Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.58 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN- TÀI CHÍNH



BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG
KHOÁN VNDIRECT

GVHD:

ThS.



TRƯƠNG

NIỆM
SVTT: Đoàn Thị Thu Hà
MSSV: 2023120313
Lớp: 03DHNH3
Niên khóa 2012-2016

TPHCM Tháng 04/2016


LỜI CÁM ƠN!
Để hoàn thành bài báo cáo một cách tốt nhất, em đã nhận được rất nhiều
sự hỗ trợ, giúp đỡ cũng như những động viên của GVHD Thạc sĩ Lê Trương
Niệm, các anh chị tại Đơn vị thực tập, gia đình và bạn bè.


Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô khoa Tài
chính–Kế toán Trường Đại học CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM Thành phố Hồ
Chí Minh, đặc biệt là Thầy Lê Trương Niệm, giảng viên hướng dẫn đã cho em
những kiến thức căn bản làm nền tảng cho em thực hiện bài báo cáo này đã rất
tận tụy chỉ dạy chúng em, chỉnh sửa các lỗi sai và định hướng cho chúng em đi
đúng đề tài.
Em cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến toàn thể các anh chị đang làm việc tại
Công Ty Cổ phần Chứng Khoán Vndirect chi nhánh TPHCM đã giúp em tạo điều
kiện tốt nhất cho em trong quá trình thực tập.
Do kiến thức còn nhiều hạn chế, thời gian thực tập ngắn hạn, bài báo cáo
của em không tránh được những sai sót. Mong nhận được những ý kiến đóng góp
quý báu của quý Thầy (Cô), quý Công Ty để em hoàn thiện được bài viết tốt hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 04 năm 2016.
Đoàn Thị Thu Hà


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
(GIẢNG VIÊN - TH.S LÊ TRƯƠNG NIỆM)
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................

....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Tp. Hồ Chí Minh, ngày …… tháng 04 năm 2016
Xác nhận của giảng viên


LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Sau khi hội nhập nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế Việt Nam ngày càng
phát triển và khẳng định được uy thế trên thị trường. Để đạt được những thành
tựu phát triển kinh tế chung thì không thể không kể đến sự hội nhập và phát triển
của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong những khó khăn bước đầu của quá trình
hội nhập thì không phải tất cả các doanh nghiệp đều thích nghi và hoạt động
vững mạnh. Điều này được thể hiện qua năng lực tài chính riêng của từng doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải có các
hoạt động: nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích tình hình hiện tại của cả nền
kinh tế, của chính doanh nghiệp, từ đó, vạch ra các chiến lược phát triển ngắn
hạn và dài hạn, nhằm mục đích cuối cùng là tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu.
Một trong những hoạt động cần thiết và quan trọng đó là phân tích tình hình tài
chính và đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, thông qua đó tìm các giải
pháp nâng cao hiệu quả tài chính, cũng như nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh trong tương lai cho doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường tăng trưởng như hiện nay thì bất kỳ doanh
nghiệp nào khi tiến hành đầu tư và sản xuất luôn mong muốn đồng tiền của mình
bỏ ra mang lại lợi nhuận cao nhất. Bên cạnh những lợi thế sẵn có của từng
nghành nghề kinh doanh thì nội lực tài chính của doanh nghiệp là cơ sở đánh giá
xem doanh nghiệp có thực sự vững mạnh để tiếp tục hoạt động kinh doanh hiệu
quả. Việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là thiết yếu, để doanh
nghiệp có thể xem xét, đánh giá được những bất lợi cũng như những nhân tố ảnh

hưởng đến tình hình hoạt động tài chính rồi từ đó để nhà quản trị đưa ra được
những giải pháp, quyết định đúng đắn, kịp thời giúp cho doanh nghiệp ngày càng
hoạt động hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc phân tích còn có ý nghĩa thực tiễn cho các
chủ thể bên ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu tư, nhà cho vay khi có mối
quan hệ hợp tác lâu dài với doanh nghiệp. Chính vì sự quan trọng của việc phân
tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mà em đã chọn đề tài thực tập tốt
nghiệp: “Phân tích tình hình tài chính tại công ty Cổ Phần Chứng Khoán
VNDIRECT”. Bài báo cáo bao gồm những nội dung sau:


+

Chương I: Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính doanh

nghiệp.
+ Chương II: Thực trạng phân tích tình hình tài chính của công ty cổ
phần chứng khoán VNDIRECT.
+ Chương III: Giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả tài chính của
công ty cổ phần chứng khoán VNDIRECT.
2. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu chung
Sau quá trình thực tập, khảo sát thực tế, nêu ra những mặt còn hạn chế về
tình hình hoạt động tài chính của công ty cổ phần chứng khoán VNDIRECT, từ
đó góp ý kiến cho đơn vị khắc phục và phát triển về tình hình tài chính theo mặt
hoàn thiện và tích cực hơn. Từ đó mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả tài
chính cho công ty.
b. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích tình hình về tài sản
- Phân tích tình hình về nguồn vốn
- Phân tích tình hình tài chính thông qua các tỷ số tài chính

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện tình hình tài chính của công ty
3. Phạm vi nghiên cứu và giới hạn của đề tài
a. Về thời gian
Đề tài được thực hiện tại Công Ty Cổ Phần chứng khoán VNDIRECT
b. Về không gian
Số liệu sử dụng để phân tích là số liệu của ba năm 2012-2014
Thời gian nghiên cứu trong khoảng từ đầu tháng 2/2016 đến tháng 3/2016
Cùng với những tìm tòi và khảo sát thực tế trong mấy tháng qua. Em hy
vọng bài báo cáo này sẽ góp được một phần nhỏ nhoi cho việc nâng cao hiệu quả
tài chính tại Công Ty Cổ Phần Chứng Khoán VNDIRECT. Mặc dù với khả năng
không ngừng học hỏi và cố gắng hết mình, nhưng với những nội dung, kiến thức
sâu rộng, cũng như trong quá trình thực hiện, thu thập số liệu không tránh khỏi
những thiếu sót, bài báo cáo này chắc hẳn còn nhiều khiếm khuyết. Em rất mong
nhận được sự góp ý của Quý Thầy Cô để bài báo cáo của em được hoàn thiện
hơn.
c. Đối tượng nghiên cứu


Tình hình tài chính của Công Ty Cổ Phần Chứng Khoán VNDIRECT


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1.
1.1.1.

Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp

Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp

Phân tích tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung phân tích
hoạt động doanh nghiệp. Nó là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công
cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong
quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính khả năng và tiềm lực của
doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin có thể đi sâu nghiên cứu nội
dung, kết cấu và mối ảnh hưởng qua lại của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính để
có thể đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua việc so sánh với các
mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra hoặc so với các doanh nghiệp cùng nghành
nghề, từ đó đưa ra quyết định tài chính và các giải pháp quản lý phù hợp.
1.1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích chi phí, giá thành và kết quả kinh doanh: Đánh giá kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp qua tốc độ tăng (giảm), xu hướng biến động của các chỉ
tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp, mức độ hiệu quả và hợp lý
trong việc tiết kiệm chi phí…
Phân tích cơ cấu tài chính: Đánh giá tính hợp lý trong việc phân bổ nguồn
lực về cơ cấu nguồn vốn huy động hay còn gọi là cơ cấu tài chính qua việc xem
xét biến động nguồn vốn, sử dụng vốn, vốn lưu động và nguồn tài trợ vốn lưu
động.
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: Mục tiêu cuối cùng của
doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính quan trọng mà tất cả
các chủ thể có liên quan đến doanh nghiệp đều quan tâm. Tuy nhiên, dưới góc độ
tài chính phải xem xét lợi nhuận trong mối quan hệ với các nguồn lực mà doanh
nghiệp đã sử dụng để tạo ra lợi nhuận như: tài sản, vốn chủ sở hữu…
Phân tích khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán thể hiện mức độ đáp
ứng cho việc chi trả các khoản vay, nợ trong ngắn hạn và dài hạn. Xem xét khả
năng thanh toán trong ngắn hạn và dài hạn. Xem xét khả năng thanh toán trong
ngắn hạn để thấy được mức độ linh hoạt của doanh nghiệp trong việc chi trả các
khoản nợ ngắn hạn, đồng thời đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp
trong dài hạn để thấy được sự vững vàng của doanh nghiệp trong sử dụng vốn
vay.

Phân tích lưu chuyển tiền tệ: Tập trung vào việc xem xét tình hình biến
động các dòng tiền, qua đó đánh giá khả năng tạo tiền từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, khả năng hoàn trả vốn vay và khả năng chi trả cổ tức bằng tiền của doanh
nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đánh giá trên cơ sở chênh
lệch thu chi từ hoạt động kinh doanh thể hiện trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Các nguồn tài trợ vốn được sử dụng cho những mục đích nào cũng được thể hiện
trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ giúp
người phân tích hiểu rõ được tình hình tài chính của công ty hơn, để có thể đưa ra
những quyết định kinh tế và quản lý phù hợp hơn.


1.1.3.

Mục đích phân tích tài chính doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm
trong thể tác động lien hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế
trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về
trình độ hoàn thành các mục tiêu-biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ
thuật tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước
pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều có rất nhiều đối tượng quan
tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung
cấp,…Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên
những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra
dòng tiền, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. Bởi
vậy phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu
sau:
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ những thông tin hữu
ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác để họ

có thể ra các quyết định đầu tư, tín dụng và các quyết định tương tự.
Thông tin phải dễ hiểu đối với những người có một trình độ tương đối
về kinh doanh và về các hoạt động về kinh tế mà muốn nghiên cứu các
thông tin này.
- Phân tích tình hình tài chính cũng nhằm cung cấp thông tin quan trọng
nhất cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người
sử dụng khác đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của những khoản
thu bằng tiền từ cổ tức hoặc tiền lãi. Vì các dòng tiền của các nhà đầu
tư lien quan với các dòng tiền của doanh nghiệp nên quá trình phân
tích phải cung cấp thông tin để giúp họ đánh giá số lượng, thời gian và
rủi ro của các dòng tiền thu thuần dự kiến của doanh nghiệp.
- Phân tích tình hình tài chính cũng phải cung cấp tin về các nguồn lực
kinh tế, vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các
tình huống làm biến đổi các ngồn vốn và các khoản nợ của doanh
nghiệp. Đồng thời qua đó cho biết thêm nghĩa vụ của doanh nghiệp đối
với các nguồn lực này và các tác động của những nghiệp vụ kinh tế,
giúp cho chủ doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình phát triển
doanh nghiệp trong tương lai.
Qua đó cho thấy, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là quá
trình kiểm tra, đối chiếu số liệu, so sánh số liệu về tài chính thực có của doanh
nghiệp với quá khứ để định hướng trong tương lai. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ
mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý doanh nghiệp và tìm ra các biện pháp
xác thực để tăng cường các hoạt động kinh tế và còn là căn cứ quan trọng phục
vụ cho việc dự đoán, dưj báo xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.

1.1.4.

Ý nghĩa phân tích tài chính doanh nghiệp



Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một công việc có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong công tác quản trị doanh nghiệp. Nó không chỉ có ý nghĩa
đối với bản thân doanh nghiệp mà còn cần thiết cho các chủ thể quản lý khác có
liên quan đến doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ giúp cho nhà quản trị
khắc phục được những thiếu xót, phát huy những mặt tích cực và dự đoán được
tình hình phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Trên cơ sở đó nhà quản trị
doanh nghiệp đề ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm lựa chọn quyết định
phương án tối ưu cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ giúp cho nhà quản trị thấy
được những nét sinh động về tài chính của mình được thể hiện qua các khía cạnh
sau:
- Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực các thông tin tài chính cần thiết cho chủ
doanh nghiệp và các nhà đầu tư, các nhà cho vay, các khách hàng, các cổ đông…
- Cung cấp thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động nguồn vốn, khả
năng sinh lời và hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Cung cấp thông tin về tình hình công lợ, khả năng thu hồi các khoản phải thu,
khả năng thanh toán khoản phải trả cũng như các nhân tố khác ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.5. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính là hoạt động có ý thức của con người, hoạt động này
ngày càng phát triển và yêu cầu hiệu quả ngày càng cao để doanh nghiệp có thể
tồn tại trong môi trường cạnh tranh và toàn cầu hóa. Yêu cầu này đòi hỏi các nhà
quản lý doanh nghiệp phải tổ chức ghi chép, phản ánh, phân tích và đánh giá mọi
khía cạnh của hoạt động tài chính.
Nếu một doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh tốt qua chất lượng sản phẩm
và dịch vụ, có chiến lược kinh doanh tốt và không ngừng gia tăng doanh thu,
nhưng nếu không có cơ chế quản lý tài chính tốt thì cũng không thể đạt được
mục tiêu cuối cùng trong kinh doanh là gia tăng lợi nhuận, gia tăng giá trị công

ty. Phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ giúp các nhà quản lý thấy được những tồn
tại trong cơ cấu tài chính, trong việc quản lý tài sản, quản lý chi phí để từ đó đưa
ra những giải pháp quản lý tài chính hiệu quả.
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh
doanh, cho nên tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến
tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác
động thúc đẩy hoặc kiềm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy,
phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
bản thân chủ doanh nghiệp, trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp, trong
hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các
doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp
luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và các đối tượng bên
ngoài có liên quan đến tài chính doanh nghiệp. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng
quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như : chủ doanh nghiệp, nhà
cho vay, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng... kể cả các cơ quan Nhà nước và
người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp trên các góc độ khác nhau.


Đối với nhà quản trị doanh nghiệp
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm
kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt
các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả
năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động.
Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt, kinh doanh có lãi và thanh toán nợ
khi các quyết định của nhà quản trị được đưa ra là đúng đắn. Các hoạt động
nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân tích tài chính nội bộ.
Do đó thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh nghiệp nhằm thực hiện việc cân bằng
tài chính cũng như đánh giá tình hình tài chính đã qua để tiến hành cân đối vốn,
phân tích khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của

doanh nghiệp hay có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh
lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai, thì các nhà quản trị trong doanh
nghiệp có nhiều lợi thế để có thể thực hiện phân tích tài chính một cách tốt. Từ
đó, họ có thể định hướng cho giám đốc tài chính cũng như hội đồng quản trị
trong các quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự
báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt
động quản lý.
Đối với các nhà cho vay
Mối quan tâm của họ hướng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Qua
việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, họ đặc biệt chú ý tới số
lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể so
sánh được và biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Giả sử đối với ngân hàng khi cho vay các doanh nghiệp cũng phải dựa
trên kết quả phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, khả năng thanh
toán và tình hình tài chính của doanh nghiệp để giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động tín dụng. Nếu cho vay mà chỉ căn cứ vào tài sản đảm bảo thì hiệu quả cho
vay và chất lượng tín dụng không thể cải thiện được, vì tài sản đảm bảo không
phải là nguồn trả nợ chủ yếu mang lại từ những khoản vay có hiệu quả.
Đối với các nhà đầu tư
Phân tích tài chính doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong quá
trình ra quyết định đầu tư và lựa chọn danh mục đầu tư. Mối quan tâm của các
nhà đầu tư chủ yếu vào khả năng hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán
vốn và sự rủi ro. Vì thế, mà họ cần những thông tin về điều kiện tài chính lành
mạnh, tình hình sản xuất kinh doanh, về kết quả đánh giá hiệu quả hoạt động và
các tiềm năng của doanh nghiệp cũng như triển vọng phát triển để làm cơ sở cho
việc phân tích nhằm đưa ra quyết định đầu tư của mình.
Đối với nhà nước
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp rất cần thiết đối với nhà nước
trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế. Dựa vào các báo cáo tài chính doanh
nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước thực hiện phân tích tài chính để đánh

giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của
doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định
không, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng. Việc phân tích
này còn giúp nhà nước đánh gía được những tác động của cơ chế, các chính sách
quản lý tài chính của nhà nước đối với các doanh nghiệp hoặc thông qua đó đánh


giá hiệu quả doanh nghiệp trong nền kinh tế để có các cơ sở điều chỉnh và hoàn
thiện, không ngừng nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý tài chính của nhà nước đối
với các doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
Đối với người lao động trong doanh nghiệp
Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư,… người lao động cũng quan
tâm tới các thông tin tài chính doanh nghiệp bởi nó liên quan đến quyền lợi và
trách nhiệm của họ gắn với doanh nghiệp. Vì kết quả hoạt động của doanh
nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao
động. Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp
vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ
doanh nghiệp.
1.1.6. Nhiệm vụ của phân tích tài chính doanh nghiệp
Nhiệm vụ của việc phân tích tài chính doanh nghiệp là việc cung cấp
những thông tin chính xác về mọi mặt tài chính của doanh nghiệp bao gồm:
- Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và kết
quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán, khả năng
thanh toán
- Đánh giá tình hình nguồn vốn, quản lý và phân phối vốn
- Tìm ra được các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tài chính và đề ra các
biện pháp phù hợp nhằm khắc phục những tồn tại hoặc tiếp tục phát huy,
không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra nhiệm vụ của phân tích tài chính doanh nghiệp phải được xác
định trên cơ sở mục đích yêu cầu của phân tích. Có rất nhiều nhóm chủ thể khác

nhau có nhu cầu phân tích tài chính doanh nghiệp, có thể chia thành hai nhóm là
những người quản trị doanh nghiệp và những người bên ngoài doanh nghiệp.
Đối với những người quản trị doanh nghiệp
Nhiệm vụ phân tích tài chính doanh nghiệp là phải phát hiện những tồn
tại trong quá trình quản lý tài chính của mình, từ đó có những giải pháp cụ thể
trong kế hoạch tài chính nhằm đạt được mục tiêu tăng giá trị công ty.
Đối với các chủ thể bên ngoài doanh nghiệp
Nhiệm vụ phân tích tài chính doanh nghiệp đối với nhà đầu tư là phải đưa
ra những đánh giá đúng về tình hình cơ cấu tài chính công ty. Trên cơ sở phân
tích tình hình tài chính để thấy được những nhân tố khách quan, chủ quan, cơ
bản hay không cơ bản ảnh hưởng đến kết quả tài chính của công ty để đưa ra
quyết định đầu tư phù hợp.
Còn đối với chủ nợ, nhiệm vụ của phân tích tài chính doanh nghiệp là
đánh giá được khả năng thanh toán của doanh nghiệp thông qua cơ cấu tài
chính, qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ, qua các hệ số hoạt động, hay căn cứ vào
khả năng sinh lời của vốn để đánh giá xem doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu
quả không. Để từ đó giảm thiểu được rủi ro tín dụng cùng với khả năng trả nợ
trong dài hạn của doanh nghiệp cho chủ nợ.
1.1.7. Giới thiệu hệ thống báo cáo tài chính
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, nhà phân tích phải thu thập, sử
dụng mọi nguồn thông tin, số liệu là cơ sở để phân tích để có thể đưa ra được
những nhận xét, kết luận chính xác và tinh tế nhằm mục đích đánh giá tình hình
tài chính và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, lượng hóa được tác động của


các nhân tố tới tình hình, kết quả tài chính rồi sau đó lập ra kế hoạch và biện
pháp quản lý phù hợp . Vì vậy, có thể nói các thông tin, số liệu kế toán trong nội
bộ doanh nghiệp là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá một cách cơ bản tình hình
tài chính của doanh nghiệp. Nguồn thông tin, số liệu kế toán được phản ánh khá
đầy đủ trong hệ thống các báo cáo tài chính kế toán, bao gồm:

- Bảng cân đối kế toán
- Bảng báo cáo kết quả kinh doanh
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Bảng thuyết minh báo cáo tài chính
Theo chế độ hiện hành ngày nay, các doanh nghiệp thuộc hoạt động kinh
doanh có trách nhiệm phải công khai báo cáo tài chính năm trong Bảng công
khai báo cáo tài chính. Bảng công khai báo cáo tài chính bao gồm các thông tin
liên quan đến tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh. Các báo cáo tài
chính đã qua kiểm toán sẽ có giá trị hơn một báo cáo tài chính chưa được kiểm
toán. Tuy nhiên, nhà phân tích cần lưu ý đến uy tín doanh nghiệp cũng như đọc
hết toàn bộ báo cáo kiểm toán để biết chắc rằng báo cáo tài chính được chấp
nhận toàn bộ hay chỉ được chấp nhận từng phần.
1.1.7.1. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp mô tả tình trạng
tài chính của một doanh nghiệp, phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có và
nguồn vốn hình thành nên các tài sản đó tại một thời điểm cụ thể. Bảng cân đối
kế toán có các đặc điểm cơ bản:
- Được xác định trên cơ sở số dư của các tài khoản nguồn vốn và tài sản
của doanh nghiệp tại thời điểm cuối kỳ kế toán.
- Phản ánh tình hình cơ cấu nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp tại một
thời điểm xác định, do đó có thể xem bảng cân đối kế toán là một bức ảnh
chụp nhanh về cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng,
không thể thiếu đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và
quan hệ quản lý với doanh nghiệp trong việc tiến hành phân tích cơ cấu tài
chính . Kết cấu của bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần: tài sản và
nguồn vốn
Bên tài sản phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập
báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: Tài sản cố định; Tài
sản lưu động.

Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản có của
doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: Vốn của chủ và các khoản nợ.
Các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng
chuyển hoá thành tiền – tính thanh khoản – giảm dần từ trên xuống.
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản;
bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về
tài chính của doanh nghiệp.
Nhìn vào Bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại
hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ của doanh nghiệp. Bảng cân đối tài
sản là một tài liệu quan trọng nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả


năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh
nghiệp.
1.1.7.2. Bảng báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh hay báo cáo thu nhập cũng là một trong
những tài liệu quan trọng trong phân tích tài chính doanh nghiệp, nó tóm tắt lợi
nhuận của một công ty trong một thời đoạn cụ thể (như một năm) và trình bày
doanh thu tạo ra trong kỳ hoạt động, chi phí phát sinh trong kỳ, thu nhập ròng
hay lợi nhuận của công ty, bằng chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Báo cáo
này cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của
doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong
tương lai. Ngoài ra nó còn giúp các nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền
thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số
tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có
thể xác định được kết quả hoạt động kinh doanh là lỗ hay lãi trong một thời kỳ.
Như vậy, Báo cáo kêt quả kinh doanh đánh giá hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời kỳ nhất
định. Nó cung cấp nhiều thông tin tổng hợp hữu ích cho việc đánh giá hiệu quả
hoạt động sản xuất cũng như để tạo lợi nhuận. Có thể đó là một vài thông tin về

tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật và
trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, hay các yếu tố có ảnh
hưởng quyết định tới khả năng hoàn trả vốn gốc và lãi vay,.. Đồng thời, khi phân
tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta có những nhận định sâu sắc
và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.1.7.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Báo cáo ngân lưu)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính phản ánh các dòng tiền thu
chi của doanh nghiệp trong một thời kỳ cụ thể.
Báo cáo này chỉ hạch toán những giao dịch trong đó có trao đổi tiền mặt,
cung cấp thông tin về những sự kiện và nghiệp vụ kinh tế có ảnh hưởng đến tình
hình tiền tệ của doanh nghiệp. Những dữ liệu lưu chuyển tiền tệ rất hữu ích trong
việc đánh giá các dòng tiền trong tương lai, việc xác định mối tương quan giữa
lợi nhuận ròng và khấu hao với lưu chuyển tiền tệ ròng từ hoạt động kinh doanh,
việc đánh giá khả năng chi trả cổ tức, thanh toán các khoản nợ vay và sự tăng
trưởng tài chính từ các hoạt động nội tại của một doanh nghiệp.
Các thông tin trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho thấy mục đích sử dụng
tiền của công ty trong kỳ báo cáo, cũng như có thể cho thấy được một cách tương
đối rõ ràng các nguồn tiền doanh nghiệp có được trong kỳ báo cáo, nguồn tiền có
được trong kỳ là từ hoạt động kinh doanh hay tiền có được từ việc bán các tài sản
cố định, thu hồi các khoản đầu tư từ tài chính,…
Để đánh giá về khả năng chi trả của một doanh nghiệp cần tìm hiểu về
tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp, bao gồm:
- Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ ( thu ngân quỹ ): dòng tiền
nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu
tư tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
- Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ ( chi ngân quỹ ) : dòng tiền
xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt


động đầu tư, tài chính; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất

thường.
Trên cơ sở dòng tiền nhập và xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối
ngân quỹ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, thiết lập mức dự phòng tối
thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
1.1.7.4. Bảng thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính sẽ cung cấp bổ sung cho các nhà quản lý
những thông tin chi tiết, cụ thể hơn về một số tình hình liên quan đến hoạt động
kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ngày nay thuyết minh báo cáo
tài chính vẫn chưa thực sự phổ biến, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và
vừa thường không áp dụng.
1.2.
1.2.1.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được thu thập qua các báo cáo tài chính, tài liệu của cơ quan thực
tập. Ngoài việc thu thập số liệu trong công ty, đề tài nghiên cứu còn thu thập
thông tin từ báo cáo, tạp chí và internet có lien quan đến nghành nghề kinh doanh
của công ty.
1.2.2. Các phương pháp phân tích cấu trúc tài chính
Phân tích cấu trúc tài chính là phân tích tình hình huy động, sử dụng vốn
và mối quan hệ giữa tình hình huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phân
tích cấu trúc tài chính của doanh nghiệp giúp các nhà quản trị có thông tin xây
dựng cơ cấu tài sản và nguồn vốn hợp lý lành mạnh, hiệu quả, tránh được những
rủi ro tài chính.


1.2.2.1.


1.2.2.2.

1.2.2.3.

Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp phân tích chủ yếu được dung trong
phân tích. Để đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần
phải so sánh chỉ tiêu phân tích với các chỉ tiêu tương ứng của quá khứ, của kế
hoạch hoặc của các doanh nghiệp khác cùng nghành nghề, mỗi cơ sở so sánh sẽ
cho những kết quả đánh giá khác nhau về thực trạng của chỉ tiêu phân tích. Các
số liệu dung làm cơ sở để so sánh được gọi là số liệu kỳ gốc.
Việc xác định số gốc để so sánh tùy thuộc vào mục đích cụ thể của phân
tích
- Về mặt không gian: đơn vị này với đơn vị khác
- Về mặt thời gian: hiện tại với quá khứ
Phương pháp so sánh đòi hỏi các chỉ tiêu phân tích và các chỉ tiêu dung
làm cơ sở so sánh phải có những điều kiện sau:
- Phải thống nhất nhau về nội dung phản ánh và phương pháp tính toán
- Phải được xác định trong cùng độ dài thời gian hoặc những thời điểm
tương ứng.
- Phải có cùng đơn vị tính
Kỳ phân tích được chọn là kỳ thực hiện, kỳ kế hoạch hoặc kỳ kinh doanh
trước. Giá trị so sánh có thể chọn là số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân.
- So sánh bằng số tuyệt đối: A1 – A0
- So sánh bằng số tương đối: A1 x 100 (%)
A0
Giá trị phân tích
- Biến động số tiền = Giá trị kỳ phân tích – Giá trị kỳ gốc (đvt tiền tệ)
- Tỷ lệ biến động = Biến động số tiền x 100 (%)
Giá trị kỳ gốc

Phương pháp loại trừ
Là phương pháp dùng để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến
chỉ tiêu phân tích trong trường hợp các nhân tố có mối quan hệ với chỉ tiêu phân
tích dưới dạng một tích số.
Phương pháp loại trừ yêu cầu trình tự xác định mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố phải theo đúng thứ tự từ nhân tố số lượng đến nhân tố chất lượng. Vì vậy,
trong công thức xác định mối quan hệ của các nhân tố với chỉ tiêu phân tích, ta
cần phân biệt nhân tố số lượng và nhân tố chất lượng. Tuy nhiên việc phân biệt
nhân tố số lượng và chất lượng chỉ mang tính chất tương đối mà thôi, vì khi xét
mối quan hệ từ ba nhân tố trở lên thì có những nhân tố trung gian, có lúc nó đóng
vai trò là nhân tố số lượng nhưng có lúc lại là nhân tố số lượng.
Phương pháp cân đối liên hệ
Các báo cáo tài chính đều có đặc trưng chung là thể hiện tính cân đối, cân
đối giữa tài sản và nguồn vốn; cân đối giữa doanh thu, chi phí và kết quả; cân đối
giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra; cân đối giữa tăng và giảm… Dựa vào những
cân đối này, trong phân tích tài chính thường vận dụng phương pháp cân đối liên
hệ để xem xét ảnh hưởng của từng nhân tố đến biến động của chỉ tiêu phân tích.
Như vậy, dựa vào biến động của từng bộ phận mà chỉ tiêu phân tích sẽ được đánh
giá đầy đủ hơn.


1.2.2.4.

Phương pháp phân tích tài chính Du Pont
Bản chất của phương pháp DUPONT là tách một tỷ số tổng hợp phản
ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản ( ROA ), thu nhập
sau thuế trên vốn chủ sở hữu ( ROE ) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối
quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số
đó đối với tỷ số tổng hợp.
Phương pháp phân tích DUPONT là phân tích tổng hợp tình hình tài chính

của doanh nghiệp. Thông qua quan hệ của một số chỉ tiêu chủ yếu để phản ánh
thành tích tài chính của doanh nghiệp một cách trực quan, rõ ràng. Thông qua
việc sử dụng phương pháp phân tích DUPONT để phân tích từ trên xuống không
những có thể tìm hiểu được tình trạng chung của tài chính doanh nghiệp, cùng
các quan hệ cơ cấu giữa các chỉ tiêu đánh giá tài chính, làm rõ các nhân tố ảnh
hưởng làm biến động tăng giảm của các chỉ tiêu tài chính chủ yếu, cùng các vấn
đề còn tồn tại mà còn có thể giúp các nhà quản lý doanh nghiệp làm ưu hoá cơ
cấu kinh doanh và cơ cấu hoạt động tài chính, tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu
quả tài chính doanh nghiệp.
Trong quá trình phân tích có thể thực hiện tách các chỉ tiêu ROE và ROA
như sau:
ROE = TNST / VCSH = (TNST / TS) x (TS / VCSH) = ROA x EM
ROA = TNST / TS = (TNST / DT) x (DT / TS) = PM x AU
 ROE = PM x AU x EM
Trong đó:
ROE:
Doanh lợi vốn chủ sở hữu
TNST: Thu nhập sau thuế
VCSH: Vốn chủ sở hữu
TS:
Tài sản
ROA: Doanh lợi tài sản
EM:
Số nhân vốn
PM:
Doanh lợi tiêu thụ
AU:
Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Như vậy, phương pháp Dupont giúp nhà phân tích nhận biết được các yếu
tố cơ bản tác động tới ROE của một doanh nghiệp là: khả năng tăng doanh thu;

công tác quản lý chi phí; quản lý tài sản và đòn bẩy tài chính.

1.3.
Những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính
1.3.1. Phân tích khái quát cơ cấu nguồn tài sản và nguồn vốn

doanh nghiệp

Mục đích phân tích khái quát cơ cấu tài sản và nguồn vốn giúp người phân
tích thấy được tỷ trọng của các yếu tố tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp,
trong đó doanh nghiệp sử dụng vốn đầu tư chủ yếu vào những tài sản nào và
nguồn vốn nào là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp đang sử dụng.
Cơ cấu tài sản của một doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm nghành
nghề kinh doanh, trình độ quản lý và đầu tư của doanh nghiệp.
Tỷ trọng các tài sản ngắn hạn khác cao là một biểu hiện không tốt, vì đa
số các yếu tố trong phần tài sản khác là những yếu tố chi phí đã chi và sẽ được
phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ tới.
Một doanh nghiệp có tỷ trọng vốn chủ sở hữu cao là biểu hiện một cơ cấu
tài chính mạnh và ổn định, rủi ro thanh toán thấp và trách nhiệm của chủ sở hữu


trong hoạt động của doanh nghiệp cao. Một doanh nghiệp có tỷ lệ lợi nhuận giữ
lại hàng năm cao sẽ duy trì tỷ lệ vốn đầu tư của chủ sở hữu phù hợp với tốc độ
tăng trưởng quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tỷ trọng nợ ngắn hạn cao cho thấy doanh nghiệp có rủi ro thanh toán cao.
Nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn sẽ là một áp lực lớn trong các chính
sách tài chính của doanh nghiệp, nhưng khả năng dẫn đến việc doanh nghiệp phải
hy sinh mục tiêu sinh lời nhằm duy trì khả năng thanh toán sẽ rất dễ xảy ra và
điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động và sự tồn tại của doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp có tỷ trọng các khoản phải trả cao thể hiện doanh

nghiệp chiếm dụng vốn lớn, tiết kiệm được nguồn vốn huy động từ nợ vay và
vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên cũng cần lưu ý về tư cách tín dụng của doanh nghiệp.
Các khoản phải trả của doanh nghiệp còn trong thời hạn thanh toán hay quá hạn
dẫn đến tình trạng nợ nần dây dưa.
Các vấn đề cơ bản cần quan tâm khi phân tích bảng cân đối kế toán là:
- Sự biến động của từng loại tài sản và tổng tài sản. Từ đó ta có thể đánh
giá được quy mô và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cơ cấu vốn và tác động của cơ cấu vốn lên quá trình hoạt động kinh
doanh.
- Mức độ độc lập hoặc phụ thuộc của doanh nghiệp về mặt tài chính.
- Sự cân đối trong mối liên hệ giữa chi tiêu và những khoản mục.
- Phân tích và đánh giá tình hình chi tiêu, khả năng thanh toán cũng như
cấu trúc tài chính của đối tượng.
1.3.2. Phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản với nguồn vốn
Mối quan hệ cân đối giữa tài sản với nguồn vốn thể hiện sự tương quan về
giá trị tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Mối quan hệ cân đối này giúp nhà phân tích phần nào nhận thức được sự
hợp lý giữa nguồn vốn doanh nghiệp huy động và việc sử dụng chúng trong đầu
tư, mua sắm, dự trữ, sử dụng có hợp lý, hiệu quả hay không. Mối quan hệ cân đối
này được thể hiện qua sơ đồ sau:
Vốn bằng tiền
Đầu tư tài chính ngắn hạn
Nợ phải thu
Nợ ngắn hạn + Vốn chủ sở hữu
Hàng tồn kho
Tài sản lưu động khác
Tài sản cố định
Đầu tư tài chính dài hạn
Nợ dài hạn + Vốn sở hữu
Xây dựng cơ bản dở dang

Ký quỹ, ký cược dài hạn
Nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn là điều hợp lý vì dấu hiệu này
thể hiện doanh nghiệp giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn
hạn, sử dụng đúng mục đích nợ ngắn hạn. Đồng thời, nó cũng chỉ ra một sự hợp
lý trong chu chuyển tài sản ngắn hạn và kỳ thanh toán nợ ngắn hạn. Ngược lại,
nếu tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn hạn điều này chứng tỏ doanh nghiệp
không giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn với nợ ngắn hạn vì xuất


hiện dấu hiệu doanh nghiệp đã sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn vào tài sản
dài hạn. Mặc dù nợ ngắn hạn có khi do chiếm dụng hợp pháp hoặc có mức lãi
thấp hơn lãi nợ dài hạn tuy nhiên chu kỳ luân chuyển tài sản khác với chu kỳ
thanh toán cho nên dễ dẫn đến những vi phạm nguyên tắc tín dụng và có thể đưa
đến một hệ quả tài chính xấu hơn.
Nếu tài sản dài hạn lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù đắp từ
vốn chủ sở hữu thì đó là điều hợp lý vì nó thể hiện doanh nghiệp sử dụng đúng
mục đích nợ dài hạn là cả vốn chủ sở hữu, nhưng nếu phần thiếu hụt được bù đắp
từ nợ ngắn hạn là điều bất hợp lý như trình bày ở phần cân đối giữa tài sản ngắn
hạn và nợ ngắn hạn. Nếu phần tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn điều này chứng
tỏ một phần nợ dài hạn đã chuyển vào tài trợ tài sản ngắn hạn. Hiện tượng này
vừa làm lãng phí chi phí lãi vay nợ dài hạn vừa thể hiện sử dụng sai mục đích nợ
dài hạn. Điều này có thể dẫn đến lợi nhuận kinh doanh giảm và những rối loạn tài
chính doanh nghiệp.
Ngoài ra, khi phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
chúng ta cần chú trọng đến nguồn vốn lưu động thường xuyên. Nguồn vốn lưu
động thường xuyên không những biểu hiện quan hệ giữa cân đối giữa tài sản với
nguồn vốn mà nó còn có thể cho chúng ta nhận thức được những dấu hiệu tình
hình tài chính trong sử dụng tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp.
Quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp phải hình thành nên phần dư
ra giữa tài sản ngắn hạn so với nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn phải

lớn hơn tài sản dài hạn mới đảm bảo cho hoạt động thường xuyên, phù hợp với
sự hình thành, phát triển và mục đích sử dụng vốn. Phần chênh lệch này gọi là
vốn lưu động thường xuyên.
1.3.3. Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Thông qua kết quả hoạt động kinh doanh, cụ thể là tình hình doanh thu,
các khoản chi phí và lợi nhuận thu về của doanh nghiệp, ta có thể biết được hiệu
quả hoạt động cũng như khả năng phát triển của họ.
Các vấn đề cần nghiên cứu khi phân tích kết quả kinh doanh là:
- Đánh giá sự biến thiên trên từng chỉ tiêu trên các khoản lãi, lỗ qua các
năm. Sau đó, quan tâm đến phần doanh thu, doanh thu thuần, các khoản lợi nhận
gộp, lợi nhuận thuần, lợi nhuận trước và sau thuế.
- Tính toán và phân tích cụ thể các chỉ tiêu, từ đó khái quát mức độ chi
tiêu và kết quả kinh doanh của công ty.


1.3.4.

Phân tích các chỉ số tài chính của công ty
Các nhà phân tích tài chính tính toán một vài chỉ số tài chính chủ yếu để
đo lường thành quả của công ty.
Các chỉ số tài chính này không thể thay thế cho quả cầu pha lê nhưng
chúng có thể giúp bạn đưa ra những câu hỏi đúng. Giả dụ, giám đốc tài chính có
thể dự kiến một vài câu hỏi về chỉ số nợ của công ty và phần lợi nhuận giảm do
lãi vay. Tương tự, các chỉ số tài chính có thể cảnh giác giám đốc về các lĩnh vực
khó khăn tiềm ẩn. Nếu một chi nhánh có tỷ suất sinh lợi trên vốn thấp bạn có thể
đoán chắc rằng giám đốc sẽ yêu cầu chi nhánh này phải giải thích.
Hầu hết các tỉ số tài chính đều có những cái tên mô tả cho người sử dụng
nhận biết được làm thế nào để tính toán các tỷ số ấy hoặc làm thế nào để có thể
hiểu được lượng giá trị của nó.
Các loại tỷ số tài chính quan trọng nhất là:

- Tỷ số thanh toán đo lường khả năng thanh toán của công ty.
- Tỷ số hoạt động đo lường mức độ hoạt động liên quan đến tài sản của
công ty.
- Tỷ số đòn bẩy cho thấy việc sử dụng nợ của công ty có ảnh hưởng như thế
nào đến hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Tỷ số sinh lợi biểu hiện khả năng tạo lãi của tài sản và vốn chủ sở hữu.
- Tỷ số giá trị thị trường cho thấy công ty được nhà đầu tư đánh giá như thế
nào.
Chúng ta sẽ phân tích các tỷ số trên và sử dụng số liệu trên bảng cân đối
kế toán và báo cáo thu nhập của công ty VND để tính toán.
a. Các tỷ số thanh khoản – Đánh giá năng lực thanh toán
Năng lực thanh toán của doanh nghiệp là năng lực trả được nợ đáo hạn
của các loại tiền nợ của doanh nghiệp, là một tiêu chí quan trọng phản ánh tình
hình tài chính và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá một mặt quan
trọng về hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, thông qua việc đánh giá và phân
tích về mặt này có thể thấy rõ những rủi ro tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính thấp không những chứng tỏ doanh nghiệp bị căng
thẳng về tiền vốn, không có đủ tiền để chi tiêu trong việc kinh doanh hàng ngày,
mà còn chứng tỏ sự quay vòng của đồng vốn không nhanh nhạy, khó có thể thanh
toán được các khoản nợ đến hạn, thậm chí doanh nghiệp có thể đứng trước nguy
cơ bị phá sản. Vì trong quá trình kinh doanh, chỉ cần mức thu lợi của tiền đầu tư
lớn hơn lãi suất vốn vay sẽ có lợi cho cổ đông nhưng vay nợ quá nhiều sẽ làm
tăng rủi ro của doanh nghiệp. Vay vốn để kinh doanh có thể làm tăng lợi nhuận
của cổ phiếu từ đó làm tăng giá trị cổ phần của doanh nghiệp, nhưng rủi ro tăng
lên thì trên mức độ nào đó cũng làm giảm giá trị cổ phần.
Năng lực thanh toán của doanh nghiệp gồm: thanh toán nợ ngắn hạn và
thanh toán nợ dài hạn, trong đó nợ trung và dài hạn chủ yếu là cùng tiền lãi trong
quá trình kinh doanh để thanh toán. Nợ ngắn hạn chủ yếu là trông vào năng lực
lưu động và tài sản lưu động của doanh nghiệp làm đảm bảo. Việc đánh giá năng
lực thanh toán của doanh nghiệp phải bao gồm cả hai mặt: đánh giá năng lực

thanh toán nợ ngắn hạn và năng lực thanh toán nợ dài hạn.


Năng lực thanh toán nợ ngắn hạn là năng lực chi trả các khoản nợ ngắn
hạn. Các khoản nợ ngắn hạn còn được gọi là các khoản nợ lưu động, tức là các
khoản nợ có thời hạn trong vòng một năm. Loại nợ này phải thanh toán bằng tiền
mặt hoặc các tài sản lưu động khác. Các khoản nợ này có rủi ro cao đối với tài
chính của doanh nghiệp. Nếu không thanh toán đúng hạn thì sẽ làm cho doanh
nghiệp phải đứng trước nguy cơ vỡ nợ. Trong Bảng cân đối tài sản, các khoản nợ
ngắn hạn và tài sản lưu động có quan hệ đối ứng, phải dùng tài sản lưu động để
đối phó với các khoản nợ ngắn hạn.
a1. Tỷ số luân chuyển tài sản lưu động - Khả năng thanh toán hiện hành ( The
current ratio – Rc )
Công thức tính:
Rc = Tài sản lưu động / Các khoản nợ ngắn hạn
Trong đó, tài sản lưu động bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ ( tồn kho ). Còn nợ ngắn hạn bao
gồm: các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác. Cả tài
sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời gian nhất định - thường là một năm.
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán
ngắn hạn của doanh nghiệp, cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn
hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một giai
đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Tỷ số này có được chấp thuận hay không tuỳ thuộc vào sự so sánh với giá
trị trung bình của ngành và so sánh với các tỷ số của năm trước.
Khi giá trị của tỷ số này giảm có nghĩa là khả năng trả nợ của doanh
nghiệp giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tài chính tiềm tàng.
Ngược lại, khi giá trị của tỷ số này cao hơn, có nghĩa là khả năng thanh toán nợ
của doanh nghiệp tăng, là dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, khi giá trị của tỷ số

này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu
động. Điều này có thể do sự quản trị tài sản lưu động còn chưa hiệu quả nên còn
quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi hoặc do quá nhìều nợ phải đòi v.v…làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp. Nói chung, tỷ số luân chuyển tài sản lưu động hay tỷ số
thanh toán hiện hành trong khoảng 1 – 2 là vừa, nhưng trong thực tế khi phân
tích tỷ số này cần kết hợp với đặc điểm ngành nghề khác nhau và các yếu tố khác
như: cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp, năng lực biến động thực tế của tài
sản lưu động. Có ngành có tỷ số này cao, nhưng cũng có ngành nghề có tỷ số này
thấp, không thể nói chung chung được và cũng không thể dựa vào kinh nghiệm
được….
Ngoài ra, khi đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến
hạn, chúng ta cần phải quan tâm đến chỉ tiêu: Vốn lưu động ròng.
a2. Vốn lưu động ròng
Công thức tính:
Vốn lưu động ròng = Tổng tài sản lưu động – Tổng nợ ngắn hạn.
Vốn lưu động ròng còn được gọi là vốn kinh doanh, là phần tài sản lưu
động vượt quá các khoản nợ ngắn hạn, là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
năng lực thanh toán của doanh nghiệp. Tình hình vốn lưu động không chỉ quan
trọng đối với nội bộ doanh nghiệp mà còn là một chỉ tiêu được dùng rộng rãi để


ước lượng những rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp các nhân
tố khác như nhau, doanh nghiệp có vốn lưu động ròng càng cao càng tốt vì càng
có thể thực hiện được nhiệm vụ tài chính trong kỳ. Vì vốn lưu động ròng là một
chỉ tiêu quan trọng ước lượng các rủi ro tài chính, cho nên tình hình vốn kinh
doanh còn ảnh hưởng tới năng lực vay nợ để tạo vốn. Lượng vốn lưu động ròng
cao hay thấp được quyết định bởi mức độ tiền mặt vào ra của doanh nghiệp. Có
nghĩa, nếu lượng tiền mặt vào ra của doanh nghiệp không có tính chính xác thì
doanh nghiệp đó cần phải duy trì nhiều vốn lưu động ròng để chuẩn bị trả nợ đáo
hạn trong kỳ. Do đó, cho thấy tính khó dự đoán của lượng tiền mặt và tính không

điều hoà của lượng tiền vào ra làm cho doanh nghiệp phải duy trì một mức vốn
lưu động ròng cần thiết.
Trong thực tế, người ta thường hay so sánh lượng vốn lưu động với các trị
số của năm trước để xác định lượng vốn có hợp lý hay không. Vì quy mô của
doanh nghiệp là khác nhau nên so sánh giữa các doanh nghiệp khác nhau là
không có ý nghĩa.
Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc
vào Vốn lưu động ròng. Do vậy mà nhiều doanh nghiệp thể hiện sự phát triển ở
sự tăng trưởng Vốn lưu động ròng.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, tỷ số luân chuyển tài sản lưu động - tỷ
số thanh toán hiện hành – không phản ánh chính xác khả năng thanh toán, do nếu
hàng tồn kho là những loại hàng hoá khó bán thì doanh nghiệp rất khó biến
chúng thành tiền. Do vậy, khi phân tích, chúng ta cần phải quan tâm đến tỷ số
thanh toán nhanh.
a3. Tỷ số thanh toán nhanh ( The quick Ratio – Rq )
Công thức tính:
Rq = ( Tài sản lưu động – Hàng tồn kho ) / các khoản nợ ngắn hạn
Trong đó, tài sản lưu động trừ đi hàng tồn kho còn được gọi là tài sản
vòng quay nhanh. Do hàng tồn kho ( Dự trữ ) là các tài sản có tính thanh khoản
thấp nhất trong tổng tài sản lưu động, mất nhiều thời gian và dễ bị lỗ nhất khi bán
nên không được tính vào tỷ số thanh toán nhanh.
Tỷ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn
không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ ( tồn kho ). Do đó, có thể thấy tỷ số
thanh toán nhanh phản ánh chính xác hơn, chân thực hơn về khả năng thanh toán
ngắn hạn.
Tỷ số thanh toán nhanh thấp hơn năm trước có nghĩa là những thay đổi về
chính sách tín dụng và cơ cấu tài trợ đã làm khả năng thanh toán của doanh
nghiệp yếu đi, và ngược lại. Tuy nhiên, tỷ số này cũng cần tuỳ theo sự cần thiết
của ngành: các ngành nghề khác nhau thì yêu cầu đối với tỷ số thanh toán nhanh

cũng khác nhau. Ví dụ, các ngành dịch vụ thì cần tiêu thụ nhiều tiền mặt, các
khoản cần thu lại tương đối ít, do đó cho phép duy trì tỷ số này thấp hơn 1. Ngoài
ra, vì các khoản nợ của doanh nghiệp không thể tập trung thanh toán vào cùng
một thời kỳ, nên tỷ suất thanh toán nhanh nhỏ hơn 1 không có nghĩa là không an
toàn mà chỉ cần lượng tài sản lưu động nhanh lớn hơn những khoản nợ cần phải
trả ngay trong kỳ gần nhất là có thể chứng tỏ rằng tính an toàn được đảm bảo.
b. Các tỷ số hoạt động – Đánh giá năng lực kinh doanh


Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp là năng lực tuần hoàn của vốn
doanh nghiệp, là một mặt quan trọng đánh giá hiệu quả tài chính của doanh
nghiệp. Vì vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư vào các loại tài sản: tài
sản lưu động và tài sản cố định, nên cần phải đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài
sản, và từng bộ phận cấu thành tổng tài sản. Nói chung, sự tuần hoàn vốn của
doanh nghiệp là sự vận động thống nhất của vốn tiền tệ, vốn sản xuất, vốn hàng
hoá – dịch vụ. Trong đó, sự vận động của hàng hoá – dịch vụ có ý nghĩa quan
trọng vì hàng hoá, dịch vụ có được tiêu dùng thì mới thực hiện được giá trị, thu
hồi được vốn và hoàn thành vòng tuần hoàn của vốn. Do vậy, nhà quản lý có thể
thông qua mối quan hệ và sự biến động của tình hình tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ
và chiếm dụng vốn của doanh nghiệp để phân tích tình hình vận động của vốn.
Tình hình vận động vốn của doanh nghiệp tốt, chứng tỏ trình độ quản lý kinh
doanh của doanh nghiệp cao, hiệu suất sử dụng tiền vốn cao. Ngược lại, sẽ chứng
tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là thấp.
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá năng lực kinh doanh, bao
gồm các tỷ số: Tỷ số vòng quay hàng tồn kho ( Vòng quay dự trữ ); Kỳ thu tiền
bình quân; Hiệu quả sử dụng tài sản cố định; Hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản.
b1. Tỷ số vòng quay hàng tồn kho – Vòng quay dự trữ ( Inventory Ratio – Ri )
Công thức tính:
Ri = Doanh thu thuần / Hàng tồn kho.
Trong đó, doanh thu thuần là doanh số của toàn bộ hàng hoá tiêu thụ trong

kỳ không phân biệt đã thu tiền hay chưa, trừ đi phần hoa hồng chiết khấu, giảm
giá hay hàng hoá bị trả lại. Còn hàng hoá tồn kho bao gồm các loại nguyên vật
liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, vật liệu phụ còn tồn trong kho. Độ lớn của
quy mô tồn kho tuỳ thuộc vào sợ kết hợp của nhiều yếu tố như: ngành kinh
doanh, thời điểm phân tích, mùa vụ,…Trong quá trình tính toán chúng ta cần
phải lưu ý: mặc dù doanh thu được tạo ra trong suốt năm, nhưng giá trị hàng tồn
kho trong Bảng cân đối là mức tồn kho tại một thời điểm cụ thể, do vậy khi tính
chúng ta phải lấy giá trị tồn kho trung bình năm.
Tỷ số này đo lường mức doanh số bán liên quan đến mức độ tồn kho của
các loại hàng hoá thành phẩm, nguyên vật liệu, là chỉ tiêu phản ánh năng lực tiêu
thụ hàng hoá và tốc độ vòng quay hàng tồn trữ, đồng thời để ước lượng hiệu suất
quản lý hàng tồn trữ của doanh nghiệp và là căn cứ để người quản lý tài chính
biết được doanh nghiệp bỏ vốn vào lượng trữ hàng quá nhiều hay không. Do đó,
nhìn chung hàng tồn kho lưu thông càng nhanh càng tốt. Nếu mức quay vòng
hàng tồn kho quá thấp, chứng tỏ lượng hàng tồn quá mức, sản phẩm bị tích đọng
hoặc tiêu thụ không tốt sẽ là một biểu hiện xấu trong kinh doanh. Vì hàng tồn trữ
còn trực tiếp liên quan đến năng lực thu lợi của doanh nghiệp. Cho nên trong
trường hợp lợi nhuận lớn hơn không, số lần quay vòng hàng tồn kho nhiều
chứng tỏ hàng lớn trữ chỉ chiếm dụng số vốn nhỏ, thời gian trữ hàng ngắn, hàng
tiêu thụ nhanh, thu lợi sẽ càng nhiều.
b2. Kỳ thu tiền bình quân ( Average Collection Period – ACP )
Công thức tính:
ACP = Các khoản phải thu / Doanh thu bình quân một ngày


Trong đó, các khoản phải thu là những hoá đơn bán hàng chưa thu tiền có
thể là hàng bán trả chậm, hàng bán chịu hay bán được mà chưa thu tiền, các
khoản tạm ứng chưa thanh toán, các khoản trả trước cho người bán.
Doanh thu bình quân ngày = Tổng doanh thu / 360
Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá

khả năng thu tiền trong thanh toán, cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Vì rằng nếu các khoản phải thu của
doanh nghiệp không được thu hồi đủ số, đúng hạn thì không những gây tổn thất
đọng nợ cho doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới năng lực kinh doanh. Số ngày
trong kỳ bình quân thấp chứng tỏ doanh nghiệp không bị đọng vốn trong khâu
thanh toán, không gặp phải những khoản nợ khó đòi, tốc độ thu hồi nợ nhanh và
hiệu quả quản lý cao. Tính lưu động của tài sản mạnh, năng lực thanh toán ngắn
hạn rất tốt, về một mức độ nào đó có thể khoả lấp những ảnh hưởng bất lợi của tỷ
suất lưu động thấp. Đồng thời, việc nâng cao mức quay vòng của các khoản phải
thu còn có thể làm giảm bớt kinh phí thu nợ và tổn thất tồn đọng vốn, làm cho
mức thu lợi của việc đầu tư tài sản lưu động của doanh nghiệp tăng lên tương
đối. Ngược lại, nếu tỷ số này cao thì doanh nghiệp cần phải tiền hành phân tích
chính sách bán hàng để tìm ra nguyên nhân tồn đọng nợ. Trong nhiều trường
hợp, có thể do kết quả thực hiện một chính sách tín dụng nghiêm khắc, các điều
kiện trả nợ hà khắc làm cho lượng tiêu thụ bị hạn chế, nên công ty muốn chiếm
lĩnh thị trường thông qua bán hàng trả chậm hay tài trợ nên có Kỳ thu tiền bình
quân cao.
Điều đáng lưu ý khi phân tích là kết quả phân tích có thể được đánh giá là
rất tốt, nhưng do kỹ thuật tính toán đã che dấu những khuyết điểm trong việc
quản trị các khoản phải thu. Nên cần phải phân tích định kỳ các khoản phải thu
để sớm phát hiện những khoản nợ khó đòi để có biện pháp xử lý kịp thời.
b3. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định ( The Fixed Assets Utilization – FAU )
Công thức tính:
FAU = Doanh thu thuần / Giá trị tài sản cố định
Trong đó, giá trị tài sản cố định là giá trị thuần của các loại tài sản cố định
tính theo giá trị ghi sổ kế toán, tức nguyên giá của tài sản cố định khấu trừ phần
hao mòn tài sản cố định dồn đến thời điểm tính.
Tỷ số này còn được gọi là Mức quay vòng của tài sản cố định, phản ánh
tình hình quay vòng của tài sản cố định, và là một chỉ tiêu ước lượng hiệu suất sử
dụng tài sản cố định. Như vậy, tỷ số này cho biết hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

vào tài sản cố định của doanh nghiệp, hay nói cách khác là một đồng tài sản cố
định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Tỷ số này cao chứng
tỏ tình hình hoạt động của doanh nghiệp tốt đã tạo ra doanh thu thuần cao so với
tài sản cố định, chứng tỏ việc đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp là xác
đáng, cơ cấu hợp lý, hiệu suất sử dụng cao. Ngược lại, nếu vòng quay tài sản cố
định không cao thì chứng tỏ hiệu suất sử dụng thấp, kết quả đối với sản xuất
không nhiều, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp không mạnh. Mặt khác, tỷ
số còn phản ánh khả năng sử dụng hữu hiệu tài sản các loại.
b4. Hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản ( The Total Assets Utilization – TAU )
Công thức tính:
TAU = Doanh thu thuần / Tổng tài sản có


Trong đó, tổng tài sản có là tổng toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp
bao gồm cả tài sản cố định và tài sản lưu động tại thời điểm tính toán và dựa trên
giá trị theo sổ sách kế toán.
Tỷ số này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó cho biết hiệu quả
sử dụng toàn bộ các loại tài sản của doanh nghiệp, hoặc thể hiện một đồng vốn
đầu tư vào doanh nghiệp đã đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Nếu như trong các thời kỳ, tổng mức tài sản của doanh nghiệp đều tương
đối ổn định, ít thay đổi thì tổng mức bình quân có thể dùng số bình quân của mức
tổng tài sản đầu kỳ và cuối kỳ. Nếu tổng mức tài sản có sự thay đổi biến động lớn
thì phải tính theo tài liệu tỉ mỉ hơn đồng thời khi tính mức quay vòng của tổng tài
sản thì các trị số phân tử và mẫu số trong công thức phải lấy trong cùng một thời
kỳ.
Mức quay vòng của tổng tài sản là chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng
tổng hợp toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Giá trị
của chỉ tiêu càng cao, chứng tỏ cùng một tài sản mà thu được mức lợi ích càng
nhiều, do đó trình độ quản lý tài sản càng cao thì năng lực thanh toán và năng lực
thu lợi của doanh nghiệp càng cao. Nếu ngược lại thì chứng tỏ các tài sản của

doanh nghiệp chưa được sử dụng có hiệu quả.
c. Các tỷ số về đòn cân nợ - Đánh giá về năng lực cân đối vốn
Năng lực cân đối vồn chính là khả năng tự chủ về mặt tài chính của doanh
nghiệp. Các nhà quản lý cần đánh giá hiệu quả huy động vốn nhằm đảm bảo đạt
được hiệu quả sử dụng vốn tối đa. Điều này không những quan trọng đối với
doanh nghiệp mà nó còn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư, các nhà
cung cấp, ngân hàng cho vay,… Nếu khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp
lớn mạnh sẽ tạo niềm tin cho các đối tượng có liên quan, do đó tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp về nhiều mặt trong kinh doanh và tăng nguồn vốn kinh doanh cho
doanh nghiệp.
Các tỷ số về đòn cân nợ được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ
sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp.
Đòn cân nợ tăng làm gia tăng tiềm năng tạo ra lợi nhuận và đồng thời cũng làm
tăng rủi ro cho các chủ sở hữu. Vì tăng vốn bằng cách vay nợ làm tăng khả năng
vỡ nợ của doanh nghiệp nên nguy cơ không thu hồi được nợ của các chủ nợ tăng,
và nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các
chủ doanh nghiệp sẽ tăng đáng kể.
Nhóm các tỷ số về đòn cân nợ gồm có: Tỷ số nợ; Tỷ số về khả năng thanh
toán lãi vay; Tỷ số về khả năng thanh toán các chi phí cố định.
c1. Tỷ số nợ ( Debt Ratio – Rd )
Công thức tính:
Rd = Tổng số nợ / Tổng tài sản có
Trong đó, tổng số nợ gồm toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn tại
thời điểm lập báo cáo tài chính. Còn tổng tài sản có bao gồm tài sản lưu động và
tài sản cố định hay là tổng toàn bộ kinh phí đầu tư cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong phần bên trái của Bảng cân đối kế toán.
Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối
với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số này vừa
phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ vay càng được đảm bảo trong trường



hợp doanh nghiệp bị phá sản. Còn các chủ sở hữu thích tỷ số này cao vì họ muốn
lợi nhuận tăng nhanh. Tuy nhiên nếu tỷ số nợ quá cao thì doanh nghiệp dễ bị rơi
vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Để có nhận định đúng về tỷ số này cần
phải kết hợp với các tỷ số khác nữa.
c2. Khả năng thanh toán lãi vay - số lần có thể trả lãi ( Times Interest Earned Ratio –
Rt)
Công thức tính:
Rt = EBIT / Chi phí trả lãi
Trong đó, EBIT là Thu nhập trước thuế và trả lãi, phản ánh số tiền mà
doanh nghiệp có thể sử dụng để trả lãi vay. Chi phí trả lãi vay bao gồm: tiền lãi
trả cho các khoản vay ngắn hạn, tiền lãi cho các khoản vay trung và dài hạn, tiền
lãi của các hình thức vay mượn khác. Đây là một khoản tương đối ổn định và có
thể tính trước được.
Tỷ số này cho biết khả năng thanh toán lãi vay bằng thu nhập trước thuế
của doanh nghiệp, hay nói cách khác là cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả
năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể
hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
d. Các tỷ số lợi nhuận – Đánh giá năng lực thu lợi
Các tỷ số trên phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt. Để phản ánh
tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất – kinh doanh và hiệu năng quản lý, chúng ta cần
phải tính toán các tỷ số lợi nhuận. Thông qua các tỷ số lợi nhuận, các nhà quản lý
đánh giá năng lực thu lợi của doanh nghiệp, là khả năng thu được lợi nhuận của
doanh nghiệp. Vì lợi nhuận là kết quả cuối cùng trong kinh doanh của doanh
nghiệp, thu được lợi nhuận là mục tiêu chủ yếu của sự tồn tại của doanh nghiệp
là một mặt quan trọng trong đánh giá thành tích tài chính của doanh nghiệp. Các
đối tượng liên quan: nhà đầu tư, chủ sở hữu, nhà quản lý,… đều quan tâm đến
năng lực thu lợi của doanh nghiệp.
Năng lực thu lợi của doanh nghiệp rất quan trọng đối với những người cho
vay, vì lợi nhuận thuần của doanh nghiệp là một trong những nguồn tiền chủ yếu

để thanh toán nợ. Không thể tưởng tượng nổi khi một doanh nghiệp thua lỗ liên
miên có thể có khả năng thanh toán mạnh.
Năng lực thu lợi cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư mua
cổ phần. Vì các cổ đông thu lợi đầu tư là thông qua cổ tức, mà toàn bộ cổ tức lại
từ lợi nhuận tịnh của doanh nghiệp mà có. Hơn nữa đối với công ty có tham gia
thị trường chứng khoán thì có sự tăng trưởng của lợi nhuận làm cho các cổ đông
có thêm lợi về giá cổ phiều trên thị trường.
Năng lực thu lợi của doanh nghiệp cũng quan trọng đối với các nhà quản
lý vì tổng lợi nhuận và lợi nhuận thuần là những chỉ tiêu để đánh giá thành tích
kinh doanh của những người quản lý.
Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm:
- Lợi nhuận kinh doanh: là nguồn gốc chủ yếu của lợi nhuận doanh
nghiệp, là lợi nhuận có được thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi
nhuận kinh doanh là do lợi nhuận của các nghiệp vụ kinh doanh chính và các lợi
nhuận của các doanh nghiệp khác cấu thành. Lợi nhuận kinh doanh là một chỉ
tiêu để đánh giá thành tích kinh doanh của doanh nghiệp.


×