Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chất Lượng Tăng Trưởng Kinh Tế Của Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.85 KB, 25 trang )

CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA TRUNG
QUỐC
I. CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG VỀ KINH TẾ
1. Kết quả sản xuất và tăng trưởng của nền kinh tế
1.1. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP bình quân đầu người
Là nước có nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi như Việt Nam, Trung
Quốc đã có những bước tiến dài trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội kể từ khi bắt
đầu tiến hành việc cải cách mở cửa nền kinh tế vào năm 1979. Qua 25 năm đổi mới,
kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng và đã đạt được nhiều kết quả to lớn trong
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế cũng như xây dựng được một nền tảng xã hội
vững chắc, thể chế chính trị ổn định, đảm bảo sự tăng trưởng có chất lượng.
Trung Quốc hiện đứng trong số 10 nước có GDP lớn nhất thế giới, đạt tốc độ
tăng trưởng cao nhất trong lịch sử loài người. Trong thập kỷ 1980, mức tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm của Trung Quốc đạt 10,1%, sang thập kỷ 1990, mức tăng
này còn cao hơn, đạt 10,3%. Từ năm 2001 đến nay GDP của Trung Quốc vẫn liên tục
đạt mức cao, cụ thể năm 2001 đạt 7,3%; năm 2002 đạt 8,3%; năm 2003 đạt 9,3%; năm
2004 đạt 9,5%; năm 2005 đạt 9,2% và dự đoán năm 2006 đạt khoảng 8,8%.
Biểu đồ 1 : Tốc độ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc giai đoạn 2001-2005 (%)

Năm 1995, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là 2653 USD, rút ngắn
khoảng cách so với GDP bình quân đầu người của Châu Âu xuống còn 5,3 lần, so với
Mỹ còn 8,8 lần, so với Nhật Bản tăng lên bằng 7,4 lần, so với GDP bình quân đầu
người trên thế giới giảm từ 4,2 lần năm 1952 còn có 2 lần.
Bảng 1: Tỷ lệ tăng trưởng các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của Trung Quốc
trong các thời kỳ khác nhau (%)
1


Chỉ tiêu
1952-1978
Dân số


2,0
GDP
6,1
GDP bình quân
4
đầu người

1978-1995
1,4
9,9
8,4

1995-2000
0,9
8,3
7,4

2000-2010
0,7
7,3-8,3
6,6-7,6

2010-2020
0,5
6,3-7,3
5,8-6,8

Mức tăng trưởng cao mà Trung Quốc đạt được trong suốt 25 năm qua chính là
kết quả của sự đổi mới trong tư duy của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Chính phủ
Trung Quốc đã mạnh dạn và kiên quyết thực hiện các chính sách đổi mới kinh tế, đưa

nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Các
chính sách kinh tế vĩ mô liên tục được thay đổi theo hướng ngày càng nới lỏng sự
kiểm soát của Chính phủ đối với thị trường, bắt đầu từ khu vực nông nghiệp, sau đó
mở rộng sang khu vực công nghiệp và cuối cùng là khu vực dịch vụ. Thay đổi căn bản
và sâu sắc nhất để hướng về một nền kinh tế tự do và thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ
hơn chính là việc sửa đổi Hiến pháp năm 2004. Tất cả những sự thay đổi này đã tạo
điều kiện cho kinh tế tư nhân, bộ phận đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế Trung
Quốc phát triển mạnh mẽ. Sự thay đổi này xuất phát từ thực tế cho thấy, trong giai
đoạn 1998 - 2003, sản lượng của các doanh nghiệp tư nhân do trong nước sở hữu đã
tăng năm lần và các doanh nghiệp tư nhân do nước ngoài kiểm soát đã tăng ba lần.
Ngược lại, sản lượng của các doanh nghiệp sở hữu nhà nước chỉ tăng hơn 70% cùng
kỳ.
Thương mại cũng là một trong những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế Trung Quốc, đặc biệt là kể từ sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc tăng lên hàng năm.
Tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu của Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2005 luôn
được duy trì ở mức trên 20%. Cụ thể, năm 2001, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 509,67
tỷ USD, năm 2002, 620,79 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm 2001, năm 2003 đạt
851,21 tỷ USD, tăng 37,1% so với năm 2002, năm 2004 đạt 1155,28 tỷ USD, đến năm
2005 co số này đã đạt hơn 1.421 tỷ USD. Với tốc độ tăng trưởng cao liên tục như vậy
cho thấy, mô hình tăng trưởng ngoại thương của Trung Quốc đã có những thay đổi sâu
sắc.
Mức tăng trưởng cao đạt được còn là kết quả của những yếu tố trong tổng cầu.
Tỷ lệ tiết kiệm cao dẫn đến tỷ lệ tích lũy và mức đầu tư cao. Tỷ lệ dự trữ trong nước
cao thể hiện qua lượng tiền gửi trong nước tăng hàng năm, trong đó tiền gửi tiết kiệm
của nhân dân thành thị và nông thôn chiếm 2/3 phần trăm GDP. Thời gian qua, Trung
Quốc đã rất thành công trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Nguồn vốn này đã tăng nhanh chóng, từ 4,4 tỷ USD năm 1991 lên 53,3 tỷ
USD năm 2003; 60,6 tỷ USD năm 2004 rồi 60,33 tỷ USD năm 2005, đưa Trung Quốc
lên vị trí dẫn đầu thế giới về tiếp nhận FDI. Chính hai nhân tố này đã khiến cho Trung

2


Quốc duy trì tốc độ tăng trưởng cao và thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế
của Trung Quốc.
1.2. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành
Những thành công về tăng trưởng nền kinh tế của Trung Quốc có liên quan chặt
chẽ đến những biến đổi trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành. Đồng thời với việc đi
sâu cải cách, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện điểu chỉnh mang tính chiến lược đối
với cơ cấu kinh tế, lấy cơ cấu ngành làm trọng tâm, coi cơ cấu ngành có tác dụng
quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý sẽ có tác
dụng thúc đẩy tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế.
Cơ cấu ngành bao gồm quan hệ tỷ lệ giữa 3 khu vực sản xuất (I - Nông nghiệp và
khai thác; II - Xây dựng, chế tạo, chế biến; III - Dịch vụ) cũng như quan hệ nội bộ
từng ngành. Từ năm 1978, xu thế biến động cơ cấu ngành của Trung Quốc là: Tỷ trọng
khu vực I có xu thế giảm xuống, tỷ trọng khu vực II cơ bản giữ ở mức trung bình và có
xu hướng tăng lên; tỷ trọng khu vực III ngược lại có xu hướng tăng nhanh. Xét về mặt
cơ cấu giá trị sản lượng thấy rằng, từ năm 1978 đến 2005, tỷ trọng khu vực I đã từ
28,1% giảm xuống còn 19,6%; tỷ trọng khu vực II từ 48,2% tăng lên 49,1%; tỷ trọng
khu vực III đã từ 23,7% tăng lên 31,3%.
Xét đóng góp vào GDP, năm 2001, ngành nông nghiệp chiếm 12,5%; ngành
công nghiệp chiếm 51,2%; dịch vụ chiếm 33,6%. So với năm 1978 (mức tương ứng
trong ba ngành là: 28,4%; 48,6% và 23%). Như vậy có thể thấy tỷ trọng của công
nghiệp và dịch vụ có xu hướng đang tăng lên, tỷ trọng của nông nghiệp giảm đi.
Tuy nhiên trong xu thế biến động theo cơ cấu ngành, có một đặc điểm nổi bật dễ
nhận thấy là tỷ trọng khu vực I giảm xuống đã không dẫn đến sự biến động lớn của
khu vực II, mà lại là sự tăng lên tỷ trọng của khu vực III, trong khi Nhà nước tập trung
đầu tư lớn cho khu vực II. Điều này cho thấy những bất cập trong việc dùng mệnh lệnh
hành chính thúc đẩy công nghiệp hóa, hạn chế sự phát triển của ngành dịch vụ. Sự
phát triển mạnh của khu vực III trong quá trình cải cách theo hướng thị trường là một

tất yếu mang tính khách quan trong thực trạng phát triển của nền kinh tế thị trường.
Về cơ bản, cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp 10 năm (1985 - 1995) thay đổi
theo hướng: tỷ trọng một số ngành mới như chế tạo, dầu mỏ, điện tử, thiết bị thông tin
được nâng cao, tỷ trọng một số ngành công nghiệp truyền thống như dệt, cao su,… bắt
đầu giảm, nhưng cục diện chung về cơ cấu ngành chưa có sự thay đổi mạnh mẽ, rõ nét.
Tỷ lệ giữa các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ vẫn tương đối ổn định, tỷ
lệ giá trị sản lượng giữa công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng là 47,4/52,6 (1985) và
là 47,3/52,7 (1995).
Trong khu vực nông thôn cũng có sự chuyển biến cơ cấu theo chiều hướng tích
cực. Điển hình là sự tăng trưởng nhanh chóng của khu vực công nghiệp nông thôn, bao
gồm vô số các doanh nghiệp nông thôn quy mô nhỏ do các hương trấn, làng xã và cá
3


nhân thành lập. Các doanh nghiệp nông thôn này đã làm thay đổi toàn cảnh kinh tế của
khu vực nông thôn Trung Quốc, trở thành lực lượng chính đứng đằng sau sự tăng
trưởng chung bền vững của Trung Quốc. Đây chính là điểm khác biệt quan trọng đưa
Trung Quốc đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc công nghiệp hóa
công nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hóa nói chung. Năm 1978, giá trị sản
lượng của các doanh nghiệp nông thôn trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 9% tổng
sản lượng toàn quốc. Đến năm 1997, con số này lên tới 58%. Công nghiệp nông thôn
ngày nay không chỉ đơn thuần là sự bổ sung cho sản xuất nông nghiệp mà đã là một
nguồn tăng trưởng không thể thiếu đối với các ngành kinh tế khác, đặc biệt là xuất
nhập khẩu. Năm 1986, tỷ trọng của doanh nghiệp nông thôn trong tổng kim ngạch xuất
khẩu chỉ bằng 9%; đến năm 1997 con số này đã là 46%.
Từ năm 1992 đến nay, trong sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đã diễn ra hai
khuynh hướng cơ bản: Một là tăng cường vai trò của các ngành nghề cơ sở và hạ tầng
cơ sở, hai là các ngành trụ cột như cơ khí, điện tử, hóa dầu, chế tạo ôtô, xây dựng phát
triển nhanh chóng. Hai nhân tố này đã có ảnh hưởng làm nâng cao chất lượng tăng
trưởng ở Trung Quốc. Có thể nói, điều chỉnh kết cấu ngành nghề là là một trong những

nội dung quan trọng nhất làm thay đổi phương thức tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc.
Phương châm đặt ra đối với Trung Quốc từ những năm đầu thập kỷ 1990 là: chú trọng
phát triển ngành nghề thứ nhất, điều chỉnh và nâng cao ngành nghề thứ hai, tích cực
phát triển ngành nghề thứ ba. Phát triển ngành nghề thứ nhất, đặc biệt là nông nghiệp
được coi là chiến lược cơ sở của Trung Quốc vì sản xuất lương thực liên quan đến sự
tồn vong, đến tương lai của Trung Quốc. Phát triển ngành nghề thứ ba giúp thúc đẩy
thị trường phát triển, nâng cao hiệu sản xuất, giúp ngành nghề thứ nhất và thứ hai phát
triển.
1.3. Lạm phát
Biểu đồ 2: Biến động lạm phát của Trung Quốc (1990 – 2003)
%
30
25
20
15
10
5
0

4

2003

2002

2001

2000

1999


1998

1997

1996

1995

1994

1993

1992

1991

1990

-5


Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Trung Quốc chấp nhận mức lạm phát cao 11
-15%/năm, trong giai đoạn năm 1994 – 2001, để đạt tốc độ tăng trưởng hai con số với
tăng mức cung tiền thêm lên tới 59.223,82 tỷ NDT, tương đương 701 tỷ USD. Tuy
nhiên, chính sách này không đảm bảo bền vững, theo đánh giá của WEF, điều này thể
hiện những yếu kém về thể chế; sự trì trệ trong các điều chỉnh cải cách tài chính; tỉ lệ
công nghệ mới đưa vào nền kinh tế thấp và tỷ lệ lao động trình độ cao còn thấp.
Hiện nay, tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc đã được kiềm chế ở mức thấp, song
tăng trưởng vẫn còn thể hiện những bất cập nghiêm trọng. Điển hình đó là sự tăng

trưởng nền kinh tế quá cao lại do sự đầu tư quá nhiều vào bất động sản; tình trạng vay
tín dụng quá lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng;... gây ra tình trạng tăng trưởng ảo và lạm
phát là điều tất yếu sẽ xảy ra.
2. Đánh giá kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu
Một trong ba đặc điểm đáng chú ý của quá trình tăng trưởng nhanh ở Trung
Quốc trong thời gian qua đó là tăng trưởng dựa vào tăng năng suất. So với một số các
nước châu Á khác, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc ít phụ thuộc hơn vào việc gia
tăng lượng đầu vào về vốn và lao động. Trong thời gian 1978 – 1995, mức tăng bình
quân năm của GDP đạt 9,4% thì mức tăng vốn là 8,8%, mức tăng vốn nhân lực (tính
bằng số năm đi học/một công nhân) là 0,7% và mức tăng lực lượng lao động là 4%.
Theo tính toán của WB, việc tăng vốn đầu vào đóng góp khoảng 37% vào mức tăng
trưởng chung, cải thiện chất lượng và số lượng lao động đóng góp 17%, còn lại gần 1
nửa tăng trưởng GDP (khoảng 4,3 điểm %) là nhờ các yếu tố khác (tiến bộ công nghệ,
…).
Đồng thời với mức tăng trưởng cao, mức vốn tăng lên thì ngay bản thân cơ cấu
vốn có sự cải thiện đáng kể, góp phần nâng cao năng suất. Sự cải thiện này được thấy
ở việc chuyển sang phụ thuộc nhiều hơn vào máy móc thiết bị nhập khẩu – có chất
lượng cao hơn với giá rẻ hơn; chất lượng lao động cũng được nâng cao nhờ tăng chất
lượng giáo dục, góp phần tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP – Total Factor
Productivity).
Bảng 2: Nguồn gốc tăng trưởng của Trung Quốc thời kỳ 1979 – 1998
Năm
1966 - 1978
1979 - 1988
1989 - 1998
1979 - 1998

Tốc độ tăng trưởng
GDP
Vốn

Việc làm
5,0
8,07
2,63
9,9
10,1
3,07
9,37
9,15
2,56
9,71
9,64
2,94

Tỷ trọng trong thu nhập quốc dân
TFP
Lao động
Vốn
0,194
0,6
0,4
4,018
0,6
0,4
3,884
0,6
0,4
4,09
0,6
0,4


Nguồn: Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á – Joseph E.Stiglitz và Shahid Yusuf – NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 353.

5


Có thể thấy, cuộc cải cách năm 1978 đã có ảnh hưởng mạnh đến tăng trưởng
kinh tế ở Trung Quốc, đặc biệt là nhờ tăng năng suất. Tỷ trọng TFP tăng từ 0,194% lên
đến chiếm hơn 4% mức tăng trưởng hàng năm trong tốc độ tăng GNP. Trong thời gian
tiếp theo thực hiện các cuộc cải cách định hướng thị trường, năng suất nhân tố tổng
hợp tiếp tục tăng, nhất là trong thập niên 1990. Tỷ trọng bình quân trong GNP của
năng suất nhân tố tổng hợp 1979 – 1998 ở Trung Quốc là 4,09%, cao hơn nhiều so với
mức 0,194% thời kỳ 1966 – 1978.
Bảng 3: Dự tính nguồn tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc (%)
Chỉ tiêu
GDP
Tư bản hữu hình
Vốn con người
Sức lao động
TFP

1978-1995
a
b
9,4
8,2
8,8
7,9
2,7

2,7
2,4
2,4
4,3
3,5

1990-1999
c
10,7
12,4
2,6
1
4,7

2000-2010
c
7,3 - 8,9
11
2
1
2–3

2010-2020
c
6,3 – 7,3
9
1,5
0,7
2-3


Sự gia tăng không ngừng giá trị đóng góp của TFP ở Trung Quốc có được là nhờ:
Thứ nhất: Tác động của cải cách kinh tế làm nâng cao chất lượng lao động thông
qua tăng cường chất lượng giáo dục – đào tạo. Đồng thời, sự chuyển dịch lao động từ
các công việc có năng suất thấp trong nông nghiệp sang những công việc có năng suất
cao hơn nhiều trong khu vực thành thị hoặc trong các xí nghiệp hương trấn cũng có thể
xem như một sự nâng cao chất lượng lao động, giải thích cho sự tăng lên của TFP.
Trong hai thập kỷ bắt đầu từ năm 1978 và kết thúc năm 1998, việc làm nông nghiệp đã
giảm từ 71% xuống còn 51% tổng việc làm.
Trong giai đoạn tới đây, chính phủ Trung Quốc thực hiện chủ trương đầu tư cho
phát triển nhân lực, coi đây là tiền đề, nền tảng và động lực để phát triển đất nước bền
vững. Phát triển giáo dục kỹ thuật và dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng và kỹ năng
của công nhân và cán bộ trung cấp; mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục đại học
và sau đại học cũng là những ưu tiên trong chính sách giáo dục của Trung Quốc.
Chính phủ Trung Quốc còn có những chính sách gửi sinh viên ra nước ngoài đào tạo,
thu hút các sinh viên đã học xong trở về nước làm việc, với phương châm “ủng hộ sinh
viên đi du học nước ngoài, cho phép và khuyến khích họ trở về”. Đặc biệt, sau khi
Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc thực hiện chủ trương bồi dưỡng nhân tài theo
3 hướng: hướng về hiện đại hóa, hướng ra thế giới và hướng tới tương lai. Chiến lược
này thể hiện ý chí đưa giáo dục của Trung Quốc bắt kịp với các xu thế phát triển của
thế giới, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho tương lai.
Thứ hai, sự cải thiện trong cơ cấu vốn đó là chuyển sang phụ thuộc nhiều hơn
vào máy móc thiết bị nhập khẩu so với thời kỳ “tự cấp tự túc” trước năm 1977, với

6


chất lượng cao hơn và giá rẻ hơn. Tác động này thể hiện rõ ở sự gia tăng của năng suất
nhân tố tổng hợp trong ngành công nghiệp.
Thứ ba, đầu tư phát triển khoa học - công nghệ. Tăng trưởng kinh tế ở Trung
Quốc luôn đi liền với sự phát triển của lĩnh vực khoa học - công nghệ. Tổng mức kinh

phí chi cho hoạt động khoa học toàn quốc năm 1999 là 125 tỷ NDT. Năm 2000, tỷ
trọng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D)/GDP của Trung Quốc đạt
1,0% (tương đương với khoảng 89,6 tỷ NDT, tăng 17,9% so với năm trước), vượt lên
đứng hàng đầu trong các nước phát triển. Sự phát triển của khoa học - công nghệ đã
góp phần không nhỏ trong việc tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy sử dụng có
hiệu quả các yếu tố đầu vào sản xuất, tăng tỷ trọng đóng góp của TFP trong mức tăng
trưởng GDP.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nhanh ở Trung Quốc lại không dẫn đến việc năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng cao. Ngược lại, trong những năm gần đây,
theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF – World Economic Forum), vị trí
xếp hạng năng lực cạnh tranh của Trung Quốc liên tục tụt bậc. Nếu như năm 2002, xếp
hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Trung Quốc là 33 trên tổng số 80 nước được
xếp hạng, thì đến năm 2003 đã tụt 11 bậc xuống vị trí thứ 44, năm 2004 là 46 và năm
2005 là 49. Trong đó, chỉ số môi trường vĩ mô có sự suy giảm mạnh nhất từ vị trí rất
cao (thứ 8) năm 2002 xuống vị trí thứ 24 năm 2004 và 33 năm 2005.
Bảng 4: Bảng xếp hạng các chỉ số năng lực cạnh tranh của Trung Quốc
Chỉ số năng lực cạnh tranh
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng
Chỉ số công nghệ
Chỉ số thể chế công
Chỉ số môi trường vĩ mô

200
2
33
63
38
8

200

3
44

200
4
46
62
55
24

2005
49
64
56
33

Chỉ số năng lực cạnh tranh kinh doanh
38
46
47
57
- Chỉ số chiến lược và hoạt động doanh nghiệp
38
39
53
- Chỉ số chiến lược môi trường kinh doanh quốc 38
47
58
gia
Nguồn: Global Competitiveness Report 2002-2003, 2003-2004, 2004-2005 – WEF.


Vị trí xếp hạng của Trung Quốc về năng lực cạnh tranh kinh doanh trong những
năm gần đây cũng có hiện tượng tụt giảm. Năm 2002 ở vị trí 38/80 nước, đến năm
2003 tụt 8 bậc xuống vị trí 46, năm 2004 tụt 1 bậc xuống vị trí 47 và năm 2005 tụt 10
bậc xuống vị trí 57. Trong đó xếp hạng cả 2 chỉ số chiến lược và hoạt động doanh
nghiệp và chỉ số chiến lược môi trường kinh doanh quốc gia đều tụt hạng rất nhanh.
Song nguyên nhân của sự tụt hạng này cũng không có nhiều điều đáng lo ngại về thực
trạng kinh tế Trung Quốc, vì sự tụt hạng chủ yếu là do giảm giá trị chỉ số môi trường
vĩ mô, điều này xuất phát từ thực tế là trong vòng 2 - 3 năm qua, Trung Quốc đang áp
7


dụng các biện pháp để kiềm chế, kiểm soát sự tăng trưởng quá nóng, cũng như do cầu
tăng mạnh đã thúc đẩy lạm phát gia tăng.
II. TĂNG TRƯỞNG VÀ BẢO VỀ MÔI TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC
Quá trình tăng trưởng ở Trung Quốc đã nhanh chóng nâng cao mức sống nhưng
đồng thời cũng huỷ hoại môi trường một cách nghiêm trọng. Hiện nay, Trung Quốc
đang thực hiện nhiều biện pháp tích cực nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng ô
nhiễm môi trường, nhằm đạt được cả 2 mục tiêu là tăng trưởng kinh tế song song với
bảo vệ môi trường và đã đạt được những kết quả nhất định.
1. Tình trạng ô nhiễm môi trường của Trung Quốc
Ô nhiễm không khí và nguồn nước ở Trung Quốc, đặc biệt là ở các đô thị thuộc
loại nghiêm trọng nhất thế giới.
1.1. Ô nhiễm không khí
Mặc dù hàm lượng khí thải ra hầu như không thay đổi kể từ những năm 1980,
song lượng khí sunphua điôxit lại tăng mạnh. Hàm lượng các loại khí và khí sunphua
điôxit thải ra ở Trung Quốc hiện lớn nhất thế giới. Các nguyên nhân chính gây nên
tình trạng ô nhiễm không khí ở các đô thị của Trung Quốc gồm:
Thứ nhất, các nồi hơi công nghiệp nhỏ, kém hiệu quả chạy bằng than thường thải
khí ra từ các ống khói thấp, chiếm 1/3 tới 1/2 lượng khí thải tầng thấp và khí Sunfua

điôxit. Thứ hai, ô nhiễm xuất phát từ việc dùng than cho sinh hoạt hàng ngày của
người dân. Mặc dù lượng than dùng cho sinh hoạt chỉ chiếm 15% tổng lượng than
dùng, song nó lại chiếm tới hơn 1/3 lượng khí thải cũng như khí sunfua điôxit thải ra.
Việc dùng than trong sinh hoạt hàng ngày còn ảnh hưởng trực tiếp ngay đến chất
lượng khí trong nhà, đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ cũng giống như hút thuốc lá.
Thứ ba, ở các thành phố lớn, số lượng ô tô gia tăng với tốc độ khá cao (trung bình
khoảng 10%/năm). Đây chính là nguyên nhân làm tăng cả các khí thải khác lẫn khí
sunfua điôxit, đồng thời cũng làm tăng hàm lượng chì trong khí quyển ở thành thị. Mối
nguy này càng thêm trầm trọng do tốc độ lái xe trung bình rất thấp và do các tiêu
chuẩn về đảm bảo khí thải của xe cũng rất thấp. Do vậy, mặc dù số lượng xe hơi ở Bắc
Kinh chỉ bằng 1/10 số lượng xe hơi ở Los Angeles, song lượng khí thải ra từ ô tô của
hai thành phố này gần như bằng nhau.
Ô nhiễm không khí rất có hại cho sức khoẻ. Tỷ lệ tử vong do bệnh phổi mãn tính,
căn bệnh nguy hiểm gây tử vong nhiều nhất ở Trung Quốc, lớn gấp 5 lần so với ở Mỹ.
Hàng năm, khoảng 15 triệu người dân đại lục mắc bệnh về hô hấp, khoảng 2 triệu
người khác chết do ung thư . Chỉ cần giảm mức ô nhiễm không khí xuống bằng tiêu
chuẩn mà Trung Quốc đăt ra thì mỗi năm có thể cứu sống được tới 298.000 người.
1.2. Tình trạng thiếu và ô nhiễm nguồn nước

8


Thế kỷ XXI, Trung Quốc đang đứng trước khó khăn là thiếu thốn tài nguyên toàn
diện, trong đó khó khăn lớn nhất ảnh hưởng đến phát triển bền vững là thiếu tài
nguyên nước. Hiện nay, bình quân đầu người về tài nguyên nước của Trung Quốc
khoảng 2400m3. Đến giữa thế kỷ XXI, dân số tăng lên khoảng 1,7 - 1,8 tỷ người,
lượng nước bình quân đầu người sẽ chỉ còn trên dưới 1600m 3.
Chất thải công nghiệp, chất thải đô thị, nước thải ra từ các cánh đồng bón phân
hóa học, phân hữu cơ là nguồn chính gây ô nhiễm nước ở Trung Quốc. Từ đầu những
năm 1980, lượng chất thải tăng vừa phải, trong đó riêng chất thải đô thị trong tổng số

ngày càng tăng. Song thực tế tổng mức tăng còn lớn hơn nhiều bởi vì số liệu về chất
thải ở khu vực phi nhà nước còn chưa được quản lý chặt chẽ. Tỷ phần chất thải đô thị
tăng nhanh đang là một mối lo lớn, bởi vì lượng chất thải được xử lý chiếm rất ít (chưa
đến 20%), phần còn lại đang hàng ngày thải trực tiếp ra ngoài môi trường, gây ô nhiễm
nghiêm trọng. Hiện có hơn 3/4 lượng nước chảy qua các thành phố của Trung Quốc
không thể dùng làm nước sinh họat do bị ô nhiễm từ chất thải công nghiệp.
Song có một điều đáng mừng là, dù ô nhiễm nước liên quan tới rất nhiều bệnh
tật, nhưng ảnh hưởng của nó tới sức khoẻ của người dân Trung Quốc nhìn chung được
hạn chế bởi việc sử dụng rộng rãi nước uống sạch và các biện pháp vệ sinh. Các bệnh
có liên quan tới nước nói chung chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số bệnh tật và dịch
bệnh. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm trọng đã làm tăng chi phí của việc
cấp nước sạch nói riêng và chi phí bảo vệ môi trường nói chung. Ví dụ, tình trạng ô
nhiễm do chất thải chưa qua xử lý đổ vào sông Hoàng Phố đã buộc chính quyền
Thượng Hải phải chuyển vị trí nguồn cấp nước sạch lên thượng nguồn với chi phí 300
triệu USD. Tính tổng thể chí phí kinh tế do ô nhiễm nước và không khí ở Trung Quốc
ước tính trung bình chiếm tới 38% GDP/năm. Theo tính toán của các chuyên gia
Trung Quốc, với mức độ ô nhiễm hiện nay, quốc gia này sẽ phải chi khoảng 450 tỷ
USD cho việc làm sạch môi trường. Đó là chưa kể Chính phủ có thể sẽ phải chi ra
hàng tỷ USD về y tế để đối phó với các loại bệnh tật do ô nhiễm gây ra.
Mối lo ngại lớn hơn trước tình trạng ô nhiễm nước ở Trung Quốc là nó làm căng
thẳng thêm tình trạng thiếu nước. Nước bị ô nhiễm theo dòng chảy lan sang các nguồn
nước sạch, làm tình trạng khan hiếm nước sạch ngày càng tăng lên. Tình trạng ô nhiễm
nguồn nước, thiếu nước sạch sử dụng cho sản xuất nông nghiệp cũng phổ biến. Năm
1993 khoảng 8% đất nông nghiệp phải dùng nguồn nước ô nhiễm, gây thất thu khoảng
1 triệu tấn ngũ cốc.
Nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm chất lượng nước và không khí ở Trung
Quốc ngày càng nghiêm trọng là do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và cơ khí
hoá trong hai thập kỷ qua, hơn nữa, các tập quán thâm canh trong nông nghiệp cũng
làm phát sinh những đe dọa tới về môi trường.
1.3. Đất canh tác đang bị khủng hoảng

9


Đất canh tác bình quân đầu người của Trung Quốc chỉ bằng 32% bình quân đầu
người của thế giới. Trung Quốc chỉ chiếm 7% diện tích canh tác của thế giới nhưng lại
phải nuôi sống 22% dân số thế giới. Tuy nhiên, điều này chưa phản ánh thực chất nguy
cơ đất canh tác của Trung Quốc mà khủng hoảng đất canh tác của Trung Quốc trước
hết thể hiện ở chỗ hầu như không có tài nguyên đất bổ sung. Sự giảm diện tích đất
canh tác trong thế kỷ XXI của Trung Quốc được dự báo là sẽ tăng gia tăng. Miền bắc
Trung Quốc là nơi có khá nhiều đất canh tác nhưng do thiếu nước nên khó phát huy
tiềm năng sản xuất, trong khi điều kiện khí hậu miền Nam khá tốt nhưng diện tích đất
trồng trọt lại rất ít.
Trong 28 năm, từ 1957 đến 1985, dù thường xuyên được bổ sung đất khai hoang,
đất canh tác vẫn giảm bình quân hàng năm 530.000 ha; đến năm 2000 dù đã khống chế
chặt chẽ nhưng dự tính vẫn mất mỗi năm 230.000 ha đất để dành cho xây dựng, do
thiên tai và sự điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp cũng làm giảm 130.000 ha đất canh tác.
Dự tính đến năm 2100 Trung Quốc có khả năng sẽ chỉ còn lại 80 triệu ha đất canh tác.
Khi đó dân số đã lên 2 tỷ và bình quân đầu người sẽ chỉ còn 0,04 ha. Tình trạng thiếu
đất canh tác nghiêm trọng khiến cho người dân phải đổ về các thành phố hoặc khai phá
đất đồi rừng hoặc thảo nguyên. Từ đó làm cho môi trường sinh thái đô thị, nông thôn
tiếp tục xấu đi và khó bền vững.
1.4. Mưa axít ngày càng nghiêm trọng, mối đe dọa tồn tại lâu dài
Cơ cấu năng lượng chủ yếu lấy từ than của Trung Quốc chính là một nguyên
nhân lớn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khí sunfua điôxit và ôxit nitrơrat thải
ra sẽ tạo phản ứng với nước và ôxy trong không khí thành axit sunfuric và axit nitơric
có thể rơi xuống những vùng lân cận hoặc những vùng cách xa nơi gây ô nhiễm hàng
ngàn dặm. Mưa axít phá huỷ mùa màng, tàn phá những cánh rừng, phá hỏng những
cấu trúc các toà nhà và gây thiệt hại cho sức khoẻ con người. Những hậu quả này đặc
biệt nghiêm trọng ở miền Nam Trung Quốc, nơi hàng ngày có một lượng lớn than và
hàm lượng lớn sunfat cao đang bị đốt.

So với các nước đang phát triển, ô nhiễm môi trường của Trung Quốc chủ yếu
không phải do quy mô quá lớn gây ra mà do kỹ thuật sản xuất lạc hậu, hiệu suất sử
dụng năng lượng thấp, thêm vào đó quy mô sản xuất tăng nên lượng chất thải ngày
càng gia tăng. Hơn nữa, mức sống của người dân được nâng cao, lượng phế thải sinh
hoạt cũng tăng lên đáng kể, do đó mối đe dọa ô nhiễm môi trường của Trung Quốc vẫn
sẽ tồn tại và khó loại trừ
2. Các giải pháp của Trung Quốc
2.1. Bảo vệ môi trường lồng ghép với chính sách phát triển kinh tế - xã hội
Thay vì chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế, hiện nay, Trung Quốc cũng đã chú
trọng hơn tới vấn đề bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường. Trung Quốc là một
trong những nước đi đầu trong việc xây dựng Chương trình Nghị sự 21 về phát triển
10


bền vững của Trung Quốc (được Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
thông qua và phê duyệt chương trình vào tháng 7/2004 – sau gần 2 năm diễn ra Hội
nghị Thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janerio, 1992). Trong đó
công tác bảo vệ môi trường được quan tâm lồng ghép và thực hiện đồng thời với phát
triển kinh tế - xã hội. Trong các kỳ kế hoạch hàng năm hay dài hạn của Nhà nước
Trung Quốc cũng như của các địa phương đều dành một phần hoặc một chương mục
riêng viết về phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp phát triển bền vững, bảo vệ môi
trường, sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Đồng thời, Trung Quốc thi hành chính sách công nghiệp nghiêm ngặt, cấm doanh
nghiệp và các dự án hạ tầng cơ sở gây ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên;
khống chế các sự án tiêu hao năng lượng cao, ô nhiễm nghiêm trong và có kỹ thuật lạc
hậu. Chính phủ đã quyết định chuyển dịch đầu tư kinh tế từ khu vực Nhà nước sang
cho khu vực tư nhân gánh chịu song song với việc kiểm soát môi trường chặt chẽ hơn.
Trung Quốc cũng thi hành các chương trình đặc biệt giải quyết ô nhiễm môi
trường, đặc biệt là xử lý từng bước ô nhiễm nước, không khí và đất. Chính phủ thắt
chặt việc thi hành luật song song với vấn đề bảo vệ môi trường. Những doanh nghiệp

tiêu thụ nhiều năng lượng và gây ô nhiễm sẽ bị đóng cửa, doanh nghiệp và các nhân
gây ô nhiễm nặng nề sẽ bị phạt. Trong năm 2005, gần 30.000 vụ vi phạm môi trường
bị điều tra và trừng phạt trong đó 2.609 doanh nghiệp buộc phải ngưng hoạt động hoặc
đóng cửa.
Hiện nay Chính phủ Trung Quốc đã đề ra nguyên tắc chỉ đạo mới định rõ mục
tiêu, nhiệm vụ và biện pháp chính sách bảo vệ môi trường trong tương lai. Theo đó,
khả năng bảo vệ môi trường sẽ trở thành một phép đo quan trọng để xác định quan
chức các cấp có làm tròn vai trò của mình hay không. Nói cách khác, việc đánh giá
quan chức địa phương không chỉ dựa về khả năng phát triển kinh tế mà còn tính đến
khả năng bảo vệ môi trường.
2.2. Dân chúng được tham gia đánh giá tác động môi trường
Trước đây, hệ thống đánh giá tác động môi trường của Trung Quốc hầu như chỉ
dựa vào các biện pháp hành chính nhưng thiếu sự giám sát của dân chúng. Ngày
22/02/2006, SEPA đã công bố hai biện pháp tạm thời về sự tham gia của dân chúng
trong việc đánh giá tác động môi trường. Hai biện pháp này sẽ có hiệu lực kể từ ngày
18/03/2006. Theo đó, dân chúng có thể tham gia đánh giá tác động môi trường, hỏi ý
kiến chuyên gia, hoặc tham dự hội nghị chuyên đề hoặc diễn đàn công khai. Các nhà
thầu dự án sẽ phải cung cấp cho nhân dân chi tiết ảnh hưởng của công trình xây dựng
đến môi trường và các biện pháp phòng tránh họ sẽ áp dụng.
2.3. Hạn chế xây dựng để bảo vệ môi trường
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra kế hoạch hạn chế việc xây dựng các biệt thự,
sân gôn và các dự án xa hoa khác trong một nỗ lực nhằm bảo vệ môi trường và ngăn
11


chặn tình trạng đầu tư lãng phí. Những hạn chế trên nằm trong danh sách và mục tiêu
mà một cơ quan trong nội các đề ra yêu cầu các quan chức địa phương khuyến khích
các ngành công nghiệp có triển vọng như viễn thông và hạn chế các hoạt động kinh
doanh gây lãng phí năng lượng và nguồn tài nguyên khác. Đồng thời, Chính phủ
Trung Quốc đã ban hành một loạt lệnh cấm xây dựng đối với các dự án xây dựng có

thể gây hậu quả lãng phí các nguồn nước khan hiếm và đất chăn nuôi trồng trọt.
III. HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA TRUNG QUỐC
1. Các chính sách vĩ mô
1.1. Chính sách tài khóa
Trong điều hành bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, Trung Quốc chú trọng sử
dụng chính sách tài khóa, coi đây là động lực tiên phong thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
một cách bền vững.
Trong suất gần 30 năm qua, Trung Quốc đã kiên trì thực hiện chính sách chi tiêu
NSNN hết sức thận trọng, kiểm soát chặt chẽ thâm hụt NSNN, tạo môi trường kinh tế
vĩ mô ổn định, thuận lợi cho kinh tế tăng tốc lâu dài. Từ 1978 đến nay, Trung Quốc
kiên quyết không phát hành tiền cho chi tiêu và bù đắp thâm hụt NSNN trong trường
hợp thu NSNN không đủ cho chi tiêu của Chính phủ. Thay vào đó, tích cực thi hành
chính sách động viên (chính sách thu) và chính sách chi NSNN đúng đắn, nhờ vậy mà
kinh tế nước này đã được thúc đẩy tăng tốc với nhịp độ cao chưa từng thấy. Độ ổn
định và cân bằng NSNN của Trung Quốc chỉ dao động trên dưới 0,9% GDP, vào loại
vững chắc nhất thế giới.
Cùng với đó là các chính sách điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu chi NSNN, bám sát
các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Tỷ lệ đầu tư vào các dự án sản xuất giảm dần
cho thấy Nhà nước đã chủ động rút dần khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh thuần túy
vốn có trong kinh tế kế hoạch để tập trung cho chức năng hoạch định chính sách, điều
chỉnh và định hướng ở tầm vĩ mô. Chi cho xây dựng kinh tế giảm từ 60% năm 1978
xuống còn 26,6% tổng chi NSNN năm 1995, còn chi cho đầu tư cơ bản giảm từ 40,3%
năm 1978 xuống còn 11,6% năm 1995. Chi tiêu cho y tế, giáo dục và phục lợi tăng từ
11,6% lên 23,2% NSNN năm 1995. Chi cho quản lý trong công nghiệp, thương mại
cũng như toàn bộ bộ máy hành chính tăng từ 6% lên 14,3%. Chi trả nợ năm 1995
chiếm 13%, riêng cho quốc phòng giảm từ 14,96% năm 1978 xuống 9,33% NSNN
năm 1995. Đến những năm cuối thập kỷ 1990, để chuyển dịch tăng trưởng kinh tế
sang phía Tây, đối phó với tình trạng thiểu phát và duy trì nhịp độ tăng trưởng cao,
chính sách tài chính nhà nước của Trung Quốc đã có một số điều chỉnh tích cực. Từ
1998 thực thi chính sách tài khóa tích cực, với định hướng mở rộng quy mô đầu tư của

Nhà nước thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Theo đánh giá của các nhà kinh
tế, hiệu ứng của chính sách này đã làm tăng GDP lên 1,5% trong năm 1999, 2% trong
năm 2000; tăng cường đầu tư với qui mô rất lớn vào cơ sở hạ tầng; chính sách thuế
12


được điều chỉnh theo hướng giảm bớt gánh nặng như đã nêu ở trên. Chính sách tài
chính tích cực với hai giọng kìm là tăng chi ngân sách và giảm thuế đã chặn được
nguy cơ tụt dốc của nền kinh tế. Đến năm 2005, Trung Quốc đã thực hiện tối ưu hóa
kết cấu các khoản chi ngân sách; phát huy vai trò xúc tiến của Chính phủ trong việc
điều chỉnh kết cấu ngành nghề, thực hiện sự phát triển nhịp nhàng; tăng cường củng cố
cách khâu yếu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn tiếp theo, Chính
phủ sẽ thực hiện ưu tiên công cuộc xây dựng nông thôn, khoa học, giáo dục, văn hóa,
bảo đảm xã hội, tiết kiệm tài nguyên, xây dựng sinh thái, phát triển khu vực miền Tây,
bảo đảm cho việc các dự án trọng điểm; tiếp tục rót kinh phí Nhà nước vào các dự án
đầu tư cơ sở hạ tầng quy mô lớn và sử dụng nguồn đầu tư của Chính phủ để giải quyết
sự phát triển chênh lệch giữa nông thôn và thành thị.
Quan hệ và tỷ trọng giữa ngân sách Trung ương (NSTW) và ngân sách địa
phương (NSĐP) cũng có những thay đổi cơ bản. Trong điều chỉnh, tỷ trọng của
NSTW liên tục giảm và duy trì ở mức thấp, tỷ trọng NSĐP tăng lên. Nếu năm 1979 tỷ
trọng giữa trung ương và địa phương là 50,8% và 49,2% thì đến năm 1993 tỷ lệ này là
22% và 78%. Năm 1994 Trung Quốc thông qua luật NSNN, mà một trong các mục
tiêu là nâng tỷ trọng của NSTW lên 50%, trên thực tế mục tiêu này đã cơ bản đạt được,
tỷ trọng NSTW đã nằm ở mức 49 - 52% trong các năm 1995 - 1998, nhưng phần sử
dụng của NSTW sau khi đã chuyển giao chỉ chiếm 20 - 22,7% tổng chi NSNN. Đây là
tỷ trọng rất thấp so với Anh là 71%, Mỹ là 42%, Achentina là 57%, Inđônêxia là 82%.
Xét về tác động của chính sách này, tỷ trọng NSĐP trong tổng NSNN lớn tạo điều
kiện cho NSĐP được tăng cường và chủ động trong chi tiêu và đầu tư. Tuy nhiên, ở
khía cạnh khác điều này gây ra tình trạng NSTW thiếu nguồn lực, khó khăn cho việc
thực hiện các chương trình tầm cỡ nhằm hỗ trợ các vùng khó khăn, nghèo nàn, kém

phát triển. Trung Quốc hiện nay trở thành một trong ba nước bị mất cân đối và có sự
phân hóa lớn nhất trên thế giới. Sự phân hóa ngày càng nghiêm trọng giữa miền Đông
– Tây, giữa giàu – nghèo, thành thị – nông thôn.
Những vấn đề còn tồn tại
Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, cải cách NSNN của
Trung Quốc trong thập niên 1990, đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc trong
việc mở rộng đối tượng thu thuế, tăng chi tiêu xã hội, chuẩn hóa quan hệ ngân sách
giữa trung ương và địa phương, thiết lập hệ thống lương hưu ổn định, bên cạnh vẫn
còn nhiều vấn đề tiếp tục phải cải cách, điều chỉnh, mà tựu trung lại là:
- Do NSTW eo hẹp nên Chính phủ không thể lập ra được các chương trình tầm
cỡ nhằm hỗ trợ các vùng khó khăn, nghèo và kém phát triển, dẫn đến tình trạng Trung
Quốc trở thành một trong ba nước bị mất cân đối lớn nhất trên thế giới.
- Việc xây dựng quỹ ngân sách bổ sung và quỹ ngoài ngân sách (ước tính chiếm
12% GDP) đang có những điều bất cập. Phát sinh tình trạng nhiều địa phương tìm
13


cách chuyển các khoản thu trong ngân sách sang quỹ ngoài ngân sách để tránh phải
phân chia với Trung ương.
Cuối những năm 1990 và bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, chính sách
tài khóa của Trung Quốc tuy đã có những thay đổi đáng kể và thu được kết quả tích
cực, song không phải không có vấn đề còn tồn tại. Mức độ nợ của tài chính nhà nước
tăng nhanh, từ 20% năm 1995, lên 29,7% năm 1998 và 30,6% năm 1999; đối với
NSTW thì tỷ trọng nợ gia tăng còn cao hơn, năm 1994 là trên 50%; năm 1998 đạt
71,1%. Tỷ lệ trả nợ từ NSNN cũng tăng mạnh, tỷ lệ trả nợ của NSNN và NSTW năm
1995 tương ứng là 14,1% và 27,1% thì tới năm 1998 hai chỉ số này đã là 23,8% và
48,1%.
- Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc quá mức vào đầu tư của Nhà nước, đầu tư của
xã hội tuy được khôi phục nhưng với tốc độ chậm và yếu, đe dọa cơ sở tăng trưởng
bền vững trong tương lai. Nếu thời kỳ 1993 - 1997 đầu tư mới tăng của xã hội chi phụ

thuộc khoảng 40 - 45% đầu tư nhà nước thì năm 1999 chỉ số này đã là 90%
Thành công trong cải cách mở cửa của Trung Quốc là to lớn, song họ cũng phải
trả giá không nhỏ, mà một trong số đó là sự phân hóa ngày càng nghiêm trọng (hai cực
Đông – Tây, giữa giàu – nghèo, thành thị – nông thôn). Sự phân hóa này chẳng những
không mất đi cùng với phát triển kinh tế, mà dường như ngày càng sâu sắc, gay gắt
hơn. Đây là điều chúng ta nên suy ngẫm khi sử dụng tài chính nhà nước với tư cách là
một trong các công cụ chủ yếu định hướng phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn
tới
1.2. Chính sách tiền tệ
1.2.1. Cung ứng tiền tệ
Trong những năm qua, với mục tiêu theo đuổi một mức lạm phát thấp và ổn định,
Trung Quốc kiên trì thực hiện điều tiết mức cung tiền hẹp.

40
35
30
25
20
15
10
5

2003

2002

2001

2000


1999

1998

1997

1996

14

1995

1994

1993

1992

1991

0
1990

%

Biểu đồ 3: Biến động lượng tiền mở rộng M2 (1990 – 2003)


Năm 1993, mức cung tiền tăng lên đột ngột (khoảng 35%), dẫn đến lạm phát
Trung Quốc tăng lên 24%. Liên tục các năm sau đó, Chính phủ phải áp dụng các biện

pháp giảm mạnh mức tăng cung tiền M2, năm 1994, 1995 tương ứng mức cung tiền
chỉ tăng thêm 261,61 tỷ NDT và 183,53 tỷ USD. Trong những năm khủng hoảng tiền
tệ châu Á, chính việc thắt chặt mức cung tiền tệ, tốc độ tăng giữ mức xấp xỉ 15% trong
năm 1998, 1999 đã giúp Trung Quốc hạn chế tối đa tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng này. Lượng cung tiền giảm thấp nhất vào năm 2000 (tăng khoảng 12%). Song
giai đoạn này lượng cung tiền biến động đột ngột, năm 2001, lượng M2 tăng lên, tăng
trưởng tiền tệ lên trên 18%; năm 2002 lại giảm xuống chưa đến 17%; năm 2003 cung
ứng tiền tệ lại tăng lên mạnh, tốc độ tăng là 20%.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tăng cung tiền lớn trong giai đoạn này của Trung
Quốc. Trước tiên, do nền kinh tế tăng trưởng quá nóng, đặc biệt là tăng đầu tư vào đầu
tư bất động sản, đầu tư tài sản cố định dẫn đến vay tín dụng tăng quá nhanh. Thứ hai,
nguyên nhân do chính sách tăng dự trữ ngoại hối nhằm đảm bảo an toàn cán cân thanh
toán của Chính phủ, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tính trung bình mỗi ngày mua
vào 600 triệu USD, tương đương 5 tỷ NDT đưa ra ngoài thị trường.
1.2.2. Chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất của Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, trở thành một công cụ
điều tiết vĩ mô nền kinh tế một cách hữu hiệu, đặc biệt từ giai đoạn khủng hoảng tiền
tệ châu Á đến nay.
Thúc đẩy cải cách theo hướng thị trường hóa lãi suất, xây dựng chế độ lãi suất thị
trường lấy lãi suất của Ngân hàng Nhân dân làm cơ sở, điều chỉnh theo lãi suất thị
trường, lấy quan hệ cung cầu quyết định lãi suất tiền gửi. Từ tháng 1 đến tháng 12 năm
1998, Trung Quốc liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền cho vay và tiền gửi ngân hàng bằng
NDT. Kết quả của chính sách này đã tạo điều kiện cho Trung Quốc giảm được 263 tỷ
NDT nợ lãi của các doanh nghiệp. Đồng thời đây cũng là biện pháp kích thích sản
xuất, tiêu dùng và tăng lượng tiền mặt trong lưu thông, góp phần ổn định tiền tệ. Đồng
thời với điều chỉnh lãi suất đồng nội tệ, Trung Quốc cũng đã liên tục hạ lãi suất đối với
các đồng ngoại tệ, từ mức 5%/năm vào tháng 5 năm 1998 xuống còn 3,75%/năm vào
tháng 12/ 1998. Chính sách hạ lãi suất ngoại tệ đã giúp cho hệ thống ngân hàng Trung
Quốc vượt qua được khó khăn do ứ đọng vốn ngoại tệ gây ra, mặt khác, Chính phủ
Trung Quốc còn thực hiện các biện pháp cải cách tài chính khác, như chính sách thuế,

chính sách chi tiêu vay nợ, chính sách chỉnh đốn trật tự tài chính.
1.2.3. Tín dụng ngân hàng
Tình trạng các khoản vay ngân hàng tăng nhanh, kéo theo nợ xấu của ngân hàng
gia tăng trong những năm vừa qua tại Trung Quốc là một trong những nguyên nhân
chính gây ra sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế nước này. Cụ thể, trong giai
15


đoạn 1998 – 2002, số dư các khoản vay tăng trung bình hàng năm là 1,1 – 1,9 nghìn tỷ
NDT; năm 2003 tăng đột ngột 3 nghìn tỷ NDT, tương đương 24% GDP; chỉ tính riêng
trong nửa đầu năm 2006, lượng cho vay tăng mới đã là 1.783,4 tỷ NDT, đạt hơn 70%
kế hoạch cả năm. Sự bùng nổ tín dụng gần đây khiến cho hệ thống ngân hàng Trung
Quốc đang phải đối diện với nhiều yếu tố rủi ro mà nghiêm trọng là tỷ lệ nợ xấu đã lên
đến 30% nợ vay. Nguyên nhân là do cơ cấu cho vay bất hợp lý, các khoản cho vay
trung dài hạn chủ yếu đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư bất động sản, khoản vay tiêu
dùng cá nhân tăng chậm. Thêm vào đó việc ngân hàng thả nổi cho vay tín dụng, khiến
đầu tư tài sản cố định tăng trở lại, đầu tư chậm và khó thu hồi gia tăng. Tính đến cuối
quý I/2006, số dư nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng trong nước là 1.312,47 tỷ NDT,
trong đó tỷ lệ nợ xấu là 8,25%, số dư nợ xấu tổn thất (khó đòi) là 480,82 tỷ NDT,
chiếm 36,6% tổng số dư nợ xấu.
Để giải quyết tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng, đặc biệt ở các ngân hàng quốc
doanh, Nhà nước lại luôn tìm cách “cứu trợ” tài chính cho các ngân hàng này và coi
đây là một biện pháp hữu hiệu để điều tiết thị trường (năm 2003, đã bổ sung vốn cho
hai ngân hàng thương mại quốc doanh 45 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối). Dẫn đến sự
thiếu lành mạnh trong thị trường tài chính, cản trở hoạt động hiệu quả của toàn hệ
thống ngân hàng, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Để áp ứng yêu cầu mở cửa, Trung
Quốc cần khắc phục “điểm yếu” này vì một hệ thống tài chính tiền tệ ổn định là điều
kiện tiên quyết giúp nền kinh tế tránh được những cú sốc từ bên ngoài khi hội nhập sâu
hơn vào nền kinh tế quốc tế. Cải cách hệ thống ngân hàng là một công việc quan trọng
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tại Trung Quốc, trong đó vấn đề then chốt

là nâng cao hiệu quả của quá trình phân phối tín dụng.
1.3. Chính sách tỷ giá
Thực hiện chính sách tỷ giá đã nới lỏng dần dần và cải cách từng bước qua từng
giai đoạn, từ năm 1986 đến nay, tỷ giá đồng nhân dân tệ so với đôla Mỹ liên tục được
nới lỏng đã tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu, cụ thể từ 2,8 RMB/USD lên 4,72
RMB/USD năm 1989; 5,7 RMB/USD năm 1993 và giữ ở mức ổn định khoảng trên 8
RMB/USD. Tiếp theo đó, Trung Quốc chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ ổn định,
lành mạnh, tiếp tục các biện pháp giữ ổn định đồng NDT. Trong suốt cả năm 1998,
đồng NDT luôn ổn định ở mức 8,27 NDT/USD. Chính sách ổn định đồng nhân dân tệ
của Trung Quốc không chỉ giảm bớt tổn thất cho nền kinh tế Trung Quốc mà còn giúp
ổn định thị trường các nước Đông Nam Á trong giai đoạn khủng hoảng tài chính – tiền
tệ. Song tỷ giá đồng nhân dân tệ được ấn định thực tế là thấp hơn tỷ giá thực trung
bình (REER), về thực chất Trung Quốc áp dụng chính sách hạ giá thấp đồng NDT so
với các đồng khác. Với chính sách này, Trung Quốc đã kích thích xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu, cán cân thương mại của Trung Quốc liên tục thặng dư trong một thời gian
dài. Từ năm 1994 – 1997, giá trị tài khoản vãng lai của Trung Quốc tăng gấp hơn 5
lần. Giai đoạn năm 1998 – 200, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
16


châu Á, đồng thời do sự tăng nhanh nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị nên giá trị tài
khoản vãng lai giảm nhẹ, song vẫn duy trì ở trạng thái thặng dư. Đến năm 2002, giá trị
tài khoản vãng lai lại tăng lên gấp 2 lần so với năm 2001 và liên tục tăng cho đến nay.
Biểu đồ 4: Cán cân vốn và cán cân vãng lai của Trung Quốc 1994 - 2003

60
50

Ty USD


40
30
20
10
0
1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

-10

cán cân vôn

cán cân vãng lai


Ngoài ra, đồng nội tệ định giá thấp cũng giúp cán cân vốn của Trung Quốc được
cải thiện đáng kể trong thời gian qua. Do với tỷ giá thấp giúp hàng hóa của nước này
trở lên rẻ hơn ở nước ngoài, đây trở thành một nhân tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài chọn Trung Quốc như “bệ phóng” cho xuất khẩu. Vốn đầu tư nước ngoài đổ ào
ạt vào các ngành hàng xuất khẩu, cụ thể, vốn đầu tư FDI vào Trung Quốc năm 2002
-2003 đạt mức 50 tỷ USD; năm 2004 tăng lên 61 tỷ USD. Trung Quốc trở thành nước
thu hút vốn FDI lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ và là nước thu hút FDI lớn nhất trong
số các nước đang phát triển, chiếm 25 – 30% tổng lượng vốn vào các nước này và tới
60% lượng vốn vào các nền kinh tế đang phát triển của châu Á.
Tuy nhiên, chính sách tỷ giá ổn định của Trung Quốc ngày càng bộc lộ những tác
độ tiêu cực trong 3 năm trở lại đây. Trên thực tế, đồng NDT được định giá quá thấp so
với các đồng tiền khác đang làm tăng trưởng quá mức tín dụng cho vay của các ngân
hàng, gây khó khăn trong việc hạn chế tình trạng phát triển quá nóng của nền kinh tế,
làm tăng giá hàng nhập khẩu gây ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng trong nước.
Đồng thời làm gia tăng sự phản đối từ các nước khác đặc biệt là Mỹ, châu Âu và Nhật
Bản. Trước bức xúc đó, ngày 21/7/2005, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố
nâng giá đồng NDT từ mức 8,277 NDT/USD lên 8,11NDT/USD, tỷ lệ nâng giá là
khoảng 2% và về lâu dài sẽ tăng giá đồng NDT lên 15 – 20%. Việc định giá lại đồng
NDT có tác động tích cực trong việc kiềm chế lạm phát, hạn chế tăng tín dụng, thúc
đẩy quá trình cải cách ngân hàng, tạo một thị trường tài chính ổn định và lành mạnh,
tiền đề cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Mặt khác, giúp Trung Quốc giảm sức ép từ
phía các đối tác như Nhật, Mỹ và châu Âu.
17


Dự trữ ngoại hối
Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc trong hơn một thập kỷ qua tăng mạnh. Từ mức
thấp hơn 50 tỷ USD trong suốt giai đoạn 1990 – 1993 lên tới mức 609,9 tỷ USD năm
2004, tương đương với 40% GDP của Trung Quốc trong năm này; năm 2005 đã tăng

thêm 208,9 tỉ USD; sáu tháng đầu năm 2006, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã đạt
941,1 tỉ USD và Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để trở thành nước có dự trữ ngoại tệ
lớn nhất thế giới.
Trong đó thặng dư cán cân vãng lai và luồng vốn FDI khổng lồ chính là những
nhân tố đống góp quan trọng cho dự trữ ngoại hối của Trung Quốc. Lượng dự trữ
ngoại hối lớn giúp trang trải cho lượng nhập khẩu hớn của nước này. Lượng dự trữ
năm 2004 tương đương với tổng giá trị nhập khẩu trong 53 tuần và khoảng 43 tuần
nhập khẩu trong năm 2005. Đồng thời dự trữ cao sẽ đảm bảo một cơ cấu nợ nước
ngoài hợp lý. Hiện nay, dự trữ Trung Quốc nhiều hơn 10 lần so với tổng các khoản nợ
nước ngoài ngắn hạn của nước này. Lượng dự trữ ngoại hối lớn hiện nay của Trung
Quốc có thể được sử dụng để cứu trợ tài chính cho hệ thống ngân hàng khi cần thiết
nhằm ổn định thị trường tài chính.
2. Công tác phòng chống tham nhũng tại Trung Quốc
Tuy chỉ số nhận biết tham nhũng (CPI) của Trung Quốc không cao, đạt 3,4 điểm
(2004), song Trung Quốc được đánh giá là một trong những nước đã có những cố gắng
và thành công bước đầu trong công tác phòng, chống tham nhũng. Sau đây chúng ta
không đi vào phân tích thực trạng tham nhũng của Trung Quốc, mà cố gắng tìm hiểu
những giải pháp mà Trung Quốc đã thực hiện trong công cuộc phòng chống tham
nhũng, qua đó nhằm rút ra bài học bổ ích cho công tác chống tham nhũng của Việt
Nam.
2.1. Nhóm giải pháp phòng ngừa
- Chú trọng công tác giáo dục con người. Trong công tác phòng chống tham
nhũng, Trung Quốc xác định giáo dục đạo đức cho công chức và xây dựng đội ngũ
công chức trong sạch liêm khiết là biện pháp quan trọng đầu tiên để hạn chế tham
nhũng. Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đã ban hành các văn bản quy định về
giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính trong Đảng và Nhà nước. Đồng
thời tiến hành tuyên truyền, giáo dục cho người dân nhận diện được các hành vi tham
nhũng, có thái độ căm ghét và tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tạo ra
môi trường xã hội chống tham nhũng. Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
còn ban hành một hướng dẫn để thành lập cơ chế hoạt động chống tham nhũng và

khẳng định rằng giáo dục chống tham nhũng cần được thực hiện trên qui mô “toàn
Đảng” và “toàn xã hội”, kể cả ở trẻ em. Chương trình giáo dục chống tham nhũng ở
cấp tiểu học và trung học được đưa vào giảng dạy đầu tiên tại Hàng Châu từ năm

18


2005, sau đó lan rộng ra các tỉnh thành khác như Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiên Tân,
Hồ Bắc...
- Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động mua sắm tài sản
công của Nhà nước. Trung Quốc thành lập 4 trung tâm giao dịch quốc gia để thực hiện
các hoạt động đấu thầu xây dựng, mua bán đất đai, mua sắm tài sản công...
- Phòng ngừa sự xung đột giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Ban hành các quy
định làm cho công chức không có cơ hội lợi dụng vị trí công tác của mình nhằm thu
lợi riêng gây thiệt hại đến lợi ích chung; xây dựng và thực hiện quy chế tuyển dụng, đề
bạt cán bộ công chức công khai dân chủ. Trung Quốc quy định: cán bộ khi làm chức
vụ lãnh đạo hoặc nghỉ hưu, thì trong vòng 3 năm sau đó, không được kinh doanh ở
những lĩnh vực có liên quan đến công việc trước đây mình phụ trách; vợ (hoặc chồng),
con cán bộ lãnh đạo không được kinh doanh ở các lĩnh vực do chồng (hoặc vợ), cha
mẹ mình quản lý. Từ năm 1997, Trung Quốc đã giải tán các cơ sở kinh doanh trong
công an, quân đội, hải quan và cơ quan chấp pháp, nhằm tránh lợi dụng quyền chức để
tham nhũng.
- Quy định những điều công chức không được làm. Trung Quốc có Luật Giám sát
hành chính để giám sát công chức và đề ra “90 điều cấm” đối với cán bộ đảng viên.
Ngày 31/12/2003, Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành Điều lệ Giám sát nội bộ và
Điều lệ Xử lý kỷ luật của Đảng, trong đó xác định đối tượng giám sát trọng điểm là cơ
quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo các cấp đặc biệt là người phụ trách của ban lãnh đạo.
- Quy định về việc kê khai tài sản của công chức. Đa số các nước quy định công
chức phải kê khai tài sản, nhất là đối với số công chức có vai trò lãnh đạo, quản lý. Có
nước yêu cầu kê khai trước khi được tuyển dụng, đề bạt hoặc bầu cử nhưng có nước

lại yêu cầu kê khai sau khi được tuyển dụng, đề bạt, bầu cử... Nhiều nước yêu cầu kê
khai bổ sung hàng năm và công bố công khai kết quả kê khai tài sản của công chức
cho người dân biết.
Tại Trung Quốc, mỗi năm 2 lần công chức phải kê khai tài sản. Cán bộ lãnh đạo
phải kê khai rõ các khoản như: tiền tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, đồ dùng có giá trị
trên 10.000 NDT (khoảng 19 - 20 triệu đồng Việt Nam), ô tô, nhà riêng, đất đai, tranh
cổ quý hiếm... Uỷ ban Kiểm tra kỷ luật của Đảng và Bộ Giám sát hành chính của
Chính phủ theo dõi, giám sát việc kê khai và xem xét xử lý những trường hợp có tài
sản bất minh. Công chức không giải thích được nguồn gốc tài sản của mình thì bị coi
là tham ô. Điều 395, Bộ luật Hình sự Trung Quốc quy định: “Bất cứ công chức nào có
tài sản vượt quá mức thu nhập và tổng số lương chênh lệch quá lớn thì bắt buộc phải
giải trình nguồn gốc của tài sản. Nếu công chức đó không chứng minh được tài sản đó
là hợp pháp thì sẽ bị kết án 5 năm tù giam và phần tài sản vượt quá mức thu nhập sẽ bị
tịch thu”.
2.2. Nhóm giải pháp xử lý tham nhũng
19


a. Các biện pháp nhằm phát hiện tham nhũng
Muốn xử lý được tham nhũng thì trước hết phải phát hiện được hành vi tham
nhũng. Phần lớn những người thực hiện hành vi tham nhũng là những người có trình
độ cao, có hiểu biết về pháp luật và có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn. Vì vậy, phát
hiện ra hành vi tham nhũng là việc làm rất khó khăn. Khuyến khích sự tham gia và
phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội và các phương
tiện thông tin đại chúng trong việc phát hiện, tố giác các hành vi tham nhũng đang là
biện pháp nhằm phát hiện tham nhũng hữu hiệu nhất. Theo một tài liệu của Uỷ ban
Kiểm tra kỷ luật Trung Quốc thì những năm gần đây, 80% các vụ án lớn ở nước này
được xử lý là do nhân dân tố cáo. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật Trung Quốc chưa
hoàn thiện, người tố cáo còn bị đe dọa, do đó Trung Quốc cho phép người tố cáo được
giấu tên và chấp nhận thư nặc danh, tiến hành xem xét đơn thư tố cáo nặc danh để phát

hiện tham nhũng. Trong thực tế, Trung Quốc có khoảng 60% đơn thư tố cáo là thư nặc
danh và trong số đó có rất nhiều thông tin chính xác về tham nhũng.
Để chống tham nhũng, cuối tháng 12/2005 Chính phủ đã thiết lập trang Web
riêng. Người dân có thể gửi báo cáo về những hành vi tham ô, nhũng nhiễu… của các
quan chức và đảng viên Đảng Cộng sản. Trang Web này sẽ tiếp nhận các báo cáo về
các nhân viên Chính phủ và các đảng viên vi phạm luật pháp; chỉ điểm cho Chính phủ
và đảng về những người có hành vi ăn hối lộ, tham ô…
b. Các biện pháp xử lý tham nhũng
Các nước trên thế giới đều coi tham nhũng là tội phạm hình sự và quy định chế
tài nghiêm khắc để xử lý loại tội phạm này nhằm làm cho công chức “không dám tham
nhũng”. Trong bộ luật hình sự của hầu hết các nước đều có một chương riêng quy định
về tội tham nhũng, trong đó quy định rõ những hành vi được coi là tham nhũng và
hình phạt tương xứng với những hành vi ấy. Trung Quốc ban hành Luật Chống hối lộ
năm 1988 và Luật Chống tham nhũng năm 1997.
IV. PHÚC LỢI XÃ HỘI, CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO
1. Phúc lợi xã hội
Liên tục trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã vươn lên vị trí hàng đầu thế giới
về tỷ lệ tăng trưởng cao, kéo theo đó là sự phát triển về mọi mặt đời sống xã hội của
nước này. Thông qua các chương trình hỗ trợ của Chính phủ, cuộc sống của người dân
Trung Quốc đã được nâng cao cả về lượng và chất. Giá trị HDI của Trung Quốc liên
tục được cải thiện trong những năm qua. Năm 2003 giá trị HDI là 0,755 tương ứng
với vi trí 85/177 trong bảng xếp hạng HDI, tăng 10 bậc so với năm 2002. Giá trị HDI
tăng lên do giá trị các chỉ số thành phần (chỉ số giáo dục, chỉ số tuổi thọ và chỉ số kinh
tế) đều có sự cải thiện đáng kể.
20


Năm 1995, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là 2.653 USD, rút ngắn
khoảng cách so với GDP bình quân đầu người của châu Âu xuống còn 5,3 lần, so với

Mỹ còn 8,8 lần, so với Nhật Bản tăng lên bằng 7,4 lần, so với GDP bình quân đầu
người trên thế giới giảm từ 4,2 lần năm 1952 còn có 2 lần. Thu nhập bình quân đầu
người tăng lên đã giúp làm tăng giá trị chỉ số kinh tế trong điểm số HDI của Trung
Quốc.
Chỉ số giáo dục của Trung Quốc được cải thiện nhờ tăng cường đầu tư cho phát
triển nguồn vốn con người - một nhiệm vụ được chính phủ Trung Quốc đang hết sức
coi trọng. Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh cơ cấu giáo dục theo hướng tăng cường
giáo dục cơ sở, trước mắt về cơ bản xóa bỏ nạn mù chữ. Nhờ vậy mà tỷ lệ phổ cập
giáo dục tiểu học của Trung Quốc đạt 94,6% vào năm 2004 và tỷ lệ biết chữ của người
lớn là 91% ( Theo B¸o c¸o gi¸m s¸t gi¸o dôc toµn cÇu 2005 cña UNESCO) .
Hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt ở các thành phố của Trung Quốc đã được cải
thiện đáng kể. Năm 1999, Trung Quốc đã chi khoảng 554 triệu USD về việc đảm bảo
cuộc sống cơ bản cho người nghèo đô thị, đây là mức chi lớn nhất từ trước đến nay về
vấn đề này. Cho đến đầu năm 2002 đã có khoảng 13 triệu trong gần 20 triệu người
nghèo ở các đô thị Trung Quốc được hưởng trợ cấp từ chương trình này, đa số những
người thất nghiệp, cán bộ hưu trí và các gia đình có thu nhập thấp, tăng 76% so với
năm trước. Hệ thống này cho đến nay đã được thực hiện ở các khu đô thị nghèo ở Bắc
Kinh, Giang Tô, Triết Giang và Quảng Đông.
Từ giữa những năm 1990, chế độ lương hưu và bảo hiểm xã hội ở Trung Quốc đã
có sự thay đổi cơ bản, theo đó bảo hiểm hưu trí sẽ do cả người lao động và chủ doanh
nghiệp đóng góp. Đến cuối năm 1996, việc trả lương hưu cho tất cả các xí nghiệp nhà
nước bắt đầu được chỉ đạo thông qua chế độ bảo hiểm xã hội chung ở cấp thành phố
hay thị trấn. Công nhân các xí nghiệp tập thể ở khoảng 2000 thành phố và thị trấn
được hưởng lương hưu theo sự phân cấp mới này. Trong năm đó, mạng lưới này đã chi
trả tổng số lương hưu lên tới 103,2 tỷ NDT, tương đương 12 tỷ USD. Ở Trung Quốc
hiện nay, ngày càng có nhiều xí nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước tham gia vào
mạng lưới bảo hiểm xã hội. Cho đến cuối năm 1997, mạng lưới bảo hiểm xã hội này
đã được thực hiện đối với 87,58 triệu công nhân và 23,58 triệu người nghỉ hưu
Tuy nhiên, Chính phủ Trung Quốc đang còn nợ lương hưu rất lớn và có lẽ số nợ
còn lớn hơn nhiều, cả về tổng nợ tổng số tiền và tổng số người bị nợ lương hưu, khi

tốc độ già đi của tháp dân số trở nên quá nhanh. Hiện tại, khi chỉ có 7% dân số trên 65
tuổi, thì trong đó người về hưu chỉ có khoảng 38 - 40 triệu người được nhận hưu bổng
thường xuyên. Số còn lại bị nợ và phần lớn bị biến thành trái phiếu với số tiền tương
đương khoảng 500 tỷ USD. Nhưng đến năm 2020, khi có tới 24% dân số trên 65 tuổi
thì vẫn đề sẽ phức tạp hơn nhiều. Tờ China Daily nhận xét rằng, Trung Quốc sẽ già đi
trước khi trở nên giàu có bởi vì khi Nhật Bản có tỉ lệ số dân già tương đương với của
Trung Quốc vào năm 2000 thì GDP bình quân của họ cao gấp 30 lần Trung Quốc.
21


2. Công bằng xã hội
2.1. Bất bình đẳng trong thu nhập
(Sử dụng tư liệu bài viết “Những vấn đề nan giải trong phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc hiện
nay”, Thông tin chọn lọc phục vụ lãnh đạo, số 5 – tháng 3/2006, Viện Khoa học tài chính)

Chính bất bình đẳng trong thu nhập gia tăng dẫn đến khoảng cách giàu nghèo,
chênh lệch giữa thành thị và nông thôn ngày càng rộng ra. Sau 7 năm (1997 đến 2003),
thu nhập đầu người của nông dân đã tăng, đạt 695,9 NDT (84 USD) nhưng chỉ gần
bằng 1/5 mức gia tăng thu nhập người dân thành phố. Nhìn chung hàng năm, thu nhập
của người dân thành phố gia tăng nhanh hơn 2 lần so với nông dân và độ dãn cách
giữa thu nhập của người dân thành thị và nông dân ngày một gia tăng. Vào những năm
1980, tương quan đó là 1,8:1; trong thập kỷ 1990 là 2,5:1; trong năm 2003 là 3,2:1.
Nếu tính đến việc người nông dân còn phải nộp thuế và tự chịu phí tổn mua sắm và
khấu hao tư liệu sản xuất, thì thực sự mức chênh lệch kia sẽ còn đạt con số là 5:1 hoặc
6:1. Không những thế, người dân thành thị được bảo đảm xã hội, dịch vụ y tế công
cộng, được nhà nước trợ cấp nhà ở và được hưởng nhiều ưu đãi và phúc lợi công cộng
khác (Sử dụng tư liệu bài viết “Những vấn đề nan giải trong phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc hiện
nay”, Thông tin chọn lọc phục vụ lãnh đạo, số 5 – tháng 3/2006, Viện Khoa học tài chính) . Báo cáo mới
nhất của Ủy ban Cải cách và Phát triển Trung Quốc cho thấy, 20% dân cư nghèo nhất
ở đô thị có thu nhập thấp chỉ bằng 2,75% tổng thu nhập tại các thành phố đó, và chỉ

bằng 4,6% tổng thu nhập của 20% người giàu nhất ở Trung Quốc. Chênh lệch thu
nhập còn biểu hiện rõ giữa các nghề, chức vụ. Cho đến nay, Trung Quốc hiện nay vẫn
thiếu một cơ chế điều chỉnh thu nhập nhằm ngăn chặn tình trạng bất bình đẳng ngày
càng mở rộng.
Khoảng hơn một nửa nông dân Trung Quốc (hơn 390 triệu người) là quá nghèo
đến nỗi không có điều kiện chăm sóc bản thân. Có tới 40% đến 60% dân nông thôn bị
rơi vào cảnh nghèo túng sau khi mắc bệnh. Chi phí chữa bệnh trung bình ở khu vực
nông thôn là 2.236 NDT (khoảng 269 USD) một người. Trong khi đó, thu nhập bình
quân năm ở nông thôn chỉ khoảng 2622 NDT một hộ (điều tra năm 2003). Nghĩa là
nếu một người mắc bệnh, thì phải cần đến thu nhập của cả năm của cả gia đình để trả
viện phí. Hệ thống bảo hiểm y tế của Trung Quốc còn yếu trong khi giám sát của Nhà
nước lại quá kém cỏi.
Chính phủ Trung Quốc đã có những chính sách, biện pháp nhằm giảm bất bình
đẳng trong thu nhập, rút ngắn khoảng chênh lệch giữa thành thị - nông thôn, giữa
người giàu – người nghèo. Từ năm 2005, trong khu vực thành thị, Trung Quốc đã sửa
đổi ngưỡng nộp thuế thu nhập cá nhân từ 800 NDT lên 1.600 NDT, chính thức thực thi
từ năm 2006, tạo thêm nhiều tiền hơn cho người có thu nhập trung bình và thấp. Theo
kế hoạch, Trung Quốc sẽ chi tổng cộng 270 tỷ USD trong 5 năm tới để thực hiện
chương trình giáo dục bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 9 phổ thông, để nâng cao trình độ dân
22


trí nhất là ở nông thôn và vùng sâu. Trong lĩnh vực bảo hiểm y tế, Trung Quốc sẽ đưa
ra kế hoạch bảo hiểm y tế cho dân cư nông thôn đến năm 2010. Chính phủ đang phác
thảo kế hoạch thí điểm mỗi nông dân đóng góp 10 NDT/ năm (mức tối thiểu) nếu
muốn tham gia chương trình bảo hểm y tế trên toàn dân này.
2.1. Mất cân đối nam nữ và dân số già đi nhanh chóng
Hiện nay, dấn số Trung Quốc là hơn 1,3 tỷ người (dân nông thôn chiếm khoảng
60%) và có thể lên đến 1,5 tỷ người vào năm 2050, dân thành thị sẽ vào khoảng 1,1 tỷ
người. Nan giải làm đau đầu người Trung Quốc là việc hạn chế sinh đẻ có nhiều đóng

góp tích cực, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế xã hội
trong những thập kỷ qua, nhưng đến nay, khi thế hệ của chính sách “Mỗi gia đình chỉ
có 1 con” đến tuổi xây dựng gia đình thì cũng là lúc mất cân đối giữa nam và nữ của
Trung Quốc trở nên trầm trọng. Dự báo, đến năm 2020, Trung Quốc sẽ có khoảng 40
triệu đàn ông cô đơn, bởi lẽ nếu chỉ được phép sinh 1 con thì người Trung Quốc sẽ tìm
cách để sinh con trai.
Trung Quốc hiện đang là nước có số dân cao tuổi đông nhất thế giới. Theo tờ
China Daily, hiện Trung Quốc có 94 triệu người trên 65 tuổi, chiếm 7% dấn số. Trong
vòng 50 năm nữa, con số này sẽ vượt quá ngưỡng 400 triệu người và sẽ chiếm tới 24%
dân số. Mất cân đối nam – nữ và sự già đi nhanh chóng của tháp dân số Trung Quốc
đang đặt ra những thách thức đó, đòi hỏi Trung Quốc phải tìm được lối thoát cho chính
sách dân số gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội bện vững của đất nước.
3. Xóa đói giảm nghèo
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc, xóa đói giảm nghèo là
một mục tiêu ưu tiên. Từ đầu những năm 1990, TQ đã đưa ra nhiều giải pháp tích cực
để giải quyết vấn đề đói nghèo của dân cư. Năm 1994, Trung Quốc đề ra “Kế họach 87” nghĩa là trong vòng 8 năm thực hiện xóa nghèo cho 70 triệu người. Tháng 9 năm
1996, Hội nghị công tác đẩy mạnh chống đói nghèo của Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã nêu rõ “Dù nhiệm vụ gian khổ như thế nào, thì mục tiêu cuối thể kỷ
này phải giải quyết vần đề ăn no mặc ấm cho những người nghèo khổ ở nông thôn
nước ta cũng không được thay đổi”. Kết quả công tác chống đối nghèo của Trung
Quốc đã có những thành công nhất định.
Theo kết quả điều tra hàng năm của Tổng cục Thống kê Trung Quốc đều tiến
hành các nghiên cứa ngân sách của các gia đình nông dân, với chuẩn nghèo của quốc
gia là thu nhập bình quân đầu người ít hơn 4,1 NDT/ngày (0,5 USD), cho thấy tình
trạng nghèo đói của Trung Quốc đã được cải thiện qua các năm. Năm 1995 có 56,6%,
năm 2000 là 32,1%, năm 2001 là 30,2%, năm 2002 là 28,3%, năm 2003 là 26,5% số
hộ nghèo. Đối chiếu với chuẩn nghèo quốc tế, mức thu nhập đầu người thấp hơn 8,2
NDT/ngày (ít hơn 1USD/ngày) thì tỷ lệ hộ nghèo năm 1990 là hơn 90%, năm 2000 là

23



gần 74,9%, năm 2001 là 72,4%, năm 2002 là 69,8%, năm 2003 là 66,9% các hộ dân
nông thôn.
Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo ở khu vực nông thôn vẫn chưa được cải thiện
nhiều và có những dấu hiệu đáng báo động. Theo số liệu nghiên cứu lựa chọn của
Tổng cục Thống kê Trung Quốc, các năm 200-2002, chỉ có 56,4% số hộ nông dân có
thu nhập tăng lên, còn 1,6% số hộ không thay đổi thu nhập, nhưng có 42% số hộ bị
suy giảm thu nhập. Hiện Trung Quốc có gần 30 triệu nông dân đã không giải quyết
được “vấn đề cơm no , ấm áo”, còn 60 triệu người khác đang sống trong cảnh “điều
kiện không ổn định về no cơm ấm áo”. So với 250 triệu người bị đói ăn năm 1978 thì
đến nay như vậy là đã có tiến bộ nhất định, song từ đó đến nay đã hơn ¼ thế kỷ, Trung
Quốc vẫn còn 90 triệu người dân nông thôn đang chịu cảnh nghèo đói và bán nghèo
đói. Riêng năm 2003, lần đầu tiên sau nhiều năm cải cách, số người nghèo đói nhất ở
nông thôn không những đã không giảm bớt, mà lại còn tăng thêm 800 ngàn người
nghèo, tổng cộng có 30 triệu người có thu nhập bình quân ít hơn 637 NDT/năm (1,74
NDT/ngày) - mức thu nhập tối thiểu do Nhà nước quy định. “Dân nghèo có thu nhập
thấp” trong năm 2003 giảm bớt được đáng kể nhưng thu nhập bình quân năm của họ
không vượt quá 882 NDT/năm (2,42NDT/ngày). Tương quan giữa thu nhập tối thiểu
và trung bình đầu người do Nhà nước quy định trong nông nhiệp năm 1992 là ½,45
nhưng năm 2003 đã nâng thành 1/4,12. Đông thời, mức bảo đảm đời sống tối thiểu
giai đoạn tháng Giêng đến tháng Chín năm 2004 chỉ có 21,3 triệu hộ, tức gồm 44,5
triệu nhân khẩu nông dân nông nghiệp, đạt 11% cao hơn so với cùng kỳ năm 2003.
Trung Quốc buộc phải giải quyết những vấn đề nghiêm trọng hơn và quy mô hơn về
nghèo đói
Chính sách của Chính phủ trong công tác chống đói nghèo
Từ năm 1997, Quốc vụ viện Trung Quốc đã ký quyết định trên cơ sở giữ nguyên
các khoản tiền giúp xóa đói giảm nghèo, mỗi năm Trung ương sẽ tăng thêm 1,5 tỷ
NDT, đồng thời yêu cầu các địa phương phải bằng mọi cách tăng thêm đầu tư vào quỹ
này, quỹ địa phương phải cố gắng đạt từ 30 đến 60 % quỹ chống nghèo đói của Trung

ương. Chính phủ Trung Quốc còn huy động sự giúp đỡ của các tỉnh, thành phố giàu
có, phát đạt đối với các tỉnh nghèo, tổ chức thành các cặp tỉnh kết nghĩa để tiện giúp
đỡ, viện trợ, bổ sung cho nhau: như Bắc Kinh – Nội Mông, Hà Bắc – Quý châu, Giang
Tô – Quảng Tây… Bên cạnh đó, Trung Quốc còn tích cực đề nghị các tổ chức như
Liên Hợp Quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đầu tư giúp phát triển các
vùng đói nghèo.
Trong kế hoạch 5 năm tới Trung Quốc sẽ thiết lập một nền tẳng bền vững để xây
dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa. Để tăng thu nhập ở nông thôn, Chính phủ sẽ tăng trợ
cấp cho người nông dân, đồng thời kêu gọi khu vực công nghiệp nỗ lực hỗ trợ cho
nông nghiệp. Đầu tư cơ sở hạ tầng sẽ chuyển mạnh từ thành phố sang nông thôn; nếu
đất của nông dân bị trưng dụng cho mục đích phi nông nghiệp thì họ sẽ được đền bù
24


thỏa đáng. Thực hiện miễn thuế nông nghiệp, trợ cấp ngân sách, hỗ trợ và bảo đảm
kinh phí giáo dục nghĩa vụ của nông thôn, miền Trung và Tây sẽ được hưởng nhiều
hơn. Năm 2004 đã dành 18 tỷ USD cho Chương trình phát triển nông thôn. Năm 2005,
đã giúp được 7 tỷ NDT cho 34 triệu học sinh của các gia đình nông thôn có hoàn cảnh
khó khăn ở miền Tây được theo học, tiến hành việc bồi dưỡng nghề cho hơn 2,8 triệu
lao động nông thôn. Năm 2005 có 800 triệu nông dân được hưởng đãi ngộ miễn thuế
lên tới 23 tỷ 300 triệu NDT. Năm 2006 sẽ chi khoảng hơn 339,7 tỷ NDT ( tương
đương 43 tỷ USD) cho các khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, tăng hơn
14,8% so với năm 2005. Do đó nâng cao rõ rệt tính tích cực sản xuất của đông đảo
nông dân, thúc đẩy tăng sản lượng lương thực và tăng thu nhập cho nông dân. Cụ thể,
sản lượng đã tăng thêm 14 triệu tấn lương thực, thu nhập nông dân tăng thêm.
Cùng với việc kết hợp cải cách trong nông nghiệp, phát triển các doanh nghiệp
hương trấn, mở cửa và hội nhập kinh tế, khuyến khích sản xuất kinh doanh, nền kinh
tế Trung Quốc đem lại những lợi ích rõ rệt cho người nghèo.
Nhờ xử lý nhịp nhàng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phúc lợi xã hội và
xóa đói giảm nghèo mà Trung Quốc đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn

định, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, vị thế trên thế giới được
nâng cao, vươn lên tốp dẫn đầu các nước về tiềm lực phát triển kinh tế.

Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia
.

25


×