xe ấy vẫn băng băng lên phía
trƣớc? Tác giả đã trả lời một cách mạnh mẽ và dứt khoát, trong những chiếc xe không kính có những trái tim yêu nƣớc, luôn
hƣớng về Miền Nam phía trƣớc với là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nƣớc:
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
3. Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trƣờng Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần gũi, thân quen giữa những ngƣời lính qua các thời kì.
Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trƣờng Sơn thời chống Mĩ trong
thơ PTD đều có chung một nét đẹp truyền thống kiên cƣờng, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với điều
kiện thuận lợi hơn, ngƣời lính thời chống Mĩ đã đƣợc trau rèn, huấn luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy đƣợc tinh thần
cách mạng vốn đã vững vàng nay lại vững vàng hơn.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống ngƣời lính nhƣng

hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của
Chính Hữu hƣớng vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của ngƣời lính, còn PTD thì lại tập trung làm nổi bật chủ nghĩa anh
hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và bom đạn kẻ thù của những ngƣời lính lái xe.
C. Kết bài:
Nhìn lại những chặng đƣờng lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài thơ về ngƣời lính qua hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên
niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những ngƣời lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những
trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhƣng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng
quân đến các anh chiến sĩ Trƣờng Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi ngƣời với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.

Bài 3: ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả:
- Huy Cận bút danh là Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở hà Tĩnh. Ông mất năm 2005 tại Hà Nội.
- Huy Cận là một cây bút nổi tiếng của phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng”.
- Ông tham gia cách mạng từ trƣớc năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách
mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945.
- Thơ Huy cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên, vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào
trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng.
2. Tác phẩm.
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ đƣợc viết vào năm 1958, khi đất nƣớc đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc đƣợc
hoàn toàn giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Không khí hào hứng, phấn chấn, tin tƣởng bao trùm trong đời sống
xã hội và ở khắp nơi dấy lên phong trào phát triển sản xuất xây dựng đất nƣớc. Chuyến thâm nhập thực tế ở vùng mở Quảng
Ninh vào nửa cuối năm 1958 đã giúp nhà thơ Huy Cận thấy rõ và sống trong không khí lao động ấy của nhân dân ta, góp
phần quan trọng mở ra một chặng đƣờng mới trong thơ Huy Cận.
b. Bố cục: 3 đoạn
+ Đoạn 1: Hai khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của ngƣời đi biển.
+ Đoạn2 : 4 khổ tiếp: Cảnh lao động của đoàn thuyền đánh bắt cá giữa không gian biển trời ban đêm.
+ Đoạn 3: khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền trở về trong cảnh bình minh lên.
- Trong bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng lãng mạn tràn đầy niềm vui hào hứng về

cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc bƣớc vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, vốn là
một nét nổi bật của hồn thơ Huy Cận. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy đã tạo ra những hình ảnh rộng lớn, tráng
lệ, lung linh nhƣ những bức tranh sơn mài của bài thơ này.
c. Nội dung:
15


- Bài thơ thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con ngƣời lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trƣớc đất nƣớc
và cuộc sống.
d. Nghệ thuật.
- Nhiều hình ảnh thơ đẹp, tráng lệ.
- Sáng tạo hình ảnh thơ bằng liên tƣởng, tƣởng tƣợng phong phú, độc đáo.
- Âm hƣởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc quan.
3. Phân tích bài thơ.
a. Hai khổ đầu.
* Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hình tượng độc đáo:
Mặt trời xuống biển nhƣ hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
- Với sự liên tƣởng so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển
vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ nhƣ thần thoại. Vũ trụ nhƣ một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với
những lƣợn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển nhƣ những chiếc then cài cửa. Phác hoạ đƣợc một bức tranh
phong cảnh kì diệu nhƣ thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhậy cảm.
*.Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc
- Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời nhƣ chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì
ngƣợc lại, con ngƣời bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Câu hát căng buồm trong gió khơi. -> Sự đối lập
này làm nổi bật tƣ thế lao động của con ngƣời trƣớc biển cả.
+ Nhịp thơ nhanh mạnh nhƣ một quyết định dứt khoát. Đoàn ngƣ dân ào xuống đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi
hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thƣờng nhật, liên tục mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh
ngƣợc chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con ngƣời bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả.
+ Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi- là ẩn dụ cho tiếng hát của con ngƣời có sức mạnh làm căng

cánh buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sƣa hứng khởi của những ngƣời lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê
với công việc chinh phục biển khơi làm giầu cho Tổ quốc.
*. Bốn câu thơ tiếp theo nói về những câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông nhƣ đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lƣới ta đoàn cá ơi.
- Họ hát khúc hát ca ngợi sự giầu có của biển cả. Họ hát bài ca gọi cá vào lƣới, mong muốn công việc đánh cá thu đƣợc kết
quả tốt đẹp.
b.Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh rất đẹp và con ngƣời rất yêu lao động, yêu thiên
nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời,
sóng nƣớc, trăng sao có nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tƣởng tƣợng dựa trên những yếu tố hiện thực của đời sống trong đó
con ngƣời hiện lên trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời.
*.Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng. Trên mặt biển đó, có một con thuyền đang băng băng
lƣớt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trƣớc biển cả bao la giờ đây đã trở thành một con thuyền đặc biệt có gió là ngƣời cầm lái,
còn trăng là cánh buồm. Con thuyền băng băng lƣớt sóng ra khơi để “dò bụng biển”. Công việc đánh cá đƣợc dàn đan nhƣ
một thế trận hào hùng. Tƣ thế và khí thế của những ngƣ dân thật mạnh mẽ, đầy quyết tâm giữa không gian bao la của biển
trời. Nhƣ vậy, tầm vóc của con ngƣời và đoàn thuyền đã đƣợc nâng lên hòa nhập vào kích thƣớc của thiên nhiên vũ trụ.
Không còn cái cảm giác nhỏ bé lẻ loi khi con ngƣời đối diện với trời rộng sông dài nhƣ trong thơ Huy Cận trƣớc cách mạng.
Hình ảnh thơ thật lãng mạn bay bổng và con ngƣời có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc
của ngƣời đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên
*. Biển giầu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có của biển cả bằng cách liệt kê tên các loài cá và tập trung miêu tả màu sắc của chúng trong
đêm trăng. Những con cá song giống nhƣ ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nƣớc dƣới ánh trăng lấp lánh quả là
hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mặt
nƣớc, những con cá quẫy đuôi nhƣ quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. Phải thật tinh tế mới có đƣợc những phát hiện tuyệt vời
ấy. Cảnh biển về đêm mới đẹp đẽ và thi vị làm sao!
16


- “Đêm thở sao lùa nƣớc Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp. Đêm đƣợc miêu tả nhƣ một sinh vật đại dƣơng: nó thở. Tiếng
thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng. Nhƣng tƣởng tƣợng của nhà thơ lại đƣợc cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao
lùa nƣớc Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Đây là một hình ảnh đảo ngƣợc, sóng biển đu đƣa lùa bóng sao trời nơi đáy
nƣớc chứ không phải bóng sao lùa sóng nƣớc. Đây là một hình ảnh lạ - một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh
thiên nhiên thêm sinh động.
*.Biển không những giầu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la nhƣ lòng mẹ. Biển cho con ngƣời cá, nuôi lớn con
ngƣời. Những ngƣời dân chài đã hát bài ca gọi cá vào với họ:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Không phải con ngƣời gõ thuyền để xua cá vào lƣới mà là “trăng cao gõ”. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in xuống mặt
nƣớc, sóng xô bóng trăng dƣới nƣớc gõ vào mạn thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh lãng
mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng với con ngƣời hòa đồng trong lao
động.
- Câu thơ “biển cho ta cá nhƣ lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” là một lời hát ân tình sâu sắc trong bài ca lao động
say sƣa thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn.
*.Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say:
Sao mờ kéo lƣới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lƣới xếp buồm lên đón nắng hồng
Những đôi bàn tay kéo lƣới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những bắp tay cuồn cuộn của ngƣời dân

chài khi kéo mẻ lƣới đầy cá nặng. Từ phía chân trời bắt đầu bừng sáng. Khi mẻ lƣới đƣợc kéo lên, những con cá quẫy dƣới
sánh sáng của rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ huy hoàng, tƣơi đẹp. Câu thơ “lƣới xếp buồm lên
đón nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động của con ngƣời với sự vận hành của vũ trụ. Con ngƣời muốn chia sẻ
niềm vui với ánh bình minh.
c. Và đây là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- Đoàn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hoàng hôn trong tiếng hát và trở về vào lúc bình minh cũng trong tiếng hát. Những
câu thơ đƣợc lặp lại nhƣ một điệp khúc của một bài ca lao động. Nếu nhƣ tiếng hát lúc trƣớc thể hiện niềm vui khi lao động
thì tiếng hát sau lại thể hiện sự phấn khởi vì kết quả lao động sau một đêm làm việc hăng say. Họ trở về trong tƣ thế mới
“chạy đua cùng mặt trời”. Từ “chạy đua” thể hiện khí thế lao động mạnh mẽ, sức lực vẫn dồi dào của ngƣời lao động. Đoàn
thuyền đƣợc nhân hóa, cả mặt trời cũng tham gia vào cuộc chạy đua này và kết quả con ngƣời đã chiến thắng.
- Hai câu kết khép lại bài thơ nhƣng lại mở ra một cảnh tƣợng thật kì vĩ và chói lọi. Phải nói rằng Huy Cận đã rất tinh tế khi
miêu tả sự vận hành của vũ trụ. Mặt trời từ từ nhô lên trên sóng nƣớc xanh lam , chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ, cảnh biển bừng
sáng và còn đẹp hơn với kết quả lao động. Con thuyền chở về khoang nào cũng đầy ắp cá. Mắt cá phản chiếu ánh mặt trời
giống nhƣ muôn vàn mặt trời nhỏ li ti. Đó thật sự là một cảnh tƣợng đẹp, huy hoàng giữa bầu trời và mặt biển, giữa thiên
nhiên và thành quả lao động.
Kết luận
“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới, con ngƣời mới. Bài thơ tràn ngập niềm vui phơi phới, niềm say
sƣa hào hứng và những ƣớc mơ bay bổng của con ngƣời muốn chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình.
Đây cũng là bài ca ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy, hùng vĩ và nên thơ của thiên nhiên đất nƣớc qua cái nhìn và tâm trạng hứng khởi
của nhà thơ. Bài thơ vừa cổ kính vừa mới mẻ trong hình ảnh, ngôn ngữ. Âm điệu tạo nên âm hƣởng vừa khỏe khoắn sôi nổi
lại phơi phới bay bổng. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ để cho đến bây giờ đọc lại ta vẫn thấy hay trong khi một
số bài thơ khác cùng viết về đề tài này đã rơi vào quên lãng.
B. Câu hỏi luyện tập.
Câu 1: Viết một đoạn văn phân tích khổ đầu hoặc khổ thơ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. (Tham khảo
bài tập làm văn trên)
Câu 2: Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động. Em hãy chọn và

phân tích một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ thơ 1,3,4, 7. Bút pháp xây dựng hình ảnh của tác giả trong bài thơ có đặc
điểm gì nổi bật?
Gợi ý:
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con ngƣời lao động đƣợc vẽ bằng bút pháp
vừa tả thực, vừa ẩn dụ, tƣợng trƣng với cảm hứng lãng mạn.
- Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi mặt trời lặn (khổ 1- cảnh biển về đêm)
+ Cảnh vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con ngƣời do một liên tƣởng so sánh thú vị của nhà thơ:
17


“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Chi tiết “mặt trời xuống biển” có thể gây ra sự thắc mắc của ngƣời đọc, vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển
miền Bắc, mà ở bờ biển nƣớc ta, trừ vùng tây nam thƣờng chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt
trời lặn xuống biển. Thực ra, hình ảnh mặt trời xuống biển là đƣợc nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo
vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây qua một khoảng biển thì vẫn có thể thấy nhƣ mặt trời xuống biển. Từ những quan sát
thực, sức tƣởng tƣợng và liên tƣởng của nhà thơ đã bồi đắp và tạo nên một hệ thống hình ảnh vừa gần gũi vừa mới mẻ: vũ trụ
nhƣ một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lƣợn sóng là then cửa... nhƣ mọi ngôi nhà
thân thuộc của mỗi ngƣời.
+ Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khoẻ, lạ mà thật từ sự gắn kết ba sự vật và hiện tƣợng: cánh buồm, gió khơi và câu hát của
ngƣời đánh cá “câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của ngƣời lao động nhƣ đã có một sức
mạnh vật chất để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lƣớt nhanh ra khơi, bắt đầu công việc đánh cá không ít
khó khăn vất vả. Đó là khí thế hăm hở và đầy hào hứng của những con ngƣời yêu nghề, yêu biển.
- Trong phần thứ hai của bài thơ nổi bật là những bức tranh đẹp, rộng lớn, lộng lẫy, kế tiếp nhau về thiên nhiên vùng biển và
tƣ thế của con ngƣời lao động trƣớc thiên nhiên, vũ trụ. .
+ Cảm hứng lãng mạn khiến nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới, khoẻ
khoắn của ngƣời lao động làm chủ công việc của mình.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
+ H/a con thuyền đƣợc miêu tả rất lãng mạn. Có thực đấy nhƣng lại lẫn vào trong ảo. Với sự tƣởng tƣợng bay bổng, thuyền
có ngƣời cầm lái là gió trời, cánh buồm là trăng trời. Thuyền và ngƣời hoà nhập vào thiên nhiên, lâng lâng trong cái thơ
mộng của gió, trăng, trời, biển. Hình ảnh con ngƣời hiện lên là hình ảnh con ngƣời lớn ngang tầm vũ trụ và chan hoà với
khung cảnh trời nƣớc bao la tuyệt đẹp. Công việc đánh cá do đó bỗng nhiên trở nên rất thơ mộng.
+ Nhƣng đây không phải là cuộc du ngoạn bằng thuyền. Đây là một cuộc chiến đấu thực sự để giành lấy từ bàn tay thiên
nhiên những của cải, tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ của con ngƣời: “Dàn đan thế trận lƣới vây giăng”
- Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
- Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
- Cứ nhƣ thế, bút pháp lãng mạn và trí tƣởng tƣợng của nhà thơ nhƣ dẫn ta đi lạc lối vào một cõi huyền ảo của biển trời. Đó
là hình ảnh đẹp lộng lẫy của các loài cá trên biển.
- Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
+ Những đoàn cá thu dày đặc lƣớt đi trong biển. Những đàn cá lƣớt trong sóng nƣớc tạo nên những luồng sáng trắng loang
loáng nhƣ dệt biển. Cá vào lƣới dày đặc mà tƣởng nhƣ cá dệt lƣới vậy.
+ Cá song đêm xuống thƣờng nổi lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông. Cá song thƣờng có màu sắc rất sặc sỡ. Trên
nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng nhƣ lửa, nhƣ những ngọn đuốc đỏ rực sáng lên giữa đêm trăng sao, vẻ đẹp hƣ ảo, lạ
kì.
+ Tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá với những màu sắc rực rỡ. Trong
đêm sao lung linh, những con cá tƣơi rói quăng mạnh những chiếc đuôi vẫy nƣớc làm ánh trăng lấp lánh “vàng choé” sáng
lên giữa biển đêm. Rồi cái nhịp thở của vũ trụ về đêm: nhịp thuỷ triều lên xuống và những con sóng dập dờn, bầu trời đêm
chi chít sao chiếu xuống mặt biển, nhà thơ cảm nhận nhƣ là “sao lùa nƣớc Hạ Long”.
+ Khi những mẻ lƣới nặng trĩu đƣợc những bắp tay cuồn cuộn săn chắc kéo lên khỏi mặt nƣớc. Những con cá nhảy nhót

trong lƣới, vảy, đuôi phản chiếu ánh sáng những sắc màu rực rỡ cùng với ánh hồng rực rỡ, tinh khiết của bình minh khiến cho
bức tranh có những gam màu tƣơi sáng, lộng lẫy đến kì lạ: “vảy bạc..... nắng hồng”
=> Những hình ảnh này có vẻ đẹp của tranh sơn màu lung lính, huyền ảo, đƣợc sáng tạo bằng liên tƣởng, tƣởng tƣợng bay
bổng từ sự quan sát hiện thực. Trí tƣởng tƣợng của nhà thơ quả là kì diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng ,
điều đó đã chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên.
Câu 3: Viết đoạn văn: Khổ 2,3,4 của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã miêu tả cảnh biển đẹp, biển giàu (tƣơng tự câu trên)
Tham khảo đoạn văn:

18


Cả bài thơ là một khúc ca, nhƣng đó không chỉ là khúc ca lao động mà còn là tiếng hát ngợi ca thiên nhiên, ngợi ca biển cả
giàu đẹp của quê hƣơng. Thật vậy, thiên nhiên trong bài thơ đẹp nhƣ một bức tranh sơn mài lóng lánh một sắc màu rực rỡ,
cảnh biển trời đƣợc giới thiệu một cách tài tình, sống động:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Một mặt trời đỏ ối đang từ từ chìm xuống biển khơi ở mút tận chân trời. Ngôi nhà vũ trụ đã vào đêm với “sóng cài then”,
“đêm sập cửa”. Nghệ thuật nhân hoá và so sánh đƣợc sử dụng thật tài tình. Đọc hai câu thơ, ta cứ tƣởng là vũ trụ đã vào thời
khắc nghỉ ngơi. Không đâu, vũ trụ hay thiên nhiên vẫn đang chuyển động không ngừng. Cảnh lúc này lại gắn liền với ngƣời:
“Thuyền” càng lƣớt ra xa thì biển càng mênh mông:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng.
Lƣớt giữa mây cao với biển bằng”
Mây cao - biển bằng bàng bạc ánh trăng. Cánh buồm no gió, cong cong nhƣ vầng trăng khuyết - một nửa vầng trăng,
hình ảnh thực đẹp mà lãng mạn, nên thơ. Hình ảnh “mây cao, biển bằng” mở ra một không gian vũ trụ rộng lớn, khoáng đạt,
bát ngát. Hình ảnh con thuyền hay con ngƣời trong không gian ấy càng lớn lao, kì vĩ. “lƣớt”nhanh, nhẹ, cảm tƣởng nhƣ đang
bay trên không trung. Tƣ thế, tầm vóc ấy trong cảm xúc bay bổng, thăng hoa của Huy Cận, hay là trong niềm vui, trong sự
hào hứng của ngƣời ngƣời dân chài khi ra khơi. Cứ nhƣ thế, bút pháp lãng mạn và trí tƣởng tƣợng của nhà thơ nhƣ dẫn ta đi
lạc lối vào một cõi huyền ảo của biển trời. Đó là hình ảnh đẹp lộng lẫy của các loài cá trên biển.
- Cá thu biển Đông
như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá với những màu sắc rực rỡ của những
nàng tiên cá nhƣ trong những câu chuyện cổ tích vừa thực, vừa ảo. Những con cá nhảy nhót trong lƣới, vảy, đuôi phản chiếu
ánh sáng những sắc màu rực rỡ cùng với ánh hồng rực rỡ, tinh khiết của bình minh khiến cho bức tranh có những gam màu
tƣơi sáng, lộng lẫy đến kì lạ. Vẻ đẹp của biển khơi càng tráng lệ, càng huyền ảo.Không gian huyền thoại; bầu trời, biển đêm,
sao, trăng, những nàng tiên cá… tất cả gợi nên vẻ đẹp kì ảo, đúng là vẻ đẹp trong cảm nhận của một tâm hồn thi sĩ giàu xúc
cảm.
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn khoảng 10 câu nêu cảm nghĩ của em về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong bài thơ “Đoàn
thuyền đánh cá”.
Gợi ý:
Thiên nhiên vùng biển trong bài thơ có một vẻ đẹp riêng. Bầu trời giống nhƣ ngôi nhà vũ trụ khi đêm xuống cũng cài then,
sập cửa để chuẩn bị nghỉ ngơi. Có trăng, có gió, biển lặng, những bầy cá dệt biển nhƣ muôn luồng sáng. Mặt trời lên làm cho
biển thêm màu sắc mới. Những thuyền đầy ắp cá nối nhau thành muôn dặm khơi mắt cá huy hoàng. Con ngƣời làm chủ nên
vui vẻ ca hát suốt từ khi ra khơi, trong quá trình buông lƣới và trở về. Con ngƣời hoà hợp với thiên nhiên. Gió lái thuyền,
trăng nhƣ dát vàng trên những cánh buồm. Ngƣời đánh cá thì hát bài ca gọi cá vào… Không khí lao động thật khoẻ khoắn.
Từng chùm cá nặng đƣợc kéo lên trong tiếng hát của những con ngƣời chạy đua cùng mặt trời. Vẻ đẹp của thành quả lao
động cũng chính là vẻ đẹp của những ngƣời lao động mới, làm ăn tập thể, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đời mình.
Câu 5. Trong câu thơ “vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”, từ “đông” có nghĩa là gì? Hãy tìm ít nhất 2 nghĩa của từ “đông” và
cho ví dụ. Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ gì? Phân tích? Tìm hai ví dụ cũng sử dụng biện pháp tu từ đó mà em đã đƣợc
học.
Gợi ý:
- Từ “đông” có nghĩa là phía đông, biển đông.
- Hai nghĩa khác nhau của từ “đông”
+ Là động từ chỉ trạng thái: đông đúc, nhiều
+ Là động từ chỉ trạng thái: đông cứng

+ Là từ chỉ phƣơng hƣớng: hƣớng đông, phía đông
VD: Đằng đông, từng đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau về bờ.
- Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ: chỉ số lƣợng cá thu đƣợc nhiều đến mức làm đầy ắp, trắng xoá mạn thuyền
khi ánh nắng chiếu vào thân cá => thành quả lao động. Cảm giác ánh sáng một ngày mới từ đoàn thuyền cá đó thể
hiện ánh sáng sự bội thu “Mùa vàng”.
- Ví dụ về hai câu thơ sử dụng phép tu từ ẩn dụ.
- VD: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
VD2: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Câu 6: Cho câu chủ đề sau:
19


Đoàn thuyền đánh cá không chỉ là một bức tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là một bài ca ngợi ca
vẻ đẹp của con ngƣời lao động.
a. Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là gì? Đề tài của đoạn văn trên đoạn văn chứa câu mở đoạn là gì?
b. Hãy viết tiếp từ 9 đến 15 câu để tạo thành đoạn văn tổng phân hợp hoàn chỉnh. Trong đó có sử dụng phép thế đồng
nghĩa.
Gợi ý:
a. Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là: ca ngợi vẻ đẹp của con ngƣời lao động.
Đề tài của đoạn văn trên đoạn văn chứa câu mở đoạn là: Đoàn thuyền đánh cá là một bức tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ
đẹp của thiên nhiên.
b. Viết đoạn:
- Tƣ thế ra đi: hoàn cảnh khắc nghiệt>< tƣ thế hiên ngang, họ mang đến cho biển khơi một nhịp điệu mới: tiếng hát say
mê lao động.
Tƣ thế lao động trên biển cả bao la: lao động trên biển không hề cô đơn, tầm vóc của họ sánh vai với đất trời, bởi
thiên nhiên bầu bạn, chia sẻ với họ….(phân tích để thấy đƣợc sự hoà hợp giữa con ngƣời và vũ trụ)
- Tạo nên khúc men say ca ngợi con cho con ngƣời lao động -> tạo thành quả lao động mà họ mong muốn.
- Nhà thơ dùng hình ảnh rất thực: “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” -> Thành quả lao động: Họ ra về với thuyền đầy ắp

dƣờng nhƣ ánh bình minh thắp lên từ vảy cá. Họ mang bình minh cho vùng biển bao la rộng lớn. Bài thơ là một bản
hùng ca về ngƣời lao động.
Câu 7: Hãy chỉ ra và phân tích giá trị nghệ thuật trong câu thơ sau:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Hãy tìm một ví dụ cũng có sử dụng biện pháp tu từ nghệ thuật giống nhƣ câu thơ trên (trong chƣơng trình đã học)
Gợi ý:
- Hai câu thơ trên đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê, ẩn dụ. Hình ảnh những con cá chim, cá đé, cá song là ẩn dụ cho
thành quả lao động mà những ngƣời dân chài có đƣợc sau một ngày lao động trên biển. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen
hồng” là một hình ảnh đẹp, những chiếc vẩy cá dƣới ánh trăng nhƣ lấp lánh.
- Câu thơ có sử dụng phép liệt kê: VD: Một canh, hai canh lại ba canh.Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Câu 8: Phân tích giá trị các biện pháp tu từ trong câu thơ sau:
Biển cho ta cá nhƣ lòng mẹ.
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Hãy viết 1 đoạn văn phân tích hai câu thơ trên.
Gợi ý:
Thiên nhiên, biển khơi hùng vĩ luôn là một đề tài lớn trong thơ ca Việt Nam. Biển đối với mọi ngƣời, ngoài vẻ đẹp và sự
hùng vĩ, còn gợi cho chúng ta một cái gì đó bí ẩn, nguy hiểm với những tai hoạ khôn lƣờng. Nhƣng trong con mắt và tình
cảm của những ngƣời dân chài: “biển nhƣ lòng mẹ”, biển cả đối với ngƣ dân trở nên thật ấm áp, nhƣ ngƣời mẹ hiền trở
che, nuôi nấng họ lớn lên, bao bọc họ với một tình cảm trìu mến, thân thƣơng. Mẹ biển là nguồn sống của họ, gắn bó
sống còn, cho họ tất cả những gì của đời sống nhƣ ngƣời mẹ “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ nhƣ một sự cảm nhận
thấm thía của những ngƣời dân chài đối với biển khơi. Đến một lúc nào đó học chợt nhận ra biển đã gắn bó với mình, thật
quý giá thân yêu biết chừng nào.
Câu 9: (Đề thi vào THPT năm học 2005 – 2006)
1) Bài “cành phong lan bể” có câu: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” cũng có câu thơ giàu
hình ảnh tƣơng tự. Hãy chép chính xác khổ thơ có câu thơ đó và nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ?
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long

2) Con cá song và ngọn đuốc là hai sự vật khác nhau trong tƣởng tƣợng nhƣng Huy Cận lại có sự liên tƣởng hợp lí. Tại
sao vậy? Câu thơ của ông giúp ngƣời đọc hiểu thêm gì về thiên nhiên và tài quan sát của ông?
Gợi ý: Nhà thơ có sự liên tƣởng hợp lí vì: Cá song đêm xuống thƣờng nổi lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông,
cá song thƣờng có màu sắc rất sặc sỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng nhƣ lửa, nhƣ những ngọn đuốc đỏ rực
sáng lên giữa đêm trăng sao.
- Câu thơ giúp ngƣời đọc hiểu thêm về vẻ đẹp của các loài cá, vẻ đẹp của thiên nhiên biển khơi, đó là một vẻ đẹp hƣ ảo,
lạ kì. Trí tƣởng tƣợng của nhà thơ quả là kì diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng, điều đó đã chắp cánh
cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giầu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên.
3) Dƣới đây là câu chủ đề cho một đoạn văn trình bầy cảm nhận về khổ thơ yêu cầu chép ở câu 1: “Chỉ với bốn câu thơ,
Huy Cận đã cho chúng ta thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hương”.
Em hãy viết tiếp khoảng 8 đến 10 câu để hoàn chỉnh đoạn văn trên theo phép lập luận diễn dịch (trong đó có một câu
ghép và một câu có thành phần tình thái)
Gợi ý:
20


Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho chúng ta thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hƣơng.(1) Thật vậy,
tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá với những màu sắc rực rỡ của những
nàng tiên cá nhƣ trong những câu chuyện cổ tích vừa thực, vừa ảo.(2) Những con cá song giống nhƣ ngọn đuốc đen hồng
đang lao đi trong luồng nƣớc dƣới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. (3) Có lẽ, “cái đuôi em quẫy trăng vàng
chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất.(4). Ánh trăng in xuống mặt nƣớc, những con cá quẫy đuôi nhƣ quẫy ánh trăng tan ra vàng
chóe. (5) Vẻ đẹp của biển khơi càng tráng lệ, càng huyền ảo hơn bởi hình ảnh nhân hoá : “Đêm thở sao lùa nƣớc Hạ Long”.
(6) Đêm đƣợc miêu tả nhƣ một sinh vật đại dƣơng đang thở. (7). Phải chăng tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng?
(8). Nhƣng tƣởng tƣợng của nhà thơ lại đƣợc cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nƣớc Hạ Long làm nên tiếng thở
của đêm. (9 ) Đây một hình ảnh đảo ngƣợc, một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên thêm sinh
động.(10).
Chú thích:
- Câu 4: sử dụng thành phần tình thái
- Câu 5: Sử dụng câu ghép.
Câu 10: Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu:

Cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ kết hợp hài hoà với cảm hứng lao động đã tạo nên những hình ảnh rực rỡ, bay bổng, lãng
mạn trong khổ thơ thứ hai và thứ ba của bài thơ : “Đoàn thuyền đánh cá”. (Đoạn văn có sử dụng câu bị động và câu có thành
phần phụ chú)
Gợi ý:
- Từ “hát” vang lên ở ngay dòng thơ đầu và trong suốt bài thơ nhƣ mở đầu một khúc ca lao động của những ngƣời dân chài
lƣới. Trong câu hát hiện lên hình ảnh những đoàn cá đƣợc miêu tả nhƣ đoàn thoi giữa biển Đông lặng. Biển hiền hoà, đoàn cá
phản chiếu ánh sáng khiến cho không gian rộng lớn trở nên rực sáng.
- Tiếng hát của ngƣời dân chai hay lời gọi trìu mến – câu hát của những con ngƣời gắn bó với biển khơi (liên hệ với các tác
phẩm nói về mối quan hệ đối nghịch giữa biển khơi và ngƣời dân chài) Nhƣng ở đây là mối quan hệ thân thƣơng, gắn bó.
- Trong khổ thơ tiếp theo, xuất hiện các hình ảnh thiên nhiên gợi không gian khoáng đạt, bao la, không chỉ đƣợc mở ra ở
chiều rộng và chiều dài, mà còn ở cả độ cao và chiều sâu.
- Cảm hứng vũ trụ là một đặc điểm trong thơ Huy Cận, giờ đây khi nhà thơ đã thực sự gắn bó với thiên nhiên, con ngƣời lao
động (sáng tác năm 1958 – sau CMT8 chuyến đi thực tế) thì nó trở nên gắn bó, này nở trong niềm vui của cuộc sống lao
động, không còn trĩu nặng nỗi sầu nhân thế nhƣ trƣớc kia.
- Hình ảnh con thuyền hay con ngƣời đang điều khiển thiên nhiên. Nhà thơ đã khắc hoạ vẻ đẹp của con ngƣời lái gió – chinh
phục thiên nhiên. Con buồn lƣớt gió với buồm trăng: con buồm no gió cong cong nhƣ vầng trăng khuyết hay ánh trăng thấm
đẫm bao phủ => Dù là hình ảnh nào thì cũng đều thi vị và bay bổng.
- Con thuyền nhƣ bay trong không trung, lƣớt bay rất nhanh và nhẹ. Hình ảnh thiên nhiên ấn tƣợng, chân thực + sự thăng hoa
cảm xúc đã đem lại cho bài thơ vẻ đẹp rất mĩ lệ. Biển cả, vũ trụ bao la nhƣng con ngƣời không hề bé nhỏ, đơn độc giữa biển
khơi, tầm vóc ngƣời ngƣ dân trở nên lớn lao, khoẻ khoắn.
- Những chuyến ra khơi đánh cá của họ đƣợc nhà thơ hình dung nhƣ một trận chiến đấu chinh phục biển khơi… Thể thơ 7
chữ với cách ngắt nhịp phổ biến là 4/3 rắn rỏi nhƣ càng tô đậm sức mạnh của ngƣời dân chài vƣợt qua những thử thách, khó
khăn.
- Trọng âm của câu thơ dồn ở những thanh trắc, những dấu nặng khiến âm điệu câu thơ trở nên thật hùng tráng.

Bài 4: BẾP LỬA
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả
- Bằng Việt là bút danh của Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941 tại Huế, nhƣng quê gốc ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trƣởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

- Tác phẩm chính: Hƣơng cây - Bếp lửa (thơ in chung với Lƣu Quang Vũ – 1968), Những gƣơng mặt, những khoảng trời
(1973), đất sau mƣa (thơ – 1977), Khoảng cách giữa lời (thơ – 1983). Cát sáng (thơ 1986), Bếp lửa - Khoảng trời (thơ tuyển
1988)...
- Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tĩnh trầm lắng, giàu suy tƣ, triết luận.
2. Tác phẩm.
a. Hoàn cảnh sáng tác : “Bếp lửa” đƣợc sáng tác năm 1963, khi BV đang là sinh viên khoa pháp lí trƣờng Đại học tổng
hợp Ki – ép (Liên xô cũ).
b.Nội dung: Qua hồi tƣởng, suy ngẫm của ngƣời cháu đã trƣởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động
về ngƣời bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của ngƣời cháu đối với bà và cũng là đối
với gia đình, quê hƣơng đất nƣớc.
c. Nghệ thuật: Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở
sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh ngƣời bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà
và tình bà cháu.
21


d. Bố cục : 3 phần:
+ Phần 1: 3 dòng đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tƣởng về bà
+ Phần 2: Từ “lên bốn tuổi” đến “niềm tin dai dẳng”: những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh ngƣời bà gắn liền với hình ảnh bếp
lửa trong hồi tƣởng của cháu.
+ Phần 3: Từ “lận đận đời bà... đến “thiêng liêng bếp lửa”: suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.
+ Phần 4: (4 dòng cuối): Hình ảnh bà và bếp lửa sống mãi trong tâm hồn cháu.
- Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tƣởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về
những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với bao vất vả và tình yêu thƣơng trìu mến dành
cho đứa cháu; từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trƣởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý
của bà; cuối cùng, ngƣời cháu muốn gửi niềm nhớ mong về bà.
3. Chú ý: Cần cảm nhận và thuộc một số câu thơ nói về:
- Hình tƣợng bếp lửa, ngọn lửa
- Hình tƣợng con chim tu hú
- Hình ảnh ngƣời bà nhóm lửa và đứa cháu bé thơ.

- Những câu thơ cảm thán và câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ tha thiết bồi hồi.:
VD: ….Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
….. Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Hoặc: “Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!”
“Nhƣng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chƣa?”
4. Phân tích nội dung bài thơ.
a. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu.
* Khổ 1 nói về bếp lửa và lòng cháu thƣơng bà. Khi nhớ về quê hƣơng, ngƣời ta thƣờng nhớ về những kỉ niệm gắn liền
trong quá khứ nhƣ dòng sông, bến đò, cây đa…. Đối với Bằng Việt, sự hồi tƣởng đƣợc bắt đầu từ hình ảnh thân thƣơng, ấm
áp về bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
- Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điêụ sâu lắng, hình ảnh quen thuộc trong mọi gia đình.
Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sƣơng sớm”, thật thân thƣơng với bao tình cảm “ấp iu nồng đƣợm”.
Từ “ấp iu” vừa diễn tả công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của ngƣời nhóm bếp.( Các
chữ “ấp iu”, “nồng đƣợm”, “chờn vờn” rất hình tƣợng, gợi tả; Ấp iu: là một sáng tạo từ mới mẻ -> đó là sự kết hợp và biến
thế của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. Bếp lửa ấm áp “nồng đƣợm” ấy còn mang tình thƣơng chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng
bà)
- Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tƣởng của cháu về bà, ngƣòi nhóm lửa, ngƣời nhóm bếp mỗi
sớm mai - một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng chập chờn lay động: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Bếp lửa
của bà là bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”, nghèo khổ và vất vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa
mà trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thƣơng bà mãnh liệt. Chữ “thƣơng” dùng thật đắt qua vần thơ cảm
thán, làm cho cảm xúc lan toả, thấm sâu vào hồn ngƣời.
* Từ đó, bài thơ gợi lại cả một thời thơ ấu bên ngƣời bà ( Khổ 2,3,4)
-Kí ức đƣa nhân vật trở về những năm “đói mòn đói mỏi” của nạn đói năm 1945: “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” (Chế
Lan Viên). Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” – cái đói kéo dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng với ngƣời bố đánh
xe chắc cũng gầy khô…Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng ngƣời đọc. Tuy nhiên cái đói chỉ là cái cớ để nhà thơ nhớ về một
tuổi thơ cay cực, thiếu thốn trăm bề:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
- Ấn tƣợng nhất là mùi khói bếp: “Khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Hai câu thơ có giá trị biểu
cảm cao. HÌnh ảnh tả thực : khói nhiều cay, khét vì củi ƣớt vì sƣơng nhiều và lạnh và vừa là hình ảnh tƣợng trƣng: sự xúc
động- nghĩ mà thƣơng tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thƣơng bà. Cảm xúc quá khứ hoà lẫn hiện tại và chắc
hẳn cảm xúc quá khứ phải sâu sắc lắm mới có thể trỗi dậy mạnh mẽ thế. Cho dù năm tháng trôi qua nhƣng kí ức ấy trở thành
một vết thƣơng lòng đâu dễ nguôi ngoai. Qua đó, nhà thơ khẳng định, tuổi thơ dẫu thiếu thốn vật chất nhƣng không bao giờ
thiếu thốn nghĩa tình.
- Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ - những kỉ niệm đầy ắp
âm thanh, ánh sáng và những tình cảm sâu sắc xung quanh cái bếp lửa quê hƣơng đƣợc nhắc tới trong đoạn thơ thứ ba.
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
….
22


+Thật là hồn nhiên, trong sáng và xúc động làm sao khi nhà thơ tâm tình với chim tu hú. Tiếng chim tu hú là tiếng chim
quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong vƣờn lá, trên cánh đồng cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài,
trong hiện thực đã tha thiết, tiếng chim trong nỗi nhớ nhƣ giục giã, khắc khoải một điều gì da diết lắm, khiến lòng ngƣời trỗi
dậy những hoài niệm nhớ mong: “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Nhà thơ đang kể chuyện về bà mà nhƣ tách hẳn ra để trò
chuyện trực tiếp với bà: “bà còn nhớ không bà…?”…. Còn gì hơn với những chi tiết tự sự xúc động nhƣ thế?
+ Âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thƣơng của hai bà cháu:
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Câu thơ mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên, nuôi dƣỡng cả tâm hồn
lẫn thể chất cho cháu, vậy mà bây giờ cháu cũng đi xa, để bà một mình khó nhọc.Tiếng chim tu hú giờ đây trở thành một
mảnh tâm hồn tuổi thơ để gợi nhớ gợi thƣơng. Cháu thƣơng bà vất vả, lo toan, biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tâm tình với chim
tu hú mà thôi. Nhƣ vậy, bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh ngƣời bà và có cả hình ảnh quê hƣơng.
- Đặc biệt hình ảnh ngƣời bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về những năm tháng đau thƣơng, vất vả,

giặc tàn phá xóm làng – hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. “Mẹ và cha công
tác bận không về”, cháu sống trong sự cƣu mang, dạy dỗ của bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan. Bên bếp lửa: “bà
hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bà là hiện thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phƣơng lớn. Trong nhiều gia đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác
nhau, mà vai trò của ngƣời bà – bà nội, bà ngoại – đã thay thế vai trò của ngƣời mẹ hiền. Sống trong những năm dài chiến
tranh, thế nhƣng bà vẫn vững lòng trƣớc mọi tai hoạ, thử thách. Các từ ngữ nhƣ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả
một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thƣơng bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Chữ”bà” và chữ “cháu” đƣợc
điệp lại 4 lần gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thƣơng. Đƣợc sống trong tình thƣơng là hạnh phúc. Ngƣời cháu trong bài thơ
“bếp lửa” tuy phải sống xa cha mẹ, tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhƣng em thật hạnh phúc khi đƣợc sống trong vòng
tay yêu thƣơng của bà. Vì thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu: “nhóm bếp lửa nghĩ thƣơng bà khó nhọc”.
=> Tóm lại, làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua dòng chảy cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp,
đan cài nhuần nhuyễn với nhau giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây cũng là nét bút pháp quen thuộc của nhà thơ.
Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo đó khiến cho hình ảnh của bà thật gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ lại hiện về sống
động và chân thành, giản dị.
b. Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa. (Khổ 5,6)
- Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu trở về hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và lẽ sống của bà và
cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn. Hình ảnh bà luôn gắn liền vời hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà
là “ngƣời nhóm lửa”, lại cũng là ngƣời giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình.
+ Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”- một hình ảnh ẩn dụ rất tráng lệ.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
“Bếp lửa bà nhen sớm sớm chiều chiều” không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất
diệt, ngọn lửa của tình yêu thƣơng “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt.
Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng, niêm tìn thiêng liêng kì diệu nâng bƣớc cháu trên suốt chặng đƣờng dài. Ngọn lửa là sức
sống, lòng yêu thƣơng, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tƣợng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm
rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của ngƣời phụ nữ Việt

Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc
động tự hào. Tình thƣơng, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của bà là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa
vĩnh cửu truyền cảm ấy. Nhƣ thế, hình ảnh bà không chỉ là ngƣời nhóm lửa, giữ lửa mà còn là ngƣời truyền lửa - ngọn lửa
của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
+ Tám câu thơ tiếp theo là những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về ngƣời bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia
đình Việt Nam chúng ta. Cuộc đời của bà nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mƣa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu
thƣơng chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả.
Từ “lận đận” thể hiện tấm lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mƣa “mấy chục năm rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi
bàn tay già nua, gầy guộc, mà là bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đƣợm” của bà đối với con cháu. Điệp từ “nhóm”
đƣợc nhắc đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết rất thực… có điểm chung là cùng gắn với hành động
23


nhóm bếp, nhóm lửa của bà nhƣng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đƣợm để sƣởi ấm
cho bà cháu qua cái lạnh buốt của sƣơng sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói
lòng mà nhƣ còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu thƣơng vô hạn của bà. Đến câu tiếp theo
thì lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới mùa gặt là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và
đến câu thứ tƣ thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tƣợng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Tình cảm của bà bao la giản dị nhƣ
khoai sắn và cũng đậm đà nhƣ khoai sắn.Các từ ngữ “ấp iu nồng đƣợm”, “yêu thƣơng”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự
tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thƣơng, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho
con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”, nuôi dƣỡng và làm bừng sáng những ƣớc mơ, những khát vọng của
đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của tình thƣơng ấm áp. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận đƣợc
trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng: “ÔI! Kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa”. Nhƣ vậy, từ ngọn
lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu đƣợc linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao
mà tình nghĩa.

c. Niềm thương nhớ của cháu:
- Đứa cháu năm xƣa giờ đã trƣởng thành
“ Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu.
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
….. Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”
- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã đƣợc sống với những niềm vui rộng mở,
nhƣng giữa “ngọn khói trăm tàu, ngọn lửa trăm nhà, cháu vẫn không thể quên bếp lửa của bà, vẫn không nguôi nhớ thƣơng
bà…. Mỗi ngày đều tự hỏi: “sớm mai này bà nhóm bếp lên chƣa?, mỗi ngày đều nhớ về bà và bếp lửa của bà. Hình ảnh ấy đã
trở thành kỉ niệm thiêng liêng làm ấm lòng, nâng đỡ cháu trên những bƣớc đƣờng đời.
d. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi ngƣời đều có sức toả sáng,
nâng đỡ con ngƣời suốt hành trình đài rộng của cuộc đời. Tình yêu thƣơng và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể
của tình yêu thƣơng, sự gắn bó với gia đình, quê hƣơng, và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con ngƣời, tình yêu đất nƣớc.
Bằng Việt đã sáng tạo hình tƣợng bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa tƣợng trƣng kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình
luận; giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tƣởng và suy ngẫm. Bài thơ nhƣ ngọn lửa ấm áp toả sáng và
cháy mãi trong tình cảm của ngƣời đọc.
B. Câu hỏi luyện tập
Câu 1: Hãy nêu nhận xét về hình ảnh tượng trưng của hình tượng “bếp lửa”
Gợi ý: Hình ảnh bếp lửa vốn là hình ảnh thật của bếp lửa mà ngày ngày ngƣời bà nhen lửa nấu cơm. Nhƣng bếp lửa lại trở
thành hình ảnh tƣợng trƣng, gợi lại tất cả những kỉ niệm ấm áp của hai bà cháu. Lửa thành ra ngọn lửa tình yêu, lửa niềm tin,
ngọn lửa bất diệt của tình bà cháu, tình quê hƣơng đất nƣớc. Bếp lửa mà ngƣời bà ấp iu hay chính là tình yêu thƣơng mà bà
nâng niu dành tất cả cho cháu, từ việc dạy cháu làm, chăm cháu học, bảo cháu nghe. Bếp lửa cũng là nơi bà nhóm lên tình
cảm, khát vọng cho ngƣời cháu. Nhóm lửa do đó cũng vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa tƣợng trƣng.
Câu 2: Phân tích giá trị nghệ thuật của điệp từ “nhóm” trong khổ thơ sau
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoa sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
- Điệp từ “nhóm” đƣợc nhắc lại 4 lần làm toả sáng hơn nét “kì lạ” và thiêng liêng bếp lửa. Bếp lửa của tình bà đã
nhóm lên trong lòng cháu bao điều thiêng liêng, kì lạ. Từ “nhóm” đứng đầu mỗi dòng thơ mang nhiều ý nghĩa: Từ bếp lửa
của bà những gì đƣợc nhóm lên, khơi lên?

+ Khơi dậy tình cảm nồng ấm
+ Khơi dậy tình yêu thƣơng, tình làng nghĩa xóm, quê hƣơng
+ Khơi dậy những kỉ niệm tuổi thơ, bà là cội nguồn của niềm vui, của ngọt bùi nồng đƣợm, là khởi nguồn của những
tâm tình tuổi nhỏ.
=> Đó là bếp lửa của lòng nhân ái, chia sẻ niềm vui chung.
TẬP LÀM VĂN
Đề bài: suy nghĩ về bài thơ “bếp lửa” của Bằng Việt
1. Tìm hiểu đề:
- Kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ
- Vấn đề nghị luận: tình cảm bà cháu
- Cách nghị luận: suy nghĩ: xuất phát từ sự cảm thụ cá nhân đối với bài thơ, khái quát thành những thuộc tính tinh thần cao
đẹp của con ngƣời.
2. Tìm ý:
- tình yêu quê hƣơng nói chung trong các bài thơ đã học, đã đọc
- tình yêu quê hƣơng với nét riêng trong bài thơ “bếp lửa” của Bằng Việt.
3. Lập dàn ý:
24


A. Mở bài:
- Bằng Việt là nhà thơ trẻ nổi tiếng vào những năm sáu mƣơi. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mƣợt mà thiên về việc khai thác
những kỉ niệm và ƣớc mơ của tuổi thơ, mà bài thơ “bếp lửa” đƣợc coi là một trong những thành công đáng kể nhất.
- Bài thơ viết năm 1963 – khi tác giả đang là sinh viên du học tại Liên Xô. Qua dòng thơ hồi tƣởng kết hợp miêu tả, tự sự,
bình luận, nhà thơ giúp ta cảm nhận đƣợc những tình cảm, cảm xúc chân thành của nhân vật trữ tình - ngƣời cháu – và hình
ảnh ngƣời bà giàu tình thƣơng, giàu đức hi sinh.
B. Thân bài:
1. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu.
- Hình ảnh đầu tiên đƣợc tác giả tái hiện là h ình ảnh một bếp lửa ở làng quê Việt Nam thời thơ ấu.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
+ Giọng điêụ sâu lắng, hình ảnh quen thuộc – bếp lửa - ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sƣơng sớm”, thật thân thƣơng với
bao tình cảm “ấp iu nồng đƣợm”.
+ Chờn vớn: từ láy tƣợng hình vừa giúp ta hình dung làn sƣơng sớm đang bay nhè nhẹ quanh bếp lửa vừa gợi cái mờ nhoà
của hình ảnh kí ức theo thời gian.
+ Ấp iu: là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ trẻ. Đó là sự kết hợp và biến thế của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. “Ấp iu” gợi ra
bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của ngƣời nhóm bếp lửa lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.
- Từ hình ảnh bếp lửa, liên tƣởng tự nhiên đến ngƣời nhóm lửa, nhóm bếp - đến nỗi nhớ, tình thƣơng với bà của đứa cháu
đang ở xa: ”Cháu thƣơng bà biết mấy nắng mƣa”.-> là cách nói ẩn dụ, gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà.
- Những dòng cảm xúc hồi tƣởng của cháu về bà:
+ Cả một thời thơ ấu bỗng sống lại:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
+ Kỉ niệm về thời thơ ấu (năm lên bốn tuổi) thật mạnh, sâu, thành ấn tƣợng ám ảnh suốt cả đời.
+ Đó là cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ, thiếu thốn: bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945: “cả dân tộc đói nghèo
trong rơm rạ” (Chế Lan Viên). Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” – cái đói kéo dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng
với ngƣời bố đánh xe chắc cũng gầy khô… có mối lo giặc tàn phá xóm làng, có những hoàn cảnh chung của nhiều gia đình
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp: mẹ và cha công tác bận không về, cháu sống trong sự cƣu mang, dạy dỗ của
bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan.
+ Ấn tƣợng nhất là mùi khói bếp: “Khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”-> HÌnh ảnh tả thực : khói
nhiều cay, khét vì củi ƣớt vì sƣơng nhiều và lạnh và vừa là hình ảnh tƣợng trƣng: sự xúc động- nghĩ mà thƣơng tuổi thơ gian
khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thƣơng bà.
+ Nhớ nhất vẫn là hình ảnh ngƣời bà bên bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen”. Bên bếp lửa: “bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu
học”, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
- Bếp lửa lại thức thêm một kỉ niệm tuổi thơ: Những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng và những tình cảm sâu sắc xung
quanh cái bếp lửa quê hƣơng:
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
….
+ Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong vƣờn lá, trên cánh đồng
cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài, trong hiện thực đã tha thiết, tiếng chim trong nỗi nhớ nhƣ giục giã, khắc khoải một điều gì
da diết lắm, khiến lòng ngƣời trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong: “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Nhà thơ đang kể
chuyện về bà mà nhƣ tách hẳn ra để trò chuyện trực tiếp với bà: “bà còn nhớ không bà…?”….
+ âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thƣơng của hai bà cháu:
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.
=> Bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh ngƣời bà và có cả hình ảnh quê hƣơng.
2. Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa.
- Từ những kỉ niệm hồi tƣởng về tuổi thơ và bà, ngƣời cháu suy ngẫm về cuộc đời và lẽ sống của bà.Hình ảnh bà luôn gắn
liền vời hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là “ngƣời nhóm lửa”, lại cũng là ngƣời giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và
toả sáng trong mỗi gia đình. Hình ảnh bà càng hiện rõ nét cụ thể với những phẩm chất cao quý:
25


×