Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Những bài văn hay ôn tập học kì 2 lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.59 KB, 15 trang )

Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng
tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy
ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thôn vĩ
dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu
kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không
những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha
của thi sĩ.
Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải
là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi
thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim
Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi
gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình
Câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không
có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy
không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da
đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn
dỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy
một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng
khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà
cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “ Sao anh không
về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình.
Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực
rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái
độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc
Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có
thể tượng tương ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân
yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ
dùng để miêu tả khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều
hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra
những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào


đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ
một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn
khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “ nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật
trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua


Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện
pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt
của một người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình:” vườn ai mướt quá xanh như
ngọc” . dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng
ở đây quả thật không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp
thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây
như càng thêm huyền bí,đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh
mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của
khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất:” Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu vườn vuông vắn tươi đẹp
của xứ Huế, hay những cành trúc đang buông mình trước cửa của những ngôi nhà
xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra
vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo.
Những câu thơ tiếp theo cho tôi thấy một nét khác của Huế, một sự chuyển biến về
tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng trữu nặng của Hàn Măc Tử, hai câu thơ đầu
gợi cảnh chia li sầu não buồn đến sâu thẳm. Điệp từ” gió” và “mây” cùng với nhịp
điệu của câu thơ càng khiến cho khung cảnh chia li hiện rõ. Gió mây thường là một
cặp, thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”.
Hoa rơi nước cuốn là điều hiển nhiên nhưng lại ẩn chứa một tâm sự buông bã đến

não lòng, sự chia li chia lìa ngày một hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi gió cuốn mà
chúng ta lại nhìn ra cả tâm trạng của thi nhân. Lòng buồn thiu, không có một nỗi
niềm nào chất chứa. Hình ảnh trăng hiện ra, không chỉ ở bài thơ này mà còn nhiều
bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác.Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng
trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trăng trong thơ
gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có
sông trăng và thuyền chở trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây thật thơ mộng,
mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng lại mang một dự báo, hay một
nỗi phân vân rằng “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi
không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời
cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.


Khổ thơ cuối thể hiện một khung cảnh khi có lẽ nhà thơ đã tỉnh mộng, quay về với
thực tại đang sống, đối mặt với chính mình để viết lên những vần thơ:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
“ Khách đường xa ở đây chính là ai?” cùng với điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể
hiện tâm trạng nhớ thương khắc khoải lại như vô vọng của mối tình đơn phương xa
vời. Thực tại tác giả đang đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, cắt đứt mọi giao tiếp
với xung quanh nên ta có thể nhận thấy qua lời thơ ước mơ của tác giả vô cùng
thiết tha mãnh liệt. Tác giả không mơ được trở về thôn Vĩ nữa mà mơ có một
người khách nào đó đến thăm. Nhưng rồi giấc mơ ấy như nhòa đi như trong ảo
mộng, sương khói làm nhòa hình ảnh ảo mộng: “Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Ở đây ta có thể thấy tác giả mơ về một người con gái, nhưng chỉ có thể thấy “áo”
chứ “nhìn không ra”,hình ảnh tà áo trắng gợi ra hình ảnh dịu dàng mà cũng thanh
khiết ,có lẽ là dáng dấp của một người con gái xứ Huế . Chỉ biết đây là một hình
ảnh rất đỗi gần gũi nhưng lại quá xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm
thường trực, còn xa xôi là vì khoảng cách thời gian, không gian. Trong tâm trạng
buồn bã cô đơn của thực tại và nhớ mong khắc khoải trong thơ, nhà thơ chợt khao

khát cuộc sống đến tột cùng. Cái mà Hàn Mặc Tử tha thiết mong đợi như đọng lại
tới vô cùng. “Ai biết tình ai có đậm đà”. Cái hay của câu thơ nằm ở đại từ phiếm
chỉ “ai”, nghe như lời nghi ngờ, cũng như một tiếng thở dài vô vọng. Vừa là nỗi
mong ước đến khát khao,câu hỏi bâng quơ nhưng gợi ra nhiều tâm trạng. Đó chính
là sự bâng khuâng khó tả và sự nhẹ nhàng như tự nhủ với bản thân.
Mặc Dù đã ra đời tư lâu nhưng bài thơ đã lấy nhiều cảm xúc của người đọc cả lúc
ấy và cả độc giả thời đại hiện nay. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt
đẹp mà còn là những cảm xúc sâu lắng, với niềm khát khao yêu đời, yêu người.
Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc tử, một tâm
hồn nhạy cảm với đời,với tình yêu ,cuộc sống.


Tràng Giang
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên
tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn,
Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông
mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác
phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách
mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc
sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại
sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế,
một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng
Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước
Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi
Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước,
lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định.
Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét
hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp

....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ.
"Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi
liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng
mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển
trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng
sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau
cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của
mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao
cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người
cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác
phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ
đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng",
"sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên
tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa,
nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và


con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ
cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu
não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai

từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ
kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi
liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ
cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp",
nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có
sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên,
một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp
trong lòng
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền.
Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước
lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu
trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ
nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi
một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các
từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự
ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô
định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông.
Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn
ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về
một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc
có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới.


Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó
là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của

toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc
lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh
lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ
đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi
sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh
lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó",
âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát,
mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người.
Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề
có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự
chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn
đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà
thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ
trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông
dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao:
"bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi
như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ
chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen
thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng

thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu
hiu:


Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ
điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời.
Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối
hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ
đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh
tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối
tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con
người, không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những
kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân
mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên
mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con
người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc
tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình
ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi
nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có
nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ
đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau.
Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh
nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè
nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi
được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình
tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.


Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó.
Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng
khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang
đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung
của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông
khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà
buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó
đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường
nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được
thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy
nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh
chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứthơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí
cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu
chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng
nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà
tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì
được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với
vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu
nước, yêu quê hương.


Từ Ấy
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng
Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mạng rất
sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng
viên Đảng Cộng sản. Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định cả cuộc đời cách
mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất
được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo
vui của người chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng
tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho
tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là
quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân
với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng
Cộng sản.
Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người
thanh niên yêu nước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
phan tich bai tho tu ay to huu
Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, tiêu diệt bọn vua quan bán
nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có lẽ là lúc

nhà thơ đã giác ngộ cách mạng và tình nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp
cần lao để đấu tranh tự giải phóng. Đây cũng là thời gian khởi đầu cuộc đời làm
cách mạng của nhà thơ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái
tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Lí tưởng đó như mặt trời chân lí đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, buồn đau trong tâm
tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm
thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của nhà thơ khi bắt
gặp lí tưởng cách mạng cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy
giờ.
Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, có nghĩa là nhà thơ khẳng định đây
là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không
chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của nhà thơ (chói qua tim). Điều đó
chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mạng đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo


sâu sắc.
Nhà thơ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng
đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí tưởng đem lại
cho nhà thơ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một thế giới đầy hương sắc, âm
thanh:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. Nhà thơ diễn tả niềm vui sướng tột độ của
một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc
đời bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa
hạ, là màu xanh căng đầy nhựa sống của một vườn hoa lá tốt tươi tỏa hương thơm
ngát, rộn tiếng chim ca. Lí tưởng cộng sản – mặt trời chân lí – không những sưởi
ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền nhựa sống vào trái tim người trai trẻ.
Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời.
Chinh lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống

và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Tố Hữu còn là một nhà
thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của
hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mạng đã khơi dậy
một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.
Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả cảm xúc mạnh
mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình
ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng
chim… vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như
một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến
dâng cho cách mạng, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.


Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa
lá ) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản
dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng
chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của “cái tôi trữ tình cách mạng”. Tôi buộc
lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà thơ đối với giai
cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở
thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo
nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân
phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.
Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái
tôi cá nhân”. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ
sống là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi cá nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc
thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua

giới hạn của “cái tôi cá nhân” để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể
hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của
mỗi con người.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ
tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi
người, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ
một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ
với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan
hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh
sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng
lớn của quần chúng lao khổ. Ở đây, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới
không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của
những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa
văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân
dân.
Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà
thơ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ
những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ
bạo tàn đầy áp bức bất công:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ


Không áo cơm cù bất cù bơ.
Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng
sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ,
hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng
nghèo khổ. Hơn thế, nhà thơ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần
chúng cách mạng. Người chiến sĩ ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em

của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.
Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp
ngữ: Tôi đã là… lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một chiến sĩ
khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng. Điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và
số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một
tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết. Khi nối tới những kiếp phôi pha (những
người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu
mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé
không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng
cảm, xót thương của nhà thơ biểu hiện thật chân thành, xúc động. Qua đó, chúng ta
có thể thấy được thái độ căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của
cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà
người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là
đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát
sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé
bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm…)
Bài thơ Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác
đầu tiên của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh,
lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước
vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng. Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là
tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn
thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc.
Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách
mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố
Hữu.


Chiều tối
Nhắc đến thơ Hồ Chí Minh có lẽ ta sẽ nghĩ ngay đến những vần thơ đầy trăng của
Bác nhưng đọc “Chiều tối” mới thấy, Bác không chỉ viết hay về những buổi đêm

ngập tràn ánh trăng mà, dưới tư cách là một nhà thơ, Bác còn mang một phong
cách “thơ chiều” vô cùng riêng biệt. “Chiều tối” là bài thơ thứ 31 trong tập “Nhật
kí trong tù”, bài thơ ghi lại cảm xúc thiên nhiên và cuộc sống lúc ngày tàn của Hồ
Chí Minh trên đường chuyển lao vào khoảng cuối thu năm 1942, hình ảnh người
tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xiềng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng
không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác vừa cổ kính, vừa trữ tình. Qua
bài thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp của Hồ Chí Minh với một tâm hồn yêu thiên
nhiên, yêu cuộc sống, con người cùng với ý chí kiên cường và tinh thần thép của
người Cộng sản.
Mỗi bài thơ trong “Nhật kí trong tù” lại là một nét phác họa vẻ đẹp con người và
tinh thần của Hồ Chí Minh: vẻ đẹp của trái tim, khối óc, vẻ đẹp của tinh thần, ý
chí, nghị lực, của lòng khiêm tốn, đức hi sinh cao cả…. Được viết vào một hoàn
cảnh đặc biệt: Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, bài thơ là sự
tỏa sáng của tâm hồn, nghị lực và trí tuệ của Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh ngục tù.
“Chiều tối”, đúng như tiêu đề của nó, là một bức tranh thiên nhiên về cảnh chiều
muộn ở nơi rừng núi được người tù Hồ Chí Minh ghi lại trên hành trình chuyển
lao. Vì lẽ đó, vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh thể hiện trong bài thơ trước hết là vẻ
đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ với những rung cảm tinh tế trước vẻ đẹp thiên nhiên
và cuộc sống của con người:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không ;”
Bác nâng niu, trân trọng biểu hiện của sự sống, tinh hoa của thiên nhiên, bởi vậy, ta
luôn cảm nhận được những hình ảnh thiên nhiên lúc nào cũng chiếm vị trí nổi bật
trong thơ Bác. Thiên nhiên mở ra trước mắt người đọc với những hình ảnh quen
thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời cùng với chút ánh sáng
cuối cùng còn sót lại của một ngày tàn chỉ có thể nhìn thấy nơi đỉnh trời đem lại
cảm nhân về một không gian giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa
cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn. Dường như không gian được tạo ra từ
sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một mỗi buồn trong cảnh, và ngay trong cách
nhìn cảnh ta cảm thấy tâm hồn Hồ Chí Minh đã thực sự hài hòa với thiên nhiên.

Một cách rất tự nhiên, con mắt nhà thơ phải ngước lên cao để nhận ra một cánh
chim mỏi mệt đi tìm chốn ngủ và một chòm mây cô đơn lặng lẽ trôi, nhìn cảnh như
thế, dường như Bác đã xóa nhòa đi cái ranh giới giữa người tù và du khách tự do,
để tâm hồn mình gắn liền với thiên nhiên, dễ dàng hòa nhập, quyến luyến. Có ai


ngờ, ngay cả trong hoàn cảnh bị áp giải mà thiên nhiên lại vẫn hiện lên trong thơ
Bác một cách tuyệt đẹp như thế.
Không chỉ thiên nhiên mà cho dù là hoàn cảnh nào Bác cũng không quên nghĩ đến
con người:
“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.”
Cô thiếu nữ mải miết xay ngô, ngọn lửa hồng reo vui trong bếp lửa gia đình, lòng
Bác như cũng hòa với khung cảnh lao động bình dị ấy, như đang reo vui cùng với
âm thanh than hồng cháy tí tách. Hai câu thơ sau còn thể hiện được cảm nhận tinh
tế của Bác trước hành động của con người trong không gian chiều tối. Không
giống như trong thơ cổ, con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật mà lại
đem sức sống truyền vào thiên nhiên, khiến khung cảnh chiều tối vốn man mác
buồn lại bỗng tràn ngập sinh khí, sự ấm cúng cùng với nhịp sống, lao động của con
người. Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở
đâu có sự xuất hiện của con người là Người lại tìm thấy được niềm vui. Bài thơ
không khép lại cảm giác về bóng đêm đang dần xuống mà lại chan hòa ánh sáng,
ánh sáng tạo nên cuộc sống đời thường giản dị, thân thuộc. Ánh sáng và niềm vui
của sự sống con người hiện lên ở trung tâm của bức tranh đã tỏa hơi ấm ra xung
quanh, xua tan đi cái cô quạnh, cái mệt mỏi, cái lụn tắt của cảnh chiều tối nơi núi
rừng, khiến người tù cũng thoát khỏi xiềng xích mà quyện mình với cuộc sống
hạnh phúc của con người nơi xóm núi nhỏ.
Bên cạnh tình yêu, niềm say mê đối với thiên nhiên, con người, ở bài thơ, ta còn
thấy nổi bật lên ý chí kiên cường, tinh thần sắt đá của Hồ Chí Minh.Ta bắt gặp một
thoáng buồn bã, cô đơn, ảm đạm “rất người” của Bác khi nhìn vào hình

ảnh “quyện điểu” và “cô vân” , thế nhưng, trước ngọn lửa hồng, Bác quên đi việc
mình vẫn đang phải bước đi trên con đường đầy ải mà để lòng mình reo vui cùng
ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trang thơ xua tan cái lạnh lẽo của lòng người và cảnh
vật. Với lộ trình “năm mươi ba cây số một ngày”, nơi dừng chân có thể là một nhà
lao mới hay một nhà kho ẩm ướt, nhưng thật kì diệu là trong hoàn cảnh như vậy,
Người vẫn làm thơ, vẫn để cho tâm hồn mình bay bổng lên với một cánh chim, một
chòm mây, một làn hương rừng, một cảnh “làng xóm ven sông đông đúc thế”…
Thử hỏi, nếu không có một tinh thần thép, một bản lĩnh thép, thơ của người làm
sao có thể “bay cánh hạc ung dung” như vậy. Đó thực sự là một cuộc vượt ngục
tinh thần của Bác, Người đã hoàn toàn chủ động trước mọi hoàn cảnh, đó chính là
vẻ đẹp của ý chí, nghị lực, là tinh thần thép của người Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đan xen giữa những câu thơ như một mạch cảm xúc ngầm chính là khát vọng thầm
kín và đầy tính nhân văn của Bác. Người tù Cách mạng dù kiên cường, dũng cảm
đến đâu cũng luôn mơ ước, khát khao về một tổ ấm, quanh quần bên bếp lửa gia
đìn. Hình ảnh cánh chim về rừng như đang tìm về tổ ấm của mình, cô thôn nữ xay


ngô bên lò than rực hồng, tất cả làm hiện lên khung cảnh bình dị mà ấm cúng nơi
quê hường, nơi mái nhà sum vầy, đoàn tụ. Nghĩ về những hình ảnh đời thường, yên
bình ấy, ta có thể thấy được chất “người” vô cùng nhân bản trong Bác.
Trong thơ của Hồ Chí Minh, từ tư tưởng đến hình tượng nghệ thuật đều vận động
một cách rất tự nhiên, nhất quán, hướng về sự sống, về ánh sáng và tương lai. Ta
thấy được một tâm hồn lạc quan, niềm tin mạnh mẽ vào Cách mạng, vào một
tương lai tươi sáng, “Chiều tối” cũng không nằm ngoài quy luật đó:
“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng.”
Câu thơ kết thức bằng ngọn lửa hồng và cảnh bình minh mang lại cảm giác phấn
chấn, lạc quan. Có thể nói , chữ “hồng” ở cuối bài thơ đã tạo ra một luồng sáng
chói rọi ngược trở lại làm sáng rực bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, sự vội
vã, nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời. Những hình ảnh đối lập giữa niềm vui và

nỗi cô đơn, buồn bã, giữa chiều tối và bình minh, mặt trời hồng đã thể hiện một
phong cách thơ Hồ Chí Minh dầy tinh tế và nhạy cảm, một sứ kết hợp rất tự nhiên
giữa màu sắc cổ điển và tinh thần thời đại.
Chiều tối giống như bao bài thơ khác, thật nhỏ nhắn trong bố cục nhưng từng câu
từng chữ đều như một nét phác họa bức chân dung con người, tinh thần Hồ Chí
Minh: một tâm hồn nghệ sĩ dạt dào tình yêu với thiên nhiên, con người; một ý chí
sắt đá vượt lên mọi hoàn cảnh, một tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi
sáng. Bức chân dung ấy là sự hòa hợp giữa chất thép và chất tình, thi sĩ và chiến
sĩ, như trong bài “Đọc thơ Bác”, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã viết: “Vần thơ
của Bác, vần thơ thép/ Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.



×