Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Vấn đề bảo vệ quyền con người của bị can

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.53 KB, 12 trang )

1

Nhóm 3 – K38G

Vấn đề bảo vệ quyền con người của bị can
trong hoạt động điều tra hình sự
Nhóm 3 – K38G

Q

ĐẶT VẤN ĐỀ

uyền con người là thành quả của quá trình đấu tranh, cải tạo xã hội của
toàn nhân loại. Một quốc gia có nền dân chủ tốt phải thực hiện tốt
những quyền công dân, quyền con người. Và đây là một trong những
mục đích mà tất cả nhà nước hướng đến. Chính vì vậy mà trong chỉ thị

12/TW của ban bí thư ngày 12/7/1992, Đảng ta đã khẳng định: “ Quyền con người
là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động
và các dân tộc áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm
chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của toàn nhân
loài’’. Bảo vệ quyền con người là việc làm chung của toàn thể nhân loại tùy vào
tình hình của mình mà mỗi quốc gia đưa ra các biện pháp khác nhau. Ở Việt Nam,
bảo vệ quyền con người gắn liền với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả mọi việc làm của nhà nước đều hướng tới
lợi ích chính đáng của nhân dân. Để bảo vệ quyền con người, nhà nước ta đã đưa ra
các biện pháp cụ thể và trong đó quan trọng nhất là cụ thể hóa các điều luật để bảo
vệ quyền con người. Ở mỗi ngành luật đều có các quy định để bảo vệ quyền con
người và phát luật về tố tụng hình sự cũng không phải là ngoại lệ. Quyền con
người trong tố tụng hình sự là một vấn đề nhạy cảm vì nó thường bị xâm phạm do
vô tình hoặc là vì cố ý. Bảo vệ quyền con người là vấn đề hết sức quan trọng.


Chính vì vậy trong quá trình thực hiện tố tụng hình sự và đặc biệt là quá trình điều


2

Nhóm 3 – K38G

tra hình sự phải chú ý và thực thi một cách nghiêm minh. Việc đánh giá và thực
hiện các quy định bảo vệ quyền con người của bị can trong quá trình điều tra hình
sự là một trong những nội dung cấp thiết.
Theo từ điển luật học: “Quyền con người là quyền của thành viên trong xã
hội loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và
năng lực của con người được thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia”. . Quyền con người không phải được ban hành, hay sáng lập ra của một
nhà nước riêng mà là quyền vốn có từ khi được sinh ra vì thế mà nó cần được thừa
nhận và bảo đảm thực hiện. Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật quốc tế như: Hiến chương liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người, Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị năm 1966, Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966... Ở Việt Nam, quyền con người
được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp, Bộ luật
dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, luật hôn nhân và
gia đình… Cụ thể, tại khoản 1 điều 14 hiến pháp 2013 quy định: “ Ở nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
hiến pháp và pháp luật’’
Theoquy định tại khỏa 1 điều 49 Bộ luật TTHS năm 2003: “Bị can là người
đã bị khởi tố về hình sự” và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can đối
với họ. Theo truyền thống suy nghĩ của đại bộ phận người trong xã hội, bị can là
những người đã vi phạm pháp luật và cần phải trừng phạt theo quy định. Tuy nhiên
trên phương diện của pháp luật thì chưa phải tội phạm bởi theo nguyên tắc được

quy định theo Bộ luật TTHS năm 2003 với nội dung sau: “ Không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực
pháp luật”. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố


3

Nhóm 3 – K38G

tụng đối với họ để xác định sự thật. Bên cạnh các nghĩa vụ, bị can còn được pháp
luật quy định cho các quyền tố tụng để họ có thể bảo vệ mình - bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình không bị xâm phạm. Cụ thể, các quyền đó quy định
tại khoản 2 điều 49 Bộ luật TTHS năm 2003 như sau: được biết mình bị khởi tố về
tội gì, được giả thích về quyền và nghĩa vụ, trình bày lời khai, đưa ra tài liệu đồ vật
yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của bộ luật này, tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa,
được nhận quyết định khởi tố, quyết định áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, bản kết luận điều tra, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản cáo trạng, quyết định truy tố, các quyết định
tố tụng khác theo quy định của bộ luật này, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của bộ luật này.
Trong hoạt động điều tra cần phải chú ý và thực hiện đúng pháp luật để bảo
vệ quyền con người của bị can. Bởi vì đây là hoạt động quan trọng nhưng nhạy
cảm của quá trình tố tụng hình sự. Quan trọng bởi vì đây là bước để gỡ các nứt thắt
trong một vụ án. Đây là bước làm rõ vấn đề và xác định một người có phạm tội hay
không? Nhạy cảm bởi vì xuất phát từ vai trò làm sáng tỏ vụ việc, nên khi đi sai
hướng nó sẽ ảnh hưởng tới cả một quá trình và kết quả sẽ sai. Cũng trong giai đoạn
này quyền con người của bị can hay bị xâm phạm ảnh hưởng rất lớn đến cả vật
chất và tinh thần của người đó. Đồng ý là bị can là người đang bị tình nghi và có
thể các quyền con người sẽ không được thực hiện đầy đủ. Bị can sẽ không được tự

do đi lại, không được làm một số việc, có thể bị truy nã khi bỏ trốn... nhưng xét
cho cùng thì các hạn chế này về quyền con người ở một góc độ nào đó là bị “ẩn” đi
chứ không phải bị tước đoạt đi. Bị “ ẩn” ở đây có nghĩa là tạm thời bị can không
thể thực hiện đầy đủ quyền con người của mình được vì để bảo đảm cho quá trình
làm sáng tỏ vụ án nhưng khi người đó được chứng minh là vô tộ thì quyền con


4

Nhóm 3 – K38G

người của người đó được thực hiện đầy đủ. Và nhà nước ban hành các quy định
pháp luật trong tố tụng hình sự, để các cơ quan điều tra bảo vệ và bảo đảm các
quyền con người chứ không phải là tước đoạt quyền con người trong một thời gian
và có thể là mãi mãi.
Trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và hoạt động điều tra nói riêng
bộ luật tố tụng hình sự đã quy định các biện pháp để bảo vệ quyền con người. Bộ
luật tố tụng hình sự 2003 quy định: “ công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản” hay “người bị hại, người làm
chứng, người tham gia tiến hành tố tụng khác cũng như người thân thích của họ
mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự nhân phẩm, tài sản
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cần thiết để
bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền con người
của bị can phải được thực hiện xuyên suốt trong tất cả các giai đoạn cảu quá trình
tố tụng.
Liệu quyền con người của bị can trên thực tế có được bảo đảm?
Ở nước ta hiện nay pháp luật quy định rất nhiều cơ quan điều tra. Các cơ
quan điều tra này thường hoạt động độc lập với nhau. Hoạt động điều tra đã đạt
được nhiều thành quả. Cùng với các bước phát triển của khoa học công nghệ và
trình độ nghiệp vụ mà các vụ án đa phần được làm sáng tỏ, quyền con người của bị

can được bảo đảm. Các điều tra viên đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để giải
quyết vụ án một cách khách quan, công bằng, toàn diện, đầy đủ để đi đến sự thật
của vụ án. Vai trò của điều tra viên trong hoạt động điều tra rất quan trọng vì các
điều tra viên là những người trực tiếp làm việc với bị can. Chính vì vậy mà việc
đào tạo trình độ chuyên môn, trình độ nghiệp vụ của các điều tra viên ngày càng
được chú trọng và không ngừng được nâng cao nên hoạt động điều tra có hiệu quả
hơn và quyền con người của bị can được bảo vệ. Tuy nhiên, bên cạnh các mặt đã


5

Nhóm 3 – K38G

đạt được thì việc bảo vệ quyền con người của bị can còn có nhiều bất cập. Tình
trạng xâm phạm quyền con người của bị can vẫn diễn ra trên thực tế.
1.

Xâm phạm quyền con người của bị can trong khi tạm giam:

Biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn rất ngiêm khắc, cách ly người
bị tam giam với xã hội bên ngoài, hạn chế quyền tự do thân thể và quyền cơ bản
của công dân nên thời hạn tạm giam được pháp luật quy định chặt chẽ. Nhưng trên
thực tế vẫn còn nhiều bất cập như việc quá hạn tạm giam vẫn còn chưa được khắc
phục; hạn chế quyền con người , không đối xử đúng theo pháp luật quy định. Tồn
tại nhiều trường hợp bị can tam giam phải ở một diện tích chật hẹp, ảnh hưởng trực
tiếp sức khỏe bị can. Hầu như trại tạm giam đều trong tình trạng quá tải, nhất là
trong những đợt cao điểm phòng chống trấn áp tội phạm, số người bị tam giam rất
lớn. Chưa kể tình trạng tạm giam chung giữa những người phạm tội lần đầu với
những người côn đồ hung hãn; người chưa thành niên với người thành niên.Tình
trạng người bị tạm giam chết hoặc tự tử còn xảy ra ở một số nhà tạm giam. Theo

khoản 2 Điều 303 BLTTHS 2003 quy định người tử đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ
bị tạm giam trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc phạm tội đặc biệt ngiêm trọng. Tuy nhiên trường hợp những những
người này phạm tội ngày gia tăng, các đối tượng chủ yếu phạm tội ít nghiêm trọng
được tại ngoại đã bỏ trốn nhiều lần và bị bắt theo lệnh truy nã nhưng không thể áp
dụng biện pháp tạm giam để điều tra.
2.

Xâm phạm quyền con người của bị can trong vấn đề hỏi cung:
Theo báo cáo của ủy ban tư pháp từ năm 2013 đến năm 2015, “ trong

219500 vụ án với hơn 338000 bị can bị khởi tố, điều tra, thì số vụ làm oan sai
người vô tội là

71 trường hợp. Giám sát cho thấy khởi tố, điều tra, đình chỉ điều

tra, đình chỉ vụ án do hành vi không cấu thành tội phạm, do miễn trách nhiệm hình


6

Nhóm 3 – K38G

sự có dấu hiệu làm oan người vô tội”. Oan sai - hậu quả của nhục hình, bức cung là
vấn đề xã hội luôn luôn nóng từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, để nhìn thẳng vào thực
tế, rút ra những bài học cần thiết, tìm những biện pháp thích hợp và hiệu quả chống
lại tình trạng này, thì dường như vẫn có sự dè dặt từ các cơ quan chức năng và cả
báo chí. Từ khi vụ án oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn bị phơi bày, thì vấn đề
này được đặt ra, cấp bách như phải hành động để bảo vệ chế độ. Như một hiệu
ứng, ông Nguyễn Sơn, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho biết: “Số vụ án

có tội danh dùng nhục hình, bức cung gia tăng trong thời gian gần đây. Nhục hình,
bức cung như tảng băng chìm, rất khó làm cho nó nổi lên để thấy rõ tầm vóc
khủng khiếp của nó. Điều đáng mừng là các cơ quan tố tụng và cả các cấp có
thẩm quyền cao đã không lảng tránh điều này và bước đầu có những đề xuất làm
giảm thiểu tình trạng tồi tệ này”.
Trong thời gian gần đây, có nhiều vụ chết người trong khi tạm giữ, tạm
giam. Nhiều vụ việc gây bức xúc dư luận như: vụ công an xã đánh chết người tại
Kim Nỗ (Đông Anh- Hà Nội), rồi vụ xảy ra tại Đắk Nông, đến nam sinh 14 tuổi
chết sau khi làm việc với công an xã Vạn Long (Vạn Ninh- Khánh Hòa)… Trên địa
bàn Bắc Giang cũng xảy ra một vụ oan sai tày đình khác. Ông Hàn Đức Long, sinh
năm 1959, bị khép tội hiếp dâm và giết chết một bé gái 5 tuổi và nhận 2 bản án tử
hình từ cấp sơ thẩm đến phúc thẩm. Tử tù này bị bắt chỉ sau một lá đơn tố cáo sau
khi án mạng đã xảy ra nhiều tháng của người có mâu thuẫn đất đai. Bị nhục hình,
bức cung, ông Long phải nhận là mình đã hiếp dâm và giết chết bé gái, thậm chí
còn hiếp dâm cả hai mẹ con nhà hàng xóm. Khi các bản án bị hủy để điều tra lại,
thì chính những người tố cáo lại xin rút đơn. Nạn nhân của việc dùng nhục hình,
bức cung này đủ để vẽ nên bức tranh khủng khiếp của “biện pháp nghiệp vụ” này:
Từ những người vô tội, không biết gì về án mạng xảy ra, nhưng tại hiện trường, họ


7

Nhóm 3 – K38G

đã được đạo diễn để diễn lại y như thật, thực hiện xuất sắc chỉ đạo diễn xuất, khai
báo tình tiết đúng với ý muốn của cán bộ điều tra.
3.

Hạn chế quyền con người từ quy định người bào chữa:


Trong quy định cuả bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa tham gia tố
tụng từ khi khởi tố bị can. Nhưng thực tế việc tham gia tố tụng của người bào chữa
sau khi có quyết định khởi tố bị can gặp nhiều khó khăn, nhiều trường hợp sau khi
ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra ra quyết định này cũng không giải
thích cho bị can biết quyền và nghĩa vụ của họ. Do đó, một số bị can không biết
mình có quyền nhờ luật sư ngay từ khi khởi tố mà họ tưởng khi ra tòa mới được
mời luật sư. Có những vụ án cần có người bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự thì người bào chữa nhận nhiệm vụ quá thờ ơ trong việc ngiên
cứu hồ sơ đến cả khi vụ án đưa ra xét xử, luật sư bỏ quên những tình tiết giảm nhẹ
của bị cáo nếu luật sư đưa ra những tình tiết này thì chắc chắn sẽ khoan hồng, nhân
đạo của pháp luật
Vậy nguyên nhân do đâu mà quyền con người của bị can chưa được
đảm bảo trong hoạt động điều tra hình sự?
Điều tra hình sự bên cạnh các hoạt động tìm sự thật từ thế giới khách quan
mà người phạm tội để lại thì còn có hoạt động tìm hiểu sự thật từ bị can như là lấy
lời khai, hỏi cung...Việc lấy lời khai, hỏi cung sẽ được diễn ra giữa cơ quan điều tra
và bị can. Chính trong giai đoạn này thường xuất hiện tình trạng ép cung, nhục
hình. Các cơ quan điều tra đôi khi tự gắn cho mình những quyền hành mà theo họ
là họ có thể làm những việc đó với bị can. Pháp luật quy định nhiều quyền cho cơ
quan điều tra còn các nghĩa vụ thì lại quy định một cách chung chung còn đối với
bị can thì quyền lợi lại được quy định thiếu cụ thể vì thế tạo nên “địa vị tố tụng
không phù hợp”. Người điều tra với tâm thế là người tìm sự thật đôi khi tự cho


8

Nhóm 3 – K38G

mình địa vị cao hơn bị can. Còn bị can, nếu không hoặc có thực hiện hành vi trái
pháp luật trên thì thường có tâm lý sợ sệt vì vậy mà khi bị xâm phạm về quyền con

người họ cũng không thể phản kháng được gì. Tâm lý người đang thực hiện quyền
lực nhà nước và tâm lý người bị tình nghi khi đặt trong hoàn cảnh nào đó thì sẽ chi
phối rất lớn tới hành động. Chưa kể khi bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý, vật
chất người điều tra rất dễ đi sai hướng trong hoạt động điều tra. Khi gặp áp lực
điều tra hay bị chi phối các yếu tố khác thì người điều tra thường nghiêng về
hướng áp đặt tội cho người bị can. Trong trường hợp này thì các điều tra viên đã
mất đi tính khách quan, công tâm trong công việc. Các quy định của pháp luật quy
định cơ quan điều tra không được để tình cảm ảnh hưởng trong quá trình điều tra,
nhưng trên thực tế việc điều tra của các điều tra viên vẫn bị chi phối bởi mặt tình
cảm.
Mặt khác, cơ chế giám sát hoạt động điều tra còn chưa có hiệu quả cao.
Cơ chế điều tra quy định còn chưa phù hợp. Ví dụ như cơ chế giám sát hoạt động
điều tra của viện kiểm sát mà trong khi đó viện kiểm sát cũng là một cơ quan điều
tra thì liệu việc giám sát có thực sự hiệu quả không? Cùng với đó cơ chế thanh tra,
kiểm tra chưa thực sự tốt. Việc giám sát chưa kịp thời, nhanh chóng. Các vụ việc
xảy ra trên thực tế gây hậu quả lớn thì các cơ quan mới vào cuộc. quyền con người
của bị can bị xâm phạm thì các cơ quan mới biết và đưa ra các biện pháp khắc
phục. Việc giám sát thường đi sau hành vi xâm phạm của các cơ quan điều tra nên
thường là ra các biện pháp khắc phục hơn là việc đề ra các biện pháp phòng ngừa.
Vì vậy để khắc phục các tồn tại, sai sót hiện nay và bảo vệ tuyệt đối quyền con
người của bị can trong điều tra hình sự cần:
1.

Hoàn thiện văn bản pháp luật

Hiện nay các văn bản quy định về việc bảo vệ quyền con người của bị can
đã được ban hành nhưng chưa cụ thể, phù hợp hơn. Cần bổ sung thêm các nguyên


9


Nhóm 3 – K38G

tắc, quy định liên quan tới quyền con người. Các quy định về trách nhiệm pháp lý
đối với các hành vi được làm hay không được làm cần chặt chẽ . Chế tài xử phạt
nếu có vi phạm phải nghiêm khắc hơn. Thủ tục khắc phục hậu quả cần phải rõ
ràng, hiệu quả. Pháp luật có quy định: “quyền khuyến nại quyết định, hành vi tố
tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” nhưng trên thực tế thì
việc thực hiện quyền này của bị can rất ít vì tâm lý sợ sệt của bị can. Ở một góc độ
nào đó mà bị can “sợ” cơ quan có thẩm quyền, sợ rắc rối, sợ liên quan nên khi có
các hành vi sai họ thường có xu hướng “cho xong” . Vì thế nên các cơ quan ban
hành pháp luật cần xem xét ban hành các quy định, biện pháp để khuyến khích bị
can thực hiên quyền và các cơ chế để giúp đỡ bị can về thủ tục thực hiện các quyền
đó. Xây dựng pháp luật cần gắn với thực tế và phải kịp thời chứ không phải cứ việc
đáng tiếc xảy ra rồi mới có luật điều chỉnh. Mặt khác, cần hoàn thiện các văn bản
liên quan tới các cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan hỗ trợ tư
pháp... Sự hoạt động hiệu quả, phối hợp ăn ý của các cơ quan này vừa giúp quá
trình tìm ra sự thật nhanh hơn vừa bảo vệ quyền con người của bị can tốt hơn. Cơ
chế giám sát hoạt động điều tra hình sự phải có hiệu quả chứ không phải là hình
thức. Vì thế mà vai trò của hoạt động ban hành pháp luật là vô cùng quan trọng.
Giải pháp trong thực hiện pháp luật
Trong quá trình điều tra hình sự thì vai trò của người tiến hành tố tụng, cơ
2.

quan điều tra trong việc bảo vệ quyền con người của bị can là rất lớn. vì cơ quan
điều tra là chủ thể tiếp xúc trực tiếp với bị can nên có khả năng tác động tới quyền
con người của bị can. Khi các cơ quan thực hiện tốt các quy định mà pháp luật đã
đề ra thì quyền con người của bị can được bảo vệ ngược lại thì quyền con người
của bị can rất dễ bị xâm phạm. Phải giám sát để trách các hiện tượng hống hách,
cửa quyền, tắc trách của cơ quan có thẩm quyền. Để làm được như vậy thì cơ quan

điều tra phải vừa có trình độ chuyên môn cao, nghiệp vụ cao vừa vững vàng tâm
lý, tư tưởng xây dựng lối làm việc khoa học, hiệu quả... Mặt khác hoạt động điều


10

Nhóm 3 – K38G

tra là hoạt động vất vả, nguy hiểm nên ngoài phát triển chuyên môn, nghiệp vụ cần
xem xét cơ chế lương bậc, các khoản phụ cấp...để tạo điều kiện thuận lợi cho cán
3.

bộ điều tra.
Nâng cao trình độ nhận thức pháp luật
- Đối với nhân dân nói chung và bị can nói riêng
Để bảo vệ quyền con người của bị can thì trước hết phải cho bị can biết
mình có những quyền gì và cách bảo vệ như thế nào. Hiện nay việc quy định các
quyền của bị can là có nhưng không phải bị can nào cũng biết. một người không
thể bảo vệ quyền lợi của mình nếu chính người đó còn không biết mình có quyền
gì. Thực tế là hiểu biết pháp luật của người dân ta còn rất ít vì vậy việc nâng cao
trình độ pháp luật cần được chú trọng hơn nữa. Cơ chế hỗ trợ bị can chưa được
phát triển hơn. Một thực tế là hiện nay có tới 80% vụ án oan chưa có luật sư bào
chữa. Đây là một thực trạng đáng buồn và cần kịp thời khắc phục
- Đối với điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm
Thứ nhất, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp
vụ nhất là kỹ năng tố tụng cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩmphán,
Hội thẩm các Tòa án.
Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, chính sách pháp luật,
nhất là chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội, quan điểm bảo
đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cho cán bộ cơ

quan tiến hành tố tụng các cấp;
Thứ ba, cần phải có các quy định của pháp luật về trách nhiệm cá nhân
của người ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam, trong trường hợp vi phạm các quy

4.

định của pháp luật về bắt người, bắt người tùy tiện, oan sai, giam giữ trái pháp luật.
Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất cho nhà tạm giữ, trại tạm giam, các phương
tiện thông tin, liên lạc phục vụ cho công tác tạm giữ tạm giam
Cần bổ sung các trang thiết bị kỹ thuật nhằm đảm bảo tốt nhất công tác kiểm
tra, quản lý người bị tạm giữ, tạm giam tại các buồng giam giữ trongcác nhà tạm
giữ, trại tạm giam. Nhất là hệ thống camera để quan sát trong các buồng tạm giữ,


11

Nhóm 3 – K38G

tạm giam, kịp thời phát hiện và giải quyết các vấn đề đột xuất xảy ra như: tự tử,
đánh nhau, bỏ trốn, "thông cung". Đồng thời cần có kế hoạch và kịp thời triển khai
thực hiện việc sửa chữa hoặc xây mới đối với các nhà tạm giữ, trại tạm giam xuống
cấp, thường xuyên quá tải…
Một số giải pháp nêu ra trên đây cũng đã được luật hóa trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 như sự tham gia bào chữa sớm của luật sư, quyền im lặng, tiến
hành ghi âm, ghi hình trong khi hỏi cung… Tuy nhiên, Bộ luật mới nay chưa có
hiệu lực, nhưng cũng cho thấy được sự tiến bộ vượt bậc trong các quy định của
pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền bị can trong hoạt động điều tra hình
sự.

KẾT LUẬN:

Đề tài “ bảo vệ quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra hình sự”
là đề tài rất được nhiều người quan tâm nhưng vẫn rất ít người nghiên cứu chuyên
sâu vào vấn đề này. Với tất cả những kiến thức mà chúng em đã học, cùng với sự
tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu, chúng em muốn tìm hiểu sâu thêm vào vấn đề nhức
nhối này. Đây là một đề tài khá nhạy cảm và tương đối khó, chính vị vậy, bài làm
nhóm có thể vẫn có nhiều điều thiếu sót. Nhóm em hy vọng được cô cho nhận xét,
đánh giá, góp ý một cách thẳng thắn để giúp chúng em hoàn thiện kiến thức hơn.
Cảm ơn cô rất nhiều!


 HẾT

Nguồn tham khảo:
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Từ điển luật học
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Giáo trình luật tố tụng hình sự trường đại học luật Hà Nội
Tài liệu học tập môn tố tụng hình sự trường đại học luật Huế
Theo PGS. TS. TRẦN VĂN ĐỘ/ bảo vệ quyền con người của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư

7.


pháp.
Một số bài báo trên internet

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3 – K38 G
Bùi Thị Thu Hiền
2. Vũ Thị Thúy
3. Nguyễn Thị Hoài Linh
4. Võ Thị Khánh Lựu
5. Võ Văn Hải
6. Lê Thị Bé Anh
7. Võ Nguyễn Như Quỳnh
8. Hồ Thị Tuyết Nhi
9. Trương Thị Giang
10. Nguyễn Thị Thanh Nhàn
11. Trần Thị Mỹ Linh
1.



×