Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nghiên cứu dược liệu Hồng Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.56 KB, 16 trang )

Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

MỤC LỤC

1


Dược liệu Hồng hoa

1.

Nguyễn Dĩnh Khiêm

ĐẶT VẤN ĐỀ

Vấn đề kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại và hiện đại hóa y học cổ truyền là xu hướng
chung của thời đại.
Theo cách đánh giá của tổ chức y tế thế giới WHO, Việt Nam là nước là nước có bề dày truyền
thống phát triển y học cổ truyền từ hàng nghìn năm nay, cùng với điều kiện tự nhiên thuận lợi
tạo điều kiện cho nhiều loài thực vật phát triển trong đó có rất nhiều loại có thể dùng làm dược
liệu phục vụ cho sự phát triền của nền y học cổ truyền nước nhà.
Việt Nam đầu tư phát triển nền y học cổ truyền nước nhà và đạt được nhiều thành công nhất
đinh trong viêc phát triển y học cổ truyền dựa trên nhiều dược liệu sẵn có.
Y học cổ truyền cần được hiện đại hóa để không có nguy cơ trở thành một thứ đồ cổ trong chiều
sâu của thời gian, mà sẽ là một khoa học để phục vụ cho yêu cầu của xã hội hiện đại.
Hiện đại hóa là cách dùng kiến thức, công cụ và các phương pháp nghiên cứu khoa học - kỹ thuật
hiện đại để hiểu và chứng minh cơ sở khoa học của nguyên lý, lý thuyết và phương pháp chữa
bệnh của y học cổ truyền, của các bài thuốc và đặc biệt là các chất có tác dụng dược lý có trong
cây thuốc.


Tuy nhiên vẫn có nhiều dược liệu quý vẫn chưa được biết đến rộng rãi mọi người vẫn chưa hiểu
rõ về tính chất, công dụng.... của chúng. Bên cạnh đó với sự phát triển y học cổ truyền và sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật và lợi ít kinh tế của các tổ chức cá nhân dược liệu đang bị làm giả rất
nhiều và nhiều hoạt chất chiết xuất từ dược liệu còn kém chất lượng. Điều này có thể ảnh hưởng
rất nghiêm trọng đến sức khỏe của người sử dụng, cũng như gây mất lòng tin của mọi người khi
sử dụng các nguyên và chế phẩm từ dược liệu. Vì vậy cần phải có những bài viết đề tài nghiên
cứu cụ thể hướng dẫn mọi người có những kiến thức nhất định về dược liệu là yêu cầu cấp thiết
hiện nay.
Trong phạm vi bài báo cáo này tôi xin trình bài về dược liệu Hồng hoa một loại dược liều
có nhiều công dụng trong việc phòng và chữa bệnh được s ử dụng rộng rãi trên thế giới
nhưng tại Việt Nam vẫn chưa được trồng và biết đến nhiều.

2


Dược liệu Hồng hoa

2.

Nguyễn Dĩnh Khiêm

THỰC VẬT HỌC

Tên khoa học: Carthamus tinctorius L.
Họ: họ Cúc – Asteraceae
Tên gọi: Hồng hoa
Tên khác: Cây rum.
2.1

Sơ lược về họ hoa Cúc (Asteraceae):


Họ Cúc (danh pháp khoa học: Asteraceae hay Compositae), còn gọi là họ Hướng dương, họ Cúc
tây, là một họ thực vật có hoa hai lá mầm. Tên gọi khoa học của họ này có từ chi Aster (cúc tây)
và có từ nguyên từ gốc tiếng Hy Lạp mang nghĩa ngôi sao-hình dáng của bông hoa trong các loài
của nó, được điển hình hóa thành tên gọi phổ biến chung là hoa cúc. Họ Asteraceae là họ lớn thứ
nhất hoặc thứ hai trong ngành Magnoliophyta, chỉ có họ Phong lan (Orchidaceae) là có thể có sự
đa dạng lớn hơn, với khoảng 25.000 loài đã được miêu tả. Họ này theo các định nghĩa khác nhau
chứa khoảng 900-1.650 chi và từ 13.000-24.000 loài. Theo dữ liệu của Vườn thực vật hoàng gia
Kew mà APG II trích dẫn, họ này chứa 1.620 chi và 23.600 loài và như thế thì nó lại là họ đa dạng
nhất, do cũng theo dữ liệu của Kew thì họ Lan chỉ có khoảng gần 22.000 loài. Các chi lớn nhất
là Senecio (1.500 loài), Vernonia (1.000 loài), Cousinia (600 loài), Centaurea (600 loài). Định
nghĩa các chi thường có vấn đề và một số chi thường xuyên bị chia nhỏ thành các nhóm nhỏ hơn.
Họ Asteraceae phân bố rộng khắp thế giới, nhưng phổ biến nhất tại các khu vực ôn đới và miền
núi nhiệt đới.

3


Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

Họ hoa Cúc được chia ra làm 3 bộ lớn:
- Heliantheceae
- Lactuceae
- Sêncionceae
Đặc điểm hình thái cơ bản của họ Cúc:
Cụm hoa: Cụm hoa dạng đầu. Bao phấn hữu tính, tức là với các nhị hoa kết hợp lại với nhau tại
các gờ của chúng bởi các bao phấn, tạo thành ống. Bầu nhụy với sự phân bổ cơ bản của các noãn
hoa. Các noãn hoa trên một bầu nhụy. Mào lông (chùm lông trên quả). Quả là loại quả bế (tạo

thành từ một lá noãn và không nẻ ra khi chín). Các sesquiterpen có mặt trong tinh dầu, nhưng
không có các iriđôit. Lá của họ hoa này có thể mọc đối, so le hoặc ít phổ biến hơn là kiểu mọc
vòng. Lá có thể là lá đơn có hình lông chim hoặc lá kép hình chân vịt và không có lá kèm.
Hoa cúc được chia ra làm hai kiểu cơ bản: loại có hình ống, đối xứng, toả tia và loại có hình dây
(strap-shaped) đối xứng hai bên. Hoa Cúc có thể đơn tính hoặc lưỡng tính tuỳ loại. Bộ nhị
thường có 4 – 5 nhị hoa được bọc trong bao phấn.
Đặc trưng phổ biến và chung nhất của các loài này là trong cách nói thông thường gọi là "hoa",
là cụm hoa hay cụm hoa hình đầu (đúng ra là hoa hình giỏ (lam trạng hoa tự); là một cụm dày
dặc của nhiều hoa nhỏ, thông thường gọi là các chiếc hoa (nghĩa là "các hoa nhỏ").
Các loài trong họ Cúc thông thường có một hoặc cả hai loại hoa con. Vòng ngoài của cụm hoa
hình đầu tương tự như ở hoa hướng dương được cấu thành từ các hoa con có dạngcánh hoa dài,
được gọi là lưỡi bẹ; chúng là hoa tia. Phần bên trong của đầu cụm hoa (hayđĩa) được hợp thành
từ các hoa nhỏ với các cánh hoa hình ống; chúng là các hoa đĩa hayhoa phễu hoặc hoa ống.
Thành phần của các hoa họ Cúc dao động từ hoa toàn tia (tương tự như ở các loài bồ công anh,
chi Taraxacum) tới hoa toàn đĩa (tương tự như ở các loài cỏ dứa).
2.2

Đặc điểm thực vật Hồng hoa:

Cây thuộc thảo, cao 0,6-1m hay hơn, không có lông, thân trắng có vạch dọc, phân cành ở ngọn.
Lá mọc so le, không có cuống, gốc tròn ôm lấy thân. Phiến hình bầu dục hay hình trứng dài 49cm, rộng 1-3cm, chóp nhọn sắc. Mép lá có răng cưa nhọn thành gai không đều, mặt lá nhẵn,
màu xanh lục sẫm, gân chính giữa lồi cao. Cụm hoa hình đầu ở ngọn thân họp thành ngù, bao
4


Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

chung gồm nhiều vòng lá bắc có hình dạng và kích thước khác nhau, có gai ở mép hay ở chóp,

hoa nhỏ, màu đỏ cam, đẹp, đính trên đế hoa dẹt Hoa màu đỏ, hoặc da cam, tràng hình ống, phần
trên xẻ 5, 5 nhị màu vàng dính liền thành ống. Lá bắc có gai. Quả bế có 4 cạnh lồi nhỏ dài 6-7mm,
rộng 4-5mm.
2.3

Phân bố và sinh thái

Nguồn gốc: Hồng hoa là một trong những loài cây được trồng lâu đời nhất của con người. Từ
thời cổ đại người Ai Cập đã biết dùng hồng hoa để nhuộm vải.
Ngày nay hồng hoa được trồng nhiều ở Ấn Độ, Mỹ và Mexico. Tiếp theo là Ethiopia, Kazakhstan,
Trung Quốc, Aghentina,và Australia.
Ở nước ta, trước đây có trồng nhiều ở Hà Giang, sau đó ít thấy trồng, đến năm 1970, ta lại nhập
giống đem trồng ở nhiều nơi, từ Sapa cho tới Đà Lạt. Kết quả cho thấy cây phát triển được.
Thường trồng bằng hạt vào mùa xuân. Mùa hoa tháng 5-7, quả tháng 7-9.
2.4

Thu hái và chế biến

Đầu mùa hạ khi hoa đang nở, cánh hoa chuyển từ vàng sang đỏ thì hái về để nơi thoáng gió trong
râm hoặc hơi có ánh nắng cho khô. Không nên phơi trực tiếp giữa nắng to để khỏi mất màu. Để
tiện bảo quản. sau khi hái, lấy cánh hoa giã thành bánh rồi phơi khô.
Sản lượng hồng hoa trên thế giới hiện nay khoảng 600000 tấn.
Dược liệu mềm, mùi thơm vị hơi đắng. Đem ngâm nước, nước nhuộm màu vàng. Hoa màu đỏ
tươi, mềm mại là tốt.

2.5

Bộ Phận dùng

Hoa đã phơi hoặc sấy khô của cây Hồng hoa ngoài ra lá, quả và dầu hạt cũng được sử dụng là

thuốc

5


Dược liệu Hồng hoa

2.6

Nguyễn Dĩnh Khiêm

Sự nhầm lẫn với một số cây khác.

Về tên gọi thì dễ nhầm với cây hoa hồng nhưng những đặc điểm hình thái hoàn toàn khác nhau

Về hình dáng cần phân biệt với cây Tạng hồng hoa còn có tên là Phiên hồng hoa hoặc Lệ hồng
hoa, có nhiều ở Tây Tạng và Âu Uyên, thuộc họ đuôi Điều đó là cây thảo sống đa niên, ở phần dưới
đất thân tròn hình cầu, phình lớn, lá 6-9 phiến, lá hình dãi, không cuống.Vùng gốc có bẹ rộng bọc
lại hình vẩy, khoảng tháng 9,10 từ lá nổi lên 2,3 đoá hoa màu hồng nhạt, hoa chia thành 6 phiến
màu hồng đậm, nhỏ dài, trụ đầu tam thao, màu hồng tím, nhỏ dài. Công dụng giống như Hồng
hoa nhưng tốt hơn và giá tiền đắt hơn nên. Người ta thường gọi là Tây tạng hồng hoa.

6


Dược liệu Hồng hoa

3.

Nguyễn Dĩnh Khiêm


THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Các chất quan trọng trong hồng hoa là các sắc tố nhóm flavonoid. Có hai loại sắc tố chính trong
hồng hoa là sắc tố vàng tan trong nước và các sắc tố đỏ. Sắc tố vàng gồm các chất chalcon Cglycosid là vàng safflor A và B, vàng anhydrosafflor A (và các đồng phân epimer ở C5 '). Sắc tố đỏ
có carthamin, carthamon (hai sắc tố chính của hồng hoa) và precarthamin.
HO
OH

OH
CH2OH

O

OH

OH

H

HO

H

H

O
HO

HO


OH
HO
O

O
OH

O

OH

OH HO

OH

OH
OH

Vàng Safflor A

OH

O
O
OH

O

OH


OH

H

O

HO

OH

HO

OH

HO

OH
HO

O

OH

Vàng Safflor B

OH

O
O

HO

O

O

OH

OH

O

OH
OH

O Glc

OH

O
OH

O
OH

HO

Carthamin

HO


OH
HO

O

O

O

OH

Carthamon

7


Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

OH

OH

HO

O
HO


O

O

O
OH

O
OH

O

OH

OH HO
OH

OH

HO

OH
HO

OH

O

Precathamin


Công thức của carthamin được sửa đổi nhiều lần. Theo Takahashi Y. và cộng sự (Tetrahedron
Lett. 1982,23,5163) thì cấu trúc carthamin là dẫn chất bischalcon C-glucid. Carthamin kết tinh
màu đỏ trong pyridin, điểm chảy 228-230oC.
Carthamon (=6'-O-glucosyl-4,4'-dihydroxy-2',5-quino chalcon) là chất kết tinh màu đỏ.
Ngoài ra trong Hồng hoa còn có các flavonoid khác như isocarthamin, isocarthmidin,
neocarthamin, quercetin, rutin, kaempferol, luteolin với các dẫn xuất hydroxy và glycosid của
chúng.
Ngoài các thành phần flovonoid hồng hoa còn chứa các ankan mạch dài như dotriacontan-6,8diol, erythrohentricontan-6,8-diol, heptan consan-8,10-diol, và các ankan liên quan khác.
Lá hồng hoa chứa 7-glucosid của luteolin là chất hay gặp trong cây họ Cúc
Quả chứa protein (15%) và lipid(30%). Dầu béo chứa hơn 90% acylglycerol của acid chưa no:
oleic (13-15%), linoleic (75-79%), và một lượng nhỏ các acyl glycerol của các acid no palmitic và
stearic.Ngoài ra trong quả còn có chứa các trachelosid và 15α,20β-dihydroxy- 4-pregnen-3-on20-O-β-D-glucopyranosyl-(14) -glucopyranosid.
OH
Glc O
MeO

CH2 C
O

H
C CH2

O

OMe
OMe

Trachelosid

Các nhà khoa học cũng đề xuất quy trình tổng hợp Carthamin từ các chất hóa học trong hồng

hoa:

8


Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

OH

OH
CH2OH

HO

HO
HO
H

O
OH

OH

OH

O

O

OH

OH

OH

2D-GlcOH

HO

HO
OH

OH O
2,4,6,4'-tetrahydroxychalcon

O

HO

HO

OH

OH

O
OH
D-Glc


OH
HO
O

O
OH
OH

OH

OH

O

OH HO

OH

OH
OH

OH
HO

HO

O

OH


OH

OH

Vàng Safflor B

Vàng Safflor A

OH

H

O
OH
O

H2O

OH

H
OH

O

HO

OH

HO


H

OH
oxidation

O
HO

O

O

O
OH

O
OH

4.1

OH

OH

O

OH
OH


4.

O

HO

OH
HO

O

CO2

HO

HO

Carthamin

oxidation

OH

O

O

O
OH


O
OH

O

OH

OH HO
OH

OH

HO

OH
HO

O

OH

Precathamin

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Theo dược lý cổ truyền
Thuốc có tác dụng hoạt huyết khu ứ thông kinh. Chủ trị các chứng đau kinh, kinh bế, sau
sanh đau bụng, đau do ứ huyết, các chứng trưng hà tích tụ, đau khớp, ban chẩn.
Trích đọan y văn cổ:




Sách Khai bảo bản thảo: " Chủ sản hậu huyết vận, cấm khẩu, máu xấu không ra hết, cơn
đau thắt, thai chết lưu, sắc với rượu uống".



Sách Bản thảo kinh sơ: " Hồng hoa là thuốc hành huyết chủ yếu. Chủ trị sau sanh huyết
vựng cấm khẩu, máu xấu không ra, nghịch lên xung tâm sinh ra hôn mê chóng mặt, cấm
khẩu . trong bụng đau do máu xấu không ra hết, thai chết trong bụng, nếu không hành
huyết hoạt huyết thì thai không ra. Thuốc có tác dụng hành huyết nên trị được đau bụng,
trục được thai ra".



Sách Bản thảo hội ngôn: " Hồng hoa là thuốc phá huyết, hành huyết, hòa huyết chủ trị
nhiều bệnh thai sản do huyết hoặc do huyết phiền, huyết vựng, hôn mê không nói được
hoặc do máu xấu hại tâm, bụng rốn đau, bào thai không ra, thai chết trong bụng, không
có Hồng hoa không trị được".

9


Dược liệu Hồng hoa



Nguyễn Dĩnh Khiêm

Sách Dược phẩm hóa nghĩa viết: " Hồng hoa chuyên thông lợi kinh mạch là khí dược

trong huyết, vừa có thể tả vừa có thể bổ, nếu dùng lượng 3 - 4 đồng cân thì thuốc quá cay
ôn khiến huyết tẩu tán. Cùng với Tô mộc trục ứ huyết, hợp với Nhục quế thông kinh bế,
hợp với Qui thược trị đau toàn thân hoặc ngực bụng đau do tác dụng hoạt huyết. Nếu
dùng 7 - 8 phân để sơ can, khí trợ huyết hải, đại bổ huyết hư, đó là tác dụng điều hòa
huyết, nếu chỉ dùng 2 - 3 phân thuốc vào tâm, giải tà nhiệt ở tâm làm cho huyết được điều
hòa".

4.2

Nghiên cứu dược lý hiện đại

Các nhà khoa học đã tiến hành nhiều thử nghiệm sinh học trên nhiều động vật khác nhau kể cả
con người để xác định tác dụng dược lý của hồng hoa thua được nhiều kết quả khác nhau:
Dịch chiết nước Hồng hoa trên tử cung tách riêng của chó, mèo có thai hoặc không có thai làm
tăng sự co bóp rồi cuối cùng làm liệt, nhưng nếu rửa thuốc đi thì tử cung trở lại bình thường.
Dịch chiết nước Hồng hoa còn làm hạ huyết áp chó, mèo, làm tăng sự co bóp của tim, co nhỏ
mạch máu của thận và cơ trơn phế quản của chuột thí nghiệm.
Dịch chiết nước hồng hoa có tác dụng kéo dài thời gian đông máu và ức chế sự ngưng tụ tiểu cầu.
Liều độc của carthamon đối với thỏ là 20-75mg cho 1 kg cơ thể và 80-85mg đối với mèo.
Dầu từ hạt hồng hóa có hàm lượng acid linoleic cao, tác động chống viêm trong xương bằng
cách kiểm soát chất trung gian trong prostanoid trong phản ứng viêm, khắc phục tình trạng
loãng xương và tăng hấp thụ canxi ở lòng ruột.
Khả năng chống sự oxi hóa của hồng hoa được đánh giá bằng cách xác định ảnh hưởng của 2,2diphenyl-1 picrylhydrazyl (DPPH) lên sự phá hủy các chất cặn bả và làm giảm nồng độ sắt.
Trong cả hai thử nghiệm, chiết xuất dung dịch nước của hoa Hồng hoa khả năng chống oxy hóa
rất cao. Hiệu quả là 96,65%. Nồng độ ức chế 50% (IC50) giá trị so với khảo nghiệm giảm ion sắt
đã được xác định là 1,140.5 mmol / g.
Tổng số hàm lượng phenol từ những bông hoa được xác định là 2,12 và 1,32 g / 100 g methanol
và các chất chiết xuất dung dịch nước tương ứng.Hàm lượng các hợp chất phenol càng khẳng
định vai trò chống oxi hóa của hồng hoa.
Chiết xuất ethanol của hạt rum ức chế làm giảm mật độ lipoprotein (LDL).

Thực nghiệm chứng minh rằng cả hai methanol 300mg/kg và dehydroabietylamine phân lập từ
lá hồng hoa có tác dụng làm giảm đáng kể độc tính của CCl4, Việc bảo vệ chống lại các tác động
có hại của CCL4 là do sự ức chế ảnh hưởng đến cytochrome P450 ngăn cản sự hình thành các gốc
tự do gây độc cho gan.
10


Dược liệu Hồng hoa
4.3

Nguyễn Dĩnh Khiêm

Trong y học:

Tính vị theo đông y: vị cay, ấm vào hai kinh tâm can. Có tác dụng phá ứ huyết, sinh huyết mới,
kinh nguyệt bế tắc, sản hậu ứ huyết,sinh huyết mới, kinh nguyệt bế tắc, thai chết trong bụng. Còn
có tác dụng giải nhiệt ra mồ hôi, phàm không ứ, trệ không được dùng.
Trong y học cổ truyền, Hồng hoa là một trong những vị thuốc được sử dụng rộng rãi, dùng riêng
lẻ hoặc phối hợp với các thuốc khác. Hồng hoa giúp tuần hoàn máu, dùng trong điều trị các bệnh
về tim mạch, về máu như chứng huyết khối, chứng co thắt mạch vành, đau thắc ngực, xuất huyết
não, xuất huyết não, sơ cứng động mạch não. Hồng hoa cũng được dùng làm thuốc điều kinh,
chữa bế kinh, rong kinh, kinh nguyệt xấu.
Hồng hoa cũng được dùng trong điều trị đau khớp mãn.
Ở Trung Quốc người ta đã nghiên cứu chế thuốc dưới dạng tiêm pha loãng với dịch truyền
glucose 10% và dạng tiêm bắp.
Dầu ép từ hạt còn làm thuốc tẩy sổ liều 8-16mg.
Hạt hồng hoa có chứa 92-93% chất béo không bão hòa điều này giúp giảm cholesterol máu.
Chú ý phụ nữ có thai không được dùng hồng hoa.
4.4


Lĩnh vực khác

Dùng làm gia vị, thuốc nhuộm màu vàng đỏ, nguyên liệu chế màu vàng đỏ không độc để nhuộm
hay nhuộm thức ăn.
Ngày nay hạt hồng hoa còn được dùng để cung cấp dầu dùng trong thực phẩm hay sử dụng
trong tranh sơn dầu thay cho dầu lanh. Có hai loại Hồng hoa cung cấp hai loại dầu béo khác
nhau. Được sử dụng nhiều hơn cả là loại dầu giàu chất béo không bảo hòa 1 nối đôi như (acid
oleic), loại còn lại nhiều chất béo không bão hòa nhiều nối đôi như (acid linoleic)
5.
5.1

KINH NGHIỆM VÀ BÀI THUỐC DÂN GIAN

Chữa sau khi đẻ máu xấu không ra, đau bụng, bị ngất mê man, phụ nữ kinh bế
lâu ngày, huyết tích thành hòn...:

Bài 1:




Hồng hoa 8g
Tô mộc (gỗ vang) 8g
Nghệ đen đều 8g

Sắc rồi chế thêm một chén rượu vào uống (Lê Trần Đức).
Bài 2:
11



Dược liệu Hồng hoa






Nguyễn Dĩnh Khiêm

Hồng hoa 5g
Xuyên khung 10g
Đương qui 10g
Hương phụ 10g
Diên hồ sách 10g

Sắc nước uống hoặc phối hợp với rượu đương qui uống.
Bài 3:




Hồng hoa 3g
Ích mẫu thảo 15g
Sơn tra 10g

Sắc rồi cho đường đỏ vừa đủ uống.
Bài 4:


Hồng hoa 10g


Sắc với rượu chia 3 lần uống.
5.2

Trục thai chết lưu trong bụng mẹ:

Bài 1:
Hồng hoa đun với rượu rồi uống.
Bài 2:
Hồng hoa, Rễ Gấc, Gỗ Vang, Cỏ nụ áo, Vỏ cây Vông đồng, Lá Đào, Cỏ xước
Sắc rồi chế thêm đồng tiện vào mà uống (Tài nguyên cây thuốc Việt Nam).
5.3

Trị đau sưng tấy do chấn thương ngoại khoa:

Bài 1:
Hồng hoa 10g
Đào nhân 10g
Sài hồ 10g
Đương qui
10gĐại hoàng 8g
Rượu và nước mỗi thứ một nửa sắc uống.
Bài 2:
Hồng hoa 120g
Đào nhân 120g
Đương qui vĩ 120g

12



Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

Chi tử 240g
Tán bột mịn trộn đều với giấm lượng vừa đủ đun nóng đắp chỗ đau.
5.4

Phòng chống bệnh ban sởi, ung nhọt:

Bài 1:
Đương qui 6g
Hồng hoa 4g
Tử thảo 10g
Đại thanh diệp10g
Liên kiều 10g
Ngưu bàng tử 10g
Hoàng liên 5g
Cam thảo 3g
Cát căn 10g
Sắc nước uống.
Bài 2:
Hạt Hồng hoa 3-5 hạt
Nhai nuốt, chiêu nước (Tài nguyên cây thuốc Việt Nam).
5.5

Chữa loét hành tá tràng:

Bài thuốc:




Hồng hoa 60g
Đại táo 12 quả

Cho nước 300ml, sắc còn 150ml lọc cho mật ong 60g trộn đều, mỗi ngày uống nóng 1 lần, ăn táo
uống liền 20 thang.
5.6

Bệnh do huyết ứ đình trệ

Tuyền phúc hoa: 12g
Bán hạ chế: 12g
Chích thảo: 4g
Đại giả thạch: 12g
Đẳng sâm: 12
Sinh khương(gừng tươi): 3g
Đại táo: 3 quả
13


Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

Đào nhân (hạt đào): 12g
Hồng hoa: 6g

6.
6.1


CÁC QUY ĐỊNH KIỂM NGHIỆM

Soi bột

Màu vàng cam, thường thấy mảnh cánh hoa, chỉ nhị, núm nhụy, những tế bào tiết hình ống dài,
kèm theo các mạch, đường kính tới 66 µm, chứa chất tiết, màu từ vàng nâu đến đỏ nâu. Màng
ngoài tế bào biểu bì của đầu cánh hoa nhô lên như những lông tơ. Tế bào biểu bì trên của núm
nhụy và vòi nhụy biệt hoá thành những lông đơn bào hình nón nhỏ hay hơi tù ở đỉnh. Hạt phấn
hình cầu, đường kính 60 -70 µm, có 3 lỗ nảy mầm, vỏ ngoài hạt phấn có gai. Tinh thể calci oxalat
hình lăng trụ. Mảnh mô mềm gồm những tế bào hình chữ nhật. Mảnh đầu cánh hoa gồm nhiều tế
bào kết hợp lên nhau như lợp ngói. Tế bào chỉ nhị màng mỏng, hình chữ nhật. Mảnh mạch vạch,
mạch mạng.
6.2

Định tính

A. Ngâm 1 g dược liệu trong 10 ml ethanol 50% (TT). Gạn dịch ngâm (phần trên) vào một cốc có
mỏ, treo một băng giấy lọc và ngâm vào dịch này. Sau 5 phút lấy băng giấy lọc ra, ngâm vào nước
rồi nhấc ra ngay. Phần trên băng giấy lọc có màu vàng nhạt, phần dưới băng giấy lọc có màu đỏ
nhạt.
B. Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Phụ lục 5.4).
Bản mỏng: Silicagel H có chứa natri carboxymethylcellulose (dung dịch 0,5%).
Dung môi khai triển: Ethylacetat - acid formic - nước - methanol (7:2:3:0,4).
Dung dịch thử: Ngâm 0,5 g bột dược liệu trong 5 ml aceton 80% (TT), lắc đều trong 15 phút, lọc.
Dịch lọc được dùng làm dung dịch thử.
Dung dịch đối chiếu: Lấy 0,5 g bột Hồng hoa (mẫu chuẩn), tiến hành chiết như dung dịch thử.

14



Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

Cách tiến hành: Chấm riêng biệt lên bản mỏng 5 µl mỗi dung dịch thử và dung dịch đối chiếu. Sau
khi khai triển, lấy bản mỏng ra, để khô ở nhiệt độ phòng. Sắc ký đồ của dung dịch thử phải cho
các vết có cùng màu sắc và cùng Rf với các vết trên sắc ký đồ của dung dịch đối chiếu.
C. Độ hấp thụ
Sắc tố màu vàng: Làm khô dược liệu trong 24 giờ với silica gel trong bình hút ẩm, sau đó nghiền
thành bột mịn. Cân chính xác 0,1 g bột dược liệu, ngâm và lắc trong 150 ml nước khoảng 1 giờ,
lọc dung dịch vào 1 bình định mức dung tích 500 ml bằng phễu lọc xốp thuỷ tinh số 3. Rửa giấy
lọc và cắn bằng nước tới khi nước rửa không còn màu, thêm nước tới vạch và lắc kỹ. Đo độ hấp
thụ của dung dịch ở bước sóng 401 nm (Phụ lục 4.1). Độ hấp thụ không được dưới 0,40.
6.3

Độ ẩm

Không quá 13%
6.4

Tạp chất

Tỷ lệ hoa biến màu nâu đen: Không quá 0,5%.
Tạp chất khác : Không quá 2%.
6.5

Tro toàn phần

Không quá 15%


15


Dược liệu Hồng hoa

Nguyễn Dĩnh Khiêm

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Văn Thu- Trần Hùng (2011), "Dược liệu học -tâp 1" NXB Y Học, Tr.421-423
2. Đỗ Tất Lợi (2004), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y Học, Tr. 41
3. Bộ Y Tế, Dược điển Việt Nam IV, 2009.
4. />url=/thuocdongy/H/HongHoa.htm&key=&char=H
6. Jinous Asgarpanah và Nastaran Kazemivash, "Phytochemistry, Pharmacology and Medicinal",
Chin J Integr Med 2013
5. />
16



×