Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

LÝ LUẬN KINH tế CHỦ NGHĨA mác TRONG THỜI kỳ QUÁ độ và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG xây DỰNG mô HÌNH KINH tế TỔNG QUÁT HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.18 KB, 12 trang )

1

LÝ LUẬN KINH TẾ CHỦ NGHĨA MÁC TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
Vào thập niên cuối của thế kỷ XX, nhân loại đã chứng kiến một biến cố
đau lòng đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tìm mọi cách để công kích, chống phá
chủ nghĩa Mác, chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đã hết thời, lý luận chủ
nghĩa Mác – lênin đã không còn phù hợp, không còn sức sống, chỉ có chủ
nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn. Lý luận hình thái kinh tế xã hội của Mác và
mô hình chủ nghĩa xã hội mà C.Mác, Ph.Ăngghen đưa ra không còn là hiện
thực. Thực tiễn đó đã và đang tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của thế giới đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Nhiều người
có biểu hiện dao động, bi quan có quan điểm hoài nghi về con đường đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Không ít những quan điểm trái ngược
nhau bắt đầu xuất hiện, có người còn lên tiếng đòi xét lại chủ nghĩa Mác, đòi
đa nguyên chính trị, đa đa đảng đối lập.
Trước tình hình đó đặt ra yêu cầu bức thiết đòi hỏi phải tiếp tục nghiên
cứu làm sáng tỏ chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Trong đó nghiên cứu tư tưởng của C.MácT, Ph.Ăngghen về đặc điểm, mô
hình xã hội tương lai có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng góp phần đấu tranh
chống những quan điểm sai trái phản động, đồng thời củng cố cơ sở, niềm tin
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; vào con đường đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã
lựa chọn.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa
học. Nhận thức của hai ông đối với chủ nghĩa xã hội là bắt nguồn từ các tác
phẩm của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Bản thảo kinh tế triết học năm 1844
là cột mốc quan trọng nói lên sự chuyển biến tư tưởng của hai ông. Trong bản
thảo đó, Mác đã cố gắng đi từ góc độ kinh tế học để luận chứng chủ nghĩa



2

cộng sản, thay đổi quan niệm về chủ nghĩa xã hội của những người xã hội chủ
nghĩa không tưởng chỉ đơn thuần dùng tiêu chuẩn đạo đức, nguyên tắc lý tính
trừu tượng để phê phán chế độ cũ và thiết kế xã hội mới. Song song với quá
trình đi sâu nghiên cứu thực tiễn và lý luận C.Mác và Ph.Ăngghen đã hoàn
chỉnh bước chuyển đổi thế giới quan: từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa
duy vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản, đã sáng lập lý luận
duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Đó là hai phát hiện lớn đặt cơ
sở khoa học và hiện thực cho chủ nghĩa xã hội, khiến chủ nghĩa xã hội có
bước nhảy vọt trong lịch sử phát triển. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của
C.Mác và Ph.Ăngghen có thể khái quát thành những điểm chủ yếu, quan
trọng như sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phải được xây dựng trên
cơ sở sức sản xuất phát triển cao.
Thứ hai, xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế
độ công hữu, không còn kinh tế hàng hoá. C.Mác và Ph.Ăngghen đã mổ xẻ
mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản; mâu thuẫn giữa sản xuất lớn xã hội
hoá và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Từ đó, hai ông đã luận chứng
tính tất yếu: xã hội phải trực tiếp chiếm hữu tư liệu sản xuất. Vì vậy, xoá
bỏ chế độ tư hữu và xây dựng chế độ công hữu là tiêu chí đầu tiên của chủ
nghĩa xã hội.
Thứ ba, xuất phát từ thực tế của chế độ tư bản chủ nghĩa: khủng hoảng
kinh tế tư bản chủ nghĩa phá hoại nghiêm trọng của cải xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và kinh tế là hậu
quả tai hại của kinh tế hàng hoá. Vì vậy, trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội,
“cùng với việc xã hội nắm lấy tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hoá cũng bị
loại trừ, và do đó, sự thống trị của hàng hoá đối với những người sản xuất
cũng bị loại trừ. Tình trạng vô chính phủ trong nội bộ nền sản xuất xã hội

được thay thế bằng một sự tổ chức có kế hoạch, có ý thức”.


3

Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa phải trải qua một số giai đoạn phát triển.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền,
xã hội được phát triển theo ba thời kỳ lịch sử:
Trong đó thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo các ông, giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái
gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Thứ năm, chủ nghĩa cộng sản là liên hợp của những tự do.
C.Mác và Ph.Ăngghen nhiều lần khẳng định: trong xã hội tương lai con
người được phát triển tự do, toàn diện trên cơ sở sự phát triển cao độ của lực
lượng sản xuất. Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện của sự phát triển
tự do của mọi người, liên hợp của những người tự do sẽ thay thế xã hội cũ đối
lập giai cấp.
Sự phát triển của V.I.Lênin về mô hình chủ nghĩa xã hội.
Trong thực tế, cách mạng xã hội chủ nghĩa không nổ ra đầu tiên ở các
nước tư bản phát triển như C.Mác và Ph.Ăngghen giả thiết. Cách mạng xã hội
chủ nghĩa đã giành thắng lợi đầu tiên tại các nước kinh tế, văn hóa lạc hậu
hơn, đó là nước Nga vào năm 1917.
Trong điều kiện lịch sử mới, Lênin chú trọng nghiên cứu lý luận về
chủ nghĩa đế quốc, nghiên cứu biện pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới. Người đã thay đổi kết luận trước đây cho rằng
có thể “giành thắng lợi đồng loạt”. Người đưa ra luận điểm mới rằng cách
mạng xã hội chủ nghĩa có thể giành “thắng lợi đầu tiên tại một nước”.
Lênin đã giải đáp một loạt vấn đề về tiến hành cách mạng tại các nước có
nền kinh tế, văn hoá tương đối lạc hậu. Người đã lãnh đạo cách mạng vô

sản Nga và tiến hành cách mạng tháng Mười thắng lợi, lập nên nhà nước xã
hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, đưa chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở
thành hiện thực, thực hiện bước nhảy vọt thứ hai trong lịch sử phát triển
của chủ nghĩa xã hội.


4

Tư tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô - Viết của Lênin
cũng là một quá trình. Lúc đầu, Lênin chủ trương quá độ “trực tiếp”, sau
chuyển sang quá độ “gián tiếp”. Kể từ mùa hè năm 1918, nước Nga XôViết bước vào thời kỳ nội chiến rất gian khổ. Để thích ứng với tình hình
đó, nước Nga đã thực hiện một loạt chính sách bất bình thường trong hoạt
động kinh tế. Lịch sử gọi đó là “chính sách cộng sản thời chiến”. Để đối
phó với hoàn cảnh chiến tranh cực kỳ khó khăn, lương thực và các loại
vật tư rất thiếu thốn, nhà nước Xô-Viết đã thực hiện chế độ trưng thu
lương thực rất chặt chẽ, nhà nước khống chế các mạch máu kinh tế trên
phạm vi toàn quốc, thị trường bị xoá bỏ, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị loại
khỏi lĩnh vực hoạt động kinh tế. Những giải pháp lúc ấy rất ăn nhập với
một số quan niệm truyền thống về chủ nghĩa xã hội trong đầu óc rất nhiều
người. Những người đó, kể cả Lênin, đều cho rằng, như vậy là đã tìm
được “con đường tắt’ để trực tiếp tiến lên chủ nghĩa xã hội, tưởng rằng tại
một nước tiểu nông có thể dùng pháp lệnh nhà nước để trực tiếp quá độ
lên chế độ sản xuất và phân phối cộng sản chủ nghĩa.
Như trên đã nói, nội dung cơ bản của chính sách cộng sản thời chiến là trưng
thu lương thực thừa của nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu. Đồng
thời xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ, xoá bỏ việc mua bán lương thực tự do trên
thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhừ nước.
Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của nhà
nước Xô-Viết. Nhờ nó mà quân đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được nhà
nước Xô-Viết.

Tuy nhiên, khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến đã
không còn thích hợp. Nếu như trong chiến tranh, con người đã có thể đặt lợi
ích cá nhân của mình dưới lợi ích dân tộc và sẵn sàng hy sinh vì sự sinh tồn
của một quốc gia dân tộc, thì trong điều kiện hoà bình, lợi ích cá nhân lại
trỗi dậy trong bản chất của mỗi con người. Vì vậy, việc áp dụng chính sách
cộng sản thời chiến trong điều kiện hoà bình trở thành nhân tố kìm hãm sự


5

phát triển sản xuất. Một mặt, hậu quả chiến tranh đối với nền kinh tế rất
nặng nề. Mặt khác, chính sách trưng thu lương thực thừa đã làm mất động
lực đối với nông dân. Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất hàng hoá-tiền tệ làm mất
tính năng động của nền kinh tế vốn dĩ mới bước vào giai đoạn mới phát
triển. Vì vậy, khủng hoảng kinh tế diễn ra sâu sắc. Điều đó đòi hỏi phải có
chính sách kinh tế thích ứng thay thế. Chính sách kinh tế mới được Lênin đề
xướng để đáp ứng yêu cầu này nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong giai đoạn mới.
Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới bao gồm
những tư tưởng sau đây:
Thay thế chính sách trưng thu lương thực thừa bằng chính sách thuế
lương thực. Theo chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực với
một mức độ cố định trong nhiều năm. mức thuế này căn cứ vào điều kiện tự
nhiên của đất đai canh tác. Nói cách khác, thuế nông nghiệp chính là địa tô
mà người nông dân canh tác trên ruộng đất thuộc sở hữu của toàn dân phải trả
cho nhà nước. Số lương thực còn lại, người nông dân được tự do trao đổi,
mua bán trên thị trường.
Tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ
giữa nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và
nông nghiệp.

Sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ
như khuyến khích phát triển sản xuất nhỏ của nông dân, thợ thủ công, khuyến
khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, củng cố lại
các doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang chế độ hoạch toán kinh tế. Đồng
thời, Lênin chủ trương phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các
nước tư bản phương Tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn khuyến khích phát triển
kinh tế.
Như vậy, khác với thời kỳ nội chiến, trong điều kiện hoà bình, ở nước
Nga Xô-viết đã chủ trương khôi phục phát triển kinh tế dựa trên những


6

nguyên tắc của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Điều đó cho thấy,
Lênin đã chú trọng tổng kết thực tiễn thời kỳ nội chiến, vận dụng chính sách
kinh tế mới để qua đó để tìm ra con đường phát triển xã hội chủ nghĩa thích
hợp với tình hình thực tiễn của nước Nga lúc bấy giờ. Từ đó, có thể nói rằng,
đặc trưng quan trọng của quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Lênin là tôn
trọng thực tiễn, cố gắng thông qua thực tiễn để tìm kiếm con đường phát triển
chủ nghĩa xã hội.
Nhìn chung, quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Lênin được thể hiện ở
những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
được xây dựng trên cơ sở công hữu xã hội về tư liệu sản xuất dưới hai hình
thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Theo ông, xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành một “công xưởng
lớn”. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lênin đã mô tả xã hội xã
hội chủ nghĩa trong tương lai là nhà nước vô sản chiếm hữu tư liệu sản
xuất một cách trực tiếp và duy nhất; nhà nước đó chịu trách nhiệm việc tổ
chức sản xuất trong phạm vi cả nước, chịu trách nhiệm thực hiện việc

thống kê và kiểm soát của toàn dân đối với tiêu dùng và phân phối. Tất cả
mọi công dân đều trở thành nhân viên và công nhân của một “Xanhđica”
nhà nước duy nhất của toàn dân, một xưởng máy với chế độ lao động
ngang nhau thì lĩnh lương ngang nhau. Sở hữu toàn dân về tư liệu sản
xuất thuộc loại hình sở hữu chung của toàn thể nhân dân lao động. Lúc
này, tư liệu sản xuất là của chung toàn xã hội, mọi người cùng chiếm hữu
tư liệu sản xuất. Người chủ cao nhất là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong
hình thức sở hữu này, sản xuất tiến hành theo kế hoạch tập trung, thống
nhất của nhà nước. Quan hệ giữa người với người là bình đẳng, hợp tác,
tương trợ; sản phẩm làm ra được phân phối có lợi cho người lao động trên
cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động. Theo Lênin, đây là hình thức
sở hữu cao nhất, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nó


7

phản ánh bản chất xã hội và xu hướng phát triển của quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở sở hữu toàn dân mà giải quyết mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản, đồng thời hình thành nên hệ thống quan hệ sản
xuất và quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
Hình thức tồn tại của sở hữu toàn dân là doanh nghiệp nhà nước. Con
đường hình thành loại hình doanh nghiệp và hình thức sở hữu này được thực
hiện thông qua quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư bản tư nhân, thực hiện chủ
nghĩa tư bản nhà nước và xây dựng các doanh nghiệp nhà nước mới. Hình
thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất do các tập thể người lao động đóng góp
vốn, tư liệu sản xuất để xây dựng nên. Trong hình thức sở hữu này, tư liệu sản
xuất là của tập thể, do tập thể xã viên làm chủ, tập thể này có sự độc lập với
tập thể khác. Sản xuất được tiến hành theo kế hoạch của tập thể và có sự
hướng dẫn của nhà nước, quan hệ giữa các xã viên là bình đẳng, hợp tác
tương trợ. Sản phẩm sản xuất ra được phân phối theo ý chí của tập thể trên cơ

sở nguyên tắc phân phối theo lao động, nguyên tắc phân phối theo tài sản,
hoặc kết hợp cả hai nguyên tắc trên. Trong nền kinh tế quốc dân, sở hữu tập
thể đóng vai trò quan trọng. Dưới sự tác động của sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể mang tính chất xã hội chủ nghĩa, nó phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Hình thức tồn tại chủ yếu của sở hữu tập thể là các hợp tác xã. Nó phát
triển cả trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp. Con đường
thích hợp để phát triển hình thức sở hữu này là hợp tác hoá. Quá trình này
diễn ra theo nguyên tắc tự nguyện, tiến dần từ thấp đến cao, có sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản và sự giúp đỡ của Nhà nước chuyên chính vô sản.
Theo Lênin, hợp tác xã là mắt xích nối liền nhà nước xã hội chủ nghĩa và
hàng chục triệu hộ tiểu nông, là giải pháp tất yếu để hướng dẫn nông dân tiến
lên con đường xã hội chủ nghĩa. Nông dân chiếm phần lớn trong dân số các
nước lạc hậu, đó là tình hình thực tế chủ yếu của các nước này. Làm thế nào
để xử lý tốt mối quan hệ với nông dân, điều này có ý nghĩa quan trọng nhất


8

đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu. Lênin cho
rằng, việc thiết lập các hợp tác xã với nhiều hình thức khác nhau là biện pháp
thích hợp để nông dân dễ tiếp nhận và qua đó hướng dẫn nông dân tiến lên
con đường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì hợp tác xã có thể tìm ra cách kết hợp tốt
nhất giữa lợi ích riêng của nông dân với lợi ích chung của nhà nước. Do vậy,
có sự phát triển hợp tác xã là có “tất cả những điều cần thiết để xây dựng một
xã hội chủ nghĩa toàn vẹn”. Tuy nhiên, bên cạnh sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể, Lênin cũng chỉ ra sự tồn tại của các thành phần kinh tế tư bản nhà
nước có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ông chỉ ra rằng, người cộng sản phải biết lợi dụng chủ nghĩa tư bản để phát
triển kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Xô-Viết có thể và cần phải mạnh dạn

học tập, tham khảo kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của các nước tư bản
phương Tây để khôi phục và phát triển kinh tế. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là
sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào các doanh nghiệp tư bản. Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt,
do Nhà nước vô sản sáng tạo ra, theo sự quản lý và hướng dẫn của nhà nước
vô sản. Đó chính là chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chúng ta có thể hạn chế, có
thể quy định và giới hạn.
Đây là hình thức kinh tế cao hơn so với sản xuất nhỏ. Việc sử dụng chủ
nghĩa tư bản nhà nước là cần thiết để phát triển lực lượng sản xuất. Sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước, Nhà nước vô sản sẽ huy động được vốn, vật tư, kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý của các nhà tư bản và cuối cùng vẫn thay thế được
chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội một cách êm thấm mà những người tư
sản vẫn có thể chấp nhận được.
Nhận xét chung về tư tưởng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
Thứ nhất, Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là tư tưởng hướng tới
một xã hội phồn thịnh, bình đẳng và văn minh.


9

Tổng hợp tất cả những xu hướng tư tưởng khác nhau về chủ nghĩa xã hội
trong lịch sử, ta thấy những nhân tố chung, tiêu chí chung, của chủ nghĩa xã
hội là một xã hội với ba đặc trưng cơ bản:
Là xã hội có trình độ phát triển ngày càng cao, có nhiều sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ, là một xã hội phồn thịnh.
Là xã hội mà quan hệ giữa người với người là bình đẳng.
Là một xã hội ngày càng có trình độ văn minh cao.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một xu hướng tiến tới
xã hội phồn thịnh, bình đẳng và văn minh. Đất nước nào càng phồn thịnh hơn,
càng bình đẳng hơn, càng văn minh hơn thì càng dần tiến tới chủ nghĩa xã

hội, chủ nghĩa cộng sản.
Thứ hai, tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là
bình đẳng.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội là sự sáng tạo, không sao chép, không giáo
điều, phù hợp với thực tiễn
Ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu thật sự
là một “trận động đất chính trị”, gây nên bước thoái trào to lớn của cách mạng
xã hội chủ nghĩa thế giới. Các nhà tư tưởng tư sản phản động và bọn theo chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại hiện đại ra sức phủ nhận những vấn đề cơ bản
của chủ nghĩa Mác -Lênin như: đấu tranh giai cấp, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong thời đại ngày nay. Một lần nữa khẳng định sự cần thiết hơn bao hết
phải nghiên cứu Lý luận chủ nghĩa Mác -Lênin, từ đó lý giải những vấn đề
thực tiễn đặt ra. Đấu tranh không khoan nhượng với những luận điệu xuyên
tạc học thuyết Mác -Lênin và những tư tưởng sai trái phản động khác nhằm
chống phá chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Mặc dầu Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị sụp đổ, hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới bị tan rã, Đảng ta vẫn khẳng định tiếp tục đưa nước


10

ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là xu thế tất yếu khách quan của lịch sử
trong thời đại ngày nay. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu là sự kiện bi kịch lịch sử, song nó cũng giúp chúng ta khắc phục
tư duy siêu hình, nhận thức giản đơn, máy móc về sự phát triển của lịch sử, từ
đó có sự nhận thức biện chứng, sâu sắc về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, thấy được đó là con đường phát triển quanh co, phức tạp, bao gồm cả
những bước thụt lùi tạm thời; là con đường đấu tranh lâu dài, gay go, gian khổ

giữa các lực lượng phản động và các lực lượng tiến bộ trong nước cũng như
trên thế giới. Nếu các Đảng cộng sản cầm quyền không có một lập trường
cách mạng kiên định, không biết bảo vệ và vận dụng sáng tạo những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin vào thực tiễn cách mạng của nước mình,
phạm phải những sai lầm về chính trị thì khó tránh khỏi thất bại. Thực tiễn đã
chứng minh, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa có những nhược điểm, những khuyết tật dẫn đến khủng hoảng kinh tế –
xã hội. Nhưng rõ tàng, đó không phải là nguyên nhân gây nên sự sụp đổ chế
độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở các nước đó, nếu các Đảng cộng sản cầm quyền
không phạm phải sai lầm về chính trị trong cải cách, cải tổ. Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa đều bị khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Nhưng
Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tiến hành cải cách, cải tổ lại dẫn
đến sự sụp đổ còn các xã hội chủ nghĩa khác như Trung Quốc, Việt Nam …
cũng tiến hành cải cách, đổi mới chẳng những không sụp đổ mà còn đứng
vững, vượt qua được khủng hoảng kinh tế – xã hội và có bước phát triển mới.
Rõ ràng sự sụp đổ của Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu không
phải là vấn đề kinh tế mà là vấn đề chính trị, là sự sai lầm về đường lối chính
trị, thậm chí có cả sự phản bội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng của cách mạng
Việt Nam, là sự lựa chọn và khẳng định dứt khoát của Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta từ năm 1930-khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Sự lựa chon này là
hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của xã hội loài người; thời đại ngày


11

nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi thế giới được mở đầu bằng cách mạng Tháng Mười; phù hợp với nguyện
vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Những vấn đề cơ bản về chủ
nghĩa xã hội đã được Đảng ta làm rõ qua các kỳ đại hội. Đại hội Đảng lần thứ

VI mới thật sự là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử. Đại hội Đảng lần thứ VII
khẳng định: “kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất
đúng” Đại hội IX: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bở qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”. Đó chính là sự
vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đại X của Đảng khẳng định: “Trong quá trình
đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải là
từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận
thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa
rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim
chỉ nam cho hàng động cách mạng”.


12

KẾT LUẬN
Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về mô hình, đặc điểm xã hội tương
lai; xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa đến nay vẫn giữ nguyên giá
trị. Sức sống của chủ nghĩa Mác -Lênin được thể hiện ở chỗ nó giải đáp
những vấn đề mà tư tưởng và thực tiễn của loài người đặt ra, soi sáng các
nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng con
người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, khỏi mọi sự tha hoá. Trong thời đại
của mình, do chưa có thực tiễn chủ nghĩa xã hội nên hai ông mới vạch ra một

số nét có tính chất dự báo về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tương lai
căn cứ trên thực tiễn của xã hội tư bản. Vì vậy, Đảng ta phải có sự vận dụng
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, tiếp tục làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra như kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, nội dung kinh tế của
thời kỳ quá độ. Kiên định con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu
tranh chống các quan điểm sai trái phản động, phấn đấu xây dựng nước Việt
Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.



×