Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 146 trang )

1

đề tài nghiên cứu khoa học cấp trờng
ììììì








Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế

































Hà Nội
Hà NộiHà Nội
Hà Nội - 2005
2




Mục lục


Mở đầu


Một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc pháp luật




Khái niệm và đặc điểm của nguyên tắc pháp luật xã hội
chủ nghĩa


Các nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế


Các nguyên tắc kinh tế của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế


Các nguyên tắc chính trị của pháp luật xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế


Các nguyên tắc xã hội của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế


Các nguyên tắc đạo đức của pháp luật xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế


Các nguyên tắc t tởng của pháp luật xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế



Các nguyên tắc pháp lý của pháp luật xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế


Thực tiễn thực hiện các nguyên tắc pháp luật ở Việt Nam
hiện nay

Những phơng hớng cơ bản hoàn thiện các nguyên tắc
pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay


Những ảnh hởng của quá trình mở cửa, hội nhập và toàn
cầu hoá đối với các nguyên tắc pháp luật Việt Nam


Danh mục tài liệu tham khảo









3





A. mở đầu
mở đầumở đầu
mở đầu



1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi hệ thống pháp luật đều đợc thiết lập dựa trên hệ các nguyên tắc pháp
luật nhất định. Có thể nói, các nguyên tắc pháp luật nh xơng sống làm giá đỡ
cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Các nguyên tắc pháp luật là những t tởng chỉ
đạo nội dung, quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Ngoài ra chúng
còn có tác dụng nh chất kết dính tạo ra sự liên kết và thống nhất giữa các bộ
phận của hệ thống pháp luật. Vì vậy, việc xác định và thực hiện các nguyên tắc
pháp luật xã hội chủ nghĩa phù hợp sẽ có ảnh hởng rất lớn tới hiệu quả của hệ
thống pháp luật, tới công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyền, lợi ích của
nhân dân. Ngợc lại, nếu việc xác định hoặc thực hiện các nguyên tắc pháp luật
không chính xác, không tốt sẽ có ảnh hởng xấu đến các hoạt động xây dựng,
thực hiện pháp luật và xét đến cùng sẽ ảnh hởng không tốt đến sự phát triển
kinh tế, chính trị- văn hoá, xã hội của đất nớc và đời sống của nhân dân.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam cho phù hợp với điều kiện và tình hình mới thì trớc
hết phải xác định đúng, chính xác nội dung các nguyên tắc pháp luật. Do vậy,
việc nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế là rất cần thiết, góp phần hoàn thiện
những t tởng, quan điểm phù hợp để chỉ đạo quá trình xây dựng, hoàn thiện và
phát triển hệ thống pháp luật cũng nh quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật
trong tình hình và điều kiện mới. Khi đã có một hệ thống các nguyên tắc pháp luật
phù hợp, các quy phạm pháp luật sẽ đợc ban hành, thực hiện và áp dụng trên cơ
sở của những nguyên tắc đó, và điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả điều chỉnh pháp

luật sẽ cao hơn, công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc sẽ đạt đợc nhiều thành
tích hơn vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ đổi mới
và hội nhập quốc tế đã và đang đợc nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở
những góc độ khác nhau. Một số công trình nh: Giáo trình lý luận nhà nớc và
pháp luật của Trờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb T Pháp 2005; Giáo trình lý
luận chung về nhà nớc và pháp luật của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2003; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân 2003 của
TS. Lê Minh Tâm.v.v. đã nghiên cứu, đề cập tới vấn đề này. Các công trình nói
trên đã tiếp cận và nghiên cứu về các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt
4

Nam ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, cha có công trình nào nghiên cứu
đầy đủ và sâu sắc về các nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
nhà nớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Các phơng pháp nghiên cứu đợc chú ý hơn là phơng pháp phân tích,
tổng hợp và so sánh.
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài đợc nghiên cứu với mục đích tìm hiểu một cách khách quan, khoa
học và tơng đối đầy đủ về những nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần hoàn thiện và phát triển hơn lý luận về
nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng, lý luận về nhà nớc và pháp
luật xã hội chủ nghĩa nói chung, giúp cho việc giảng dạy về bản chất, vai trò và

những nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế đợc chính xác, khoa học và phù hợp hơn. Kết quả nghiên cứu
cũng đồng thời góp phần để hoạt động thực tiễn xây dựng, thực hiện và bảo vệ
pháp luật ở nớc ta đúng đắn và có hiệu quả cao hơn trong điều kiện hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng và khá phức tạp, nhng trong khuôn
khổ của một đề tài nghiên cứu khoa học cấp trờng nên các tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu những nội dung cơ bản sau:
+ Phân tích làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về các nguyên tắc của
pháp luật xã hội chủ nghĩa và những đặc điểm của chúng trong thời kỳ đổi mới
và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
+ Xem xét thực tiễn thực hiện các nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
+ Phơng hớng hoàn thiện các nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
+ Tìm hiểu khái quát nội dung các nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.





5




B. các chuyên đề

Một số vấn đề lý luận cơ bản

về nguyên tắc pháp luật
ThS. Đặng Minh Tuấn
1. Khái niệm, đặc điểm, các mối liện hệ và ý nghĩa của nguyên tắc
pháp luật
1.1. Khái niệm nguyên tắc pháp luật.
Các nguyên tắc pháp luật là những t tởng cơ bản chỉ đạo toàn bộ hoạt
động xây dựng và thực hiện pháp luật của nhà nớc và công dân, t tởng xuyên
suốt nội dung của hệ thống pháp luật.
Nguyên tắc pháp luật là những t tởng cơ bản do nhà nớc xây dựng hoặc
thừa nhận, do đó phản ánh ý chí của nhà nớc, thuộc khái niệm thợng tầng kiến
trúc. Tính cơ bản của những t tởng tạo nên các nguyên tắc pháp luật, song sự
phân biệt của nguyên tắc pháp luật so với các nguyên tắc khác là ở chỗ những t
tởng cơ bản thuộc nguyên tắc pháp luật đặt nền tảng cho toàn bộ hoạt động xây
dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật.
Nguyên tắc pháp luật là nền tảng của hệ thống pháp luật, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ hệ thống pháp luật. Một hệ thống pháp luật từ đơn giản đến
phức tạp, đều đợc thiết lập dựa trên những nguyên tắc pháp luật nhất định. Hệ
thống pháp luật đợc thiết lập dựa trên hệ thống các nguyên tắc pháp luật, do đó,
nguyên tắc pháp luật nh hệ thống xơng cốt làm giá đỡ cho toàn bộ hệ thống
pháp luật. Trong hệ thống pháp luật luôn tồn tại những nguyên tắc pháp luật.
Montesquieu đã từng viết trong Lời tựa cuốn Bàn về tinh thần pháp luật: Trớc
tiên, tôi xem xét ngời đời, và tôi tin rằng trong vô số luật lệ và phong tục rất
khác nhau, con ngời không chỉ tuân theo nó một cách ngẫu hứng.
Tôi đã đề ra những nguyên tắc, tôi thấy các trờng hợp cá biệt đều theo
nguyên tắc. Lịch sử các dân tộc chỉ là những sự nối tiếp và mỗi luật lệ cá biệt đều
liên quan đến một luật lệ khác, hoặc là luật lệ thuộc vào một quy luật chung hơn
1
.
1.2. Đặc điểm của nguyên tắc pháp luật.
- Nguyên tắc pháp luật thể hiện tính chủ quan, đồng thời lại là sự phản

ánh những quy luật khách quan.


1
Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà nội, 2004, tr 31
6

Nguyên tắc pháp luật thể hiện tính chủ quan, bởi vì nguyên tắc pháp luật là
những t tởng do con ngời đặt ra, làm cơ sở cho việc ban hành, xây dựng hoặc
thực hiện pháp luật. Trong mỗi thời kỳ, mỗi nhà nớc, mỗi giai cấp lại thiết lập
hoặc thừa nhận những nguyên tắc pháp luật khác nhau phụ thuộc vào ý chí của
nhà nớc, giai cấp đó. Chẳng hạn, nguyên tắc pháp chế, bình đẳng hay bảo đảm
các quyền con ngời không tồn tại hoặc có tồn tại nhng chỉ đợc áp dụng một
cách rất hình thức, đơn lẻ ở các nhà nớc chiếm hữu nô lệ và phong kiến.
Bản thân pháp luật đã phản ánh tính chủ quan, thì nguyên tắc pháp luật càng
thể hiện tính chủ quan hơn, bởi vì nguyên tắc pháp luật có một vai trò rất quan
trọng trong việc định hớng toàn bộ hệ thống pháp luật. Do đó, các nhà nớc
thờng rất quan tâm đặt ra hoặc thừa nhận những nguyên tắc pháp luật nhất định,
và ở những mức độ khác nhau, những nguyên tắc pháp luật đó phản ánh lợi ích, ý
chí của nhà nớc đó. Chẳng hạn, trong nhà nớc chủ nô nói chung, giai cấp chủ nô
có quyền quản lý nô lệ nh một loại tài sản là một nguyên tắc cơ bản để xây dựng
các quy phạm pháp luật có liên quan đến đời sống của ngời nô lệ. Các nhà nớc
t sản cũng đề ra hoặc thừa nhận những nguyên tắc pháp luật phản ánh ý chí chủ
quan của nhà nớc hoặc giai cấp thống trị ở nhà nớc đó. Xét trên phơng diện về
tính giai cấp, thì nguyên tắc pháp luật thể hiện tính giai cấp sâu sắc.
Mặc khác, nguyên tắc pháp luật cũng phản ánh những quy luật chung của
đời sống xã hội. Pháp luật là những quy tắc để điều chỉnh các quan hệ xã hội, do
đó pháp luật bao giờ cũng phản ánh các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Nhìn ở
phơng diện tổng quát hơn, những nguyên tắc pháp luật cũng phản ánh đối tợng
điều chỉnh là các quan hệ xã hội. Sự thay đổi về bản chất trong xã hội dẫn đến sự

thay đổi của pháp luật cũng nh các nguyên tắc pháp luật. Mối quan hệ này là
quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng, trong đó các nguyên tắc
pháp luật thuộc khái niệm kiến trúc thợng tầng. Do vậy, các điều kiện về kinh
tế, xã hội quyết định sự hình thành và phát triển của các nguyên tắc pháp luật.
Mỗi một chế độ kinh tế xã hội trong một hình thái kinh tế xã hội sẽ xác lập
những bản chất của hệ thống pháp luật cũng nh những nguyên tắc pháp luật
trong hệ thống đó. Ngay cả trong một hình thái kinh tế xã hội, nguyên tắc
pháp luật cũng thờng xuyên thay đổi phụ thuộc vào sự thay đổi của mối quan hệ
đó.
Sự phản ánh của nguyên tắc pháp luật đối với các quy luật xã hội khách
quan có đặc trng so với sự phản ánh của các quy phạm pháp luật thông thờng.
Các quy phạm pháp luật thông thờng phản ánh rất cụ thể các quan hệ xã hội
đang tồn tại. Trong khi đó, các nguyên tắc pháp luật lại thờng phản ánh những
quan hệ xã hội rất nền tảng, phản ánh những quy luật xã hội tơng đối cơ bản.
Nếu những quan hệ xã hội nền tảng, những quy luật xã hội cơ bản làm nền tảng
cho tổng thể các quan hệ xã hội, thì các nguyên tắc pháp luật lại làm cơ sở cho
toàn bộ hệ thống pháp luật. Do pháp luật phản ánh những quan hệ xã hội cụ thể,
nên nó thờng rất hay thay đổi. Xã hội là hết sức đa dạng, thay đổi không ngừng,
7

nên các quy phạm pháp luật thờng cũng rất hay thay đổi. Trong trờng hợp này,
hoàn toàn không sai khi nói rằng pháp luật là cái đuôi của cuộc sống, hàm ý rằng
pháp luật thờng đi sau cuộc sống. Có tác giả đã từng ví rằng, xã hội cần chỗ nào
thì pháp luật điều chỉnh chỗ đó, và nhà làm luật nh là ngời vá săm, thủng chỗ
nào thì vá chỗ đấy, chứ ai đi vá những chỗ vẫn còn nguyên vẹn! Điều này tạo nên
tính bất cập của hệ thống pháp luật, bởi vì tính không ổn định của pháp luật làm
hạn chế vai trò điều chỉnh của nó trong xã hội. Có nhiều cách thức để khiến hệ
thống pháp luật trở nên ổn định hơn. Một trong những cách đó là xây dựng hệ
thống những nguyên tắc pháp luật. Điều quan trọng nhất làm sao các nguyên tắc
pháp luật này phản ánh đợc những mối quan hệ xã hội cơ bản nhất, những quan

luật xã hội nền tảng nhất. Khi mà xã hội không ngừng thay đổi, thì các quan hệ
xã hội nền tảng đó vẫn ở đó, vẫn không thay đổi hoặc ít thay đổi. Khi đó, các quy
phạm pháp luật có thể thay đổi, nhng những nguyên tắc pháp luật vẫn tồn tại,
thay đổi một cách từ từ, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống pháp luật luôn biến
động không ngừng. Do đó, các nguyên tác pháp luật luôn có tính ổn định, và nó
làm cơ sở cho sự ổn định của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật ổn định, bởi
vì nó đợc thiết lập bởi hệ thống xơng sống vững chắc làm nền tảng. Hơn nữa,
khi đã có một hệ thống các nguyên tắc pháp luật, các quy phạm pháp luật sẽ đợc
ban hành, thực hiện và áp dụng trên cơ sở của những nguyên tắc đó, và điều đó
cũng làm nên tính ổn định của hệ thống pháp luật.
Nguyên tắc pháp luật cũng phụ thuộc vào các yếu tố khác của kiến trúc
thợng tầng nh nhà nớc, chính thể, chính trị, văn hóa... Nhà nớc luôn có vai
trò đặc biệt trong việc xác lập hay thừa nhận các nguyên tắc pháp luật. Trong giai
đoạn hiện nay, cùng là nhà nớc dân chủ, song mỗi nhà nớc lại vạch ra những
nguyên tắc pháp luật khác nhau. Vai trò của nhà nớc với những u thế của
quyền lực nhà nớc thể hiện tính chủ quan trong việc xác lập các nguyên tắc
pháp luật. Trong các yếu tố thuộc khái niệm hình thức nhà nớc, chính thể cũng
có vai trò u thể trong việc xác định các nguyên tắc pháp luật. Trong cuốn Bàn về
tinh thần pháp luật, Montesquieu đặc biệt lu tâm về mối liên hệ của pháp luật
với bản chất chính trị, trong đó chính thể là yếu tố cốt lõi. ông nói pháp luật
đợc rút trực tiếp từ trong bản chất của chính trị, mà chủ yếu ở bản chất của ba
chính thể khác nhau: Chính thể dân chủ, quân chủ và chuyên chế. Các luật hay
các nguyên tắc pháp luật cũng đợc rút ra từ những chính thể đó
2
.
Ngoài ra, các nguyên tắc pháp luật còn có mối quan hệ với rất nhiều yếu tố
khác nhau. Trong cuốn Bàn về Tinh thần pháp luật, Montesquieu đã phác họa
tinh thần pháp luật, hay có thể đợc hiểu là các nguyên tắc pháp luật dựa trên
rất nhiều mối liên hệ từ chính trị, chính thể, lực lợng phòng thủ, lực lợng tấn
công, hiến pháp, công dân, thu nhập công cộng, khí hậu tự nhiên, đất đai, phong



2
Montesquieu, Sđd, tr 46-54
8

tục, tập quán, thơng mại, sử dụng tiền tệ, dân số, tôn giáo, chính sách đối ngoại,
trật tự các sự vật...
3

Từ những phân tích ở trên cho thấy, nếu nhà nớc xây dựng hoặc thừa
nhận các nguyên tắc pháp luật không phản ánh đợc các mối liên hệ trên hoặc
không phản ánh đợc các quy luật khách quan của đời sống xã hội, thì các
nguyên tắc pháp luật đó sẽ là một lực cản rất lớn trong đời sống xã hội, đặc biệt
khi mà các nguyên tắc pháp luật không đơn thuần là một quy tắc pháp luật, mà
có là tiền đề cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Một nguyên tắc pháp luật tiêu cực sẽ
làm cho cả hệ thống pháp luật bị ảnh hởng. Ngợc lại, các nguyên tắc pháp luật
phản ánh đúng các quy luật khách quan thì nó sẽ định hớng hệ thống pháp luật
đi theo quy luật đó, từ đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
- Các nguyên tắc pháp luật có thể đợc quy định trong pháp luật. Nhng
cũng có thể các nguyên tắc không đợc quy định trực tiếp trong pháp luật mà tồn tại
trong học thuyết pháp lý, trong thực tiễn đời sống chung của mọi ngời, đợc thực
hiện nh những phơng châm chỉ đạo chung trong quá trình áp dụng pháp luật
4
.
Trong nhiều nhà nớc, các nguyên tắc pháp luật đợc ghi nhận rõ trong
các văn bản pháp luật. Chẳng hạn, Hiến pháp Việt Nam quy định các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật nh nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, mọi ngời bình
đẳng trớc pháp luật, nguyên tắc Đảng lãnh đạo... Ngày nay, hầu hết các nhà
nớc đều ghi nhận những nguyên tắc cơ bản trong các văn bản pháp luật, đặc biệt

là hiến pháp. Hiến pháp luật cơ bản của nhà nớc, có giá trị pháp lý tối cao, do
đó, việc ghi nhận các nguyên tắc pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc làm
cơ sở cho toàn bộ các hoạt động xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật, là cơ
sở cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Hầu hết Hiến pháp các nớc hiện nay đều thừa
nhận các nguyên tắc pháp luật cơ bản nh nguyên tắc bảo đảm các quyền con
ngời, xây dựng nhà nớc pháp quyền, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc mọi
ngời bình đẳng trớc pháp luật, nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc đảm bảo tính
tối cao của hiến pháp. Trong mỗi ngành luật, pháp luật lại có những nguyên tắc
cụ thể, do đó, các văn bản pháp luật trong từng ngành luật cũng ghi nhận các
nguyên tắc trong từng ngành luật. Thậm chí, trong từng văn bản pháp luật cũng
xác định các nguyên tắc cụ thể cho từng chế định, từng nhóm các quan hệ xã hội
cần phải đợc điều chỉnh. Việc ghi nhận các nguyên tắc pháp luật tại các văn
bản pháp luật có ý nghĩa tạo ra sự thống nhất trong việc xây dựng, thực hiện và
áp dụng pháp luật.
Cũng có những nguyên tắc không đợc ghi nhận trong hệ thống pháp luật
mà chỉ đợc thừa nhận trọng các học thuyết pháp lý. Nhiều nhà nớc t sản hiện
nay không ghi nhận nguyên tắc phân quyền song trên thực tế đây là một học
thuyết lý đợc thừa nhận phổ biến nh một nguyên tắc cơ bản của luật hiến pháp.


3
Montesquieu, Sđd
4
Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nớc và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà nội,
Hà nội, 2004, tr 217-218
9

Phần nhiều các nguyên tắc đợc thừa nhận chung trong thực tiễn xây dựng,
thực hiện và áp dụng pháp luật. Những nguyên tắc pháp luật tiêu cực thờng
không đợc quy định trong hệ thống pháp luật. Trong các nhà nớc bóc lột,

nguyên tắc bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị thờng không đợc nhắc đến trong
các văn bản pháp luật, song đây lại là một nguyên tắc cơ bản trong các nhà nớc
bóc lột. ở nhà nớc ta, mặc dù nguyên tắc quyền lực nhà nớc đợc phân công,
phối hợp giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp và t pháp chỉ đợc chính thức
ghi nhận bởi Hiến pháp Việt Nam sửa đổi năm 2001, nhng nguyên tắc này đã
đợc thể hiện từ Hiến pháp năm 1992. Những nguyên tắc này đợc hình thành từ
thực tiễn pháp luật. Có thể đến một thời điểm nào đó, nhà làm luật sẽ luật hóa các
nguyên tắc này trong hệ thống pháp luật nh là nguyên tắc phân công, phối hợp
quyền lực trong Hiến pháp 1992 sửa đổi. Mặc dù, các nguyên tắc pháp luật thể
hiện tính chủ quan của nhà làm luật, nhng hầu hết các nguyên tắc pháp luật
đợc hình thành từ thực tiễn chính trị, xã hội, pháp luật. Các nguyên tắc này phản
ánh đợc những quy luật của xã hội, do đó có khả năng phù hợp với các quan hệ
xã hội, nên cũng có đời sống dài hơn, thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển.
- Các nguyên tắc pháp luật không bất biến mà thay đổi không ngừng.
Cũng giống nh pháp luật, nguyên tắc pháp luật phản ánh sự tồn tại, phát
triển của các quan hệ xã hội, do đó nguyên tắc pháp luật phải thay đổi để phù hợp
với các quan hệ xã hội luôn thay đổi đó. Cùng với sự phát triển của các quan hệ
xã hội, nhiều nguyên tắc pháp luật mới ra đời. Ngày nay, các nguyên tắc pháp
luật hiện đại đã khẳng định ở nhiều hệ thống pháp luật nh nguyên tắc công
bằng, bình đẳng, pháp chế, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp, bảo đảm các
quyền con ngời. Nhiều nguyên tắc đợc biết đến trong các nhà nớc trớc đây
nh bảo vệ giai cấp địa chủ, phong kiến quý tộc không còn đợc thừa nhận trong
các nhà nớc hiện đại nữa.
Nh trên đã phân tích, so với pháp luật thì nguyên tắc pháp luật có tính bền
vững hơn, bởi vì nguyên tắc pháp luật phản ánh những mối quan hệ chung hơn, cơ
bản hơn. Việc thay đổi những nguyên tắc pháp luật thờng diễn ra trong một thời
gian dài với sự biến chuyển của nhiều học thuyết và thực tiễn pháp luật. Việc thay
đổi chính trị, hay chính thể thờng dẫn đến việc vạch ra những nguyên tắc pháp
luật mới phù hợp với chế độ chính trị hay chính thể đó. Sự thay đổi đó làm nhằm
đổi mới các nguyên tắc pháp luật đã lỗi thời, và các nhà khoa học pháp lý thờng

rất quan tâm đến việc nghiên cứu để đổi mới các nguyên tắc pháp luật phù hợp với
đời sống thực tiễn pháp luật đặt ra. Việc đổi mới các nguyên tắc pháp luật thờng
có ý nghĩa hơn là việc đổi mới bản thân một quy phạm hay một văn bản pháp luật,
vì đổi mới một nguyên tắc có thể dẫn đến sự đổi mới của cả một hệ thống các quy
phạm hay văn bản pháp luật, từ việc xây dựng cho đến việc thực hiện và áp dụng
pháp luật. Tuy thay đổi, nhng cũng giống nh pháp luật, sự thay đổi của nguyên
tắc pháp luật luôn đảm bảo tính kế thừa, tức là nguyên tắc pháp luật sau thờng kế
thừa ít nhiều các nguyên tắc pháp luật trớc đó. Có nhiều nguyên tắc pháp luật
10

ngày nay đợc kế thừa từ trong thời kỳ cổ đại. Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng,
công bằng là những nguyên tắc pháp luật cơ bản ngày nay nhng chúng đợc kế
thừa từ thời kỳ sơ khai của pháp luật. Nguyên tắc phân quyền cũng đợc kế thừa từ
những t tởng pháp lý có từ trong nền dân chủ cổ đại Phơng Tây.
1.3. Các mối liên hệ cơ bản của các nguyên tắc pháp luật.
- Quan hệ giữa nguyên tắc pháp luật và pháp luật:
Nguyên tắc pháp luật là cơ sở, tiền đề cho toàn bộ hoạt động xây dựng,
thực hiện và áp dụng pháp luật, tức là nó là kim chỉ nam cho các hoạt động xây
dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật. Hay nói cách khác pháp luật đợc ban
hành, thực hiện và áp dụng trên tinh thần chung của nguyên tắc pháp luật. Do đó,
nguyên tắc pháp luật có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc hệ thống hóa pháp luật.
Trong những nhà nớc đầu tiên nh nhà nớc chiếm hữu nô lệ và phong kiến,
việc xây dựng một hệ thống pháp luật nhiều khi không theo những nguyên tắc
pháp luật chặt chẽ, ổn định cũng là một nguyên nhân cơ bản khiến hệ thống pháp
luật rất cục bộ, tản mạn và không thống nhất. Điều này đã dần dần đợc cải thiện
trong lịch sử phát triển hệ thống pháp luật. Trong thời đại ngày nay, khi mà hệ
thống pháp luật ngày càng phức tạp, thì nguyên tắc pháp luật ngày càng có vai trò
hơn. Nếu thiếu các nguyên tắc pháp luật, hệ thống pháp luật sẽ khó mà đợc hệ
thống hóa, và do đó sẽ gây rất nhiều khó khăn cho công tác xây dựng, thực hiện
và áp dụng pháp luật. Để tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật hết sức

phức tạp, ngày nay nhiều nớc đặt ra rất nhiều các nguyên tắc pháp luật: Nguyên
tắc pháp luật chung cho toàn bộ hệ thống pháp luật; nguyên tắc pháp luật riêng
cho từng ngành luật, từng chế định pháp luật, từng văn bản pháp luật; Nguyên tắc
pháp luật áp dụng đối với chủ thể xây dựng pháp luật, chủ thể thực hiện pháp luật
và chủ thể áp dụng pháp luật...
Bản thân các nguyên tắc pháp luật sẽ trở thành pháp luật nếu chúng đợc
luật hóa. Nh trên đã phân tích, nhiều nguyên tắc pháp luật đợc quy định rõ
ràng trong hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, khác với các quy phạm pháp luật, các
nguyên tắc pháp luật thờng không đặt rõ ràng các quy tắc xử sự của hành vi, mà
thờng làm cơ sở cho việc ban hành, thực hiện và áp dụng các quy phạm pháp
luật. Nói nh thế không có nghĩa là nguyên tắc pháp luật không đặt ra quy tắc xử
sự của hành vi, vì nếu hiểu theo nghĩa khái quát, thì việc đặt ra cơ sở cho việc ban
hành, thực hiện hay áp dụng các quy phạm pháp luật cũng là xác lập các quy tắc
xử sự của hành vi rồi. Trong nhiều trờng hợp, nguyên tắc pháp luật cũng có khả
năng xác định rõ các quy tắc xử sự của hành vi. Ví dụ, nguyên tắc bảo đảm dùng
tiếng dân tộc thiểu số tại phiên tòa là một nguyên tắc cơ bản của ngành luật tố
tụng của chúng ta. Nguyên tắc này mang ý nghĩa của việc xác lập tắc xử sự rõ
ràng. Các nguyên tắc khác của ngành luật tố tụng hình sự nh xét xử có hội thẩm,
hội thẩm và thẩm phán ngang quyền; quyết định theo đa số; bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, không ai bị coi là có tội cho tới khi có bản án kết tội của
tòa án có hiệu lực pháp luật...là những nguyên tắc pháp luật xác định rõ quy tắc
11

xử sự của hành vi. Trong những trờng hợp này, nguyên tắc pháp luật vừa là
những quy phạm pháp luật, đồng thời lại đặt cơ sở cho việc ban hành, thực hiện
hay áp dụng các quy phạm pháp luật khác, nói cách khác, trong nhiều trờng
hợp, một quy phạm pháp luật trở thành một nguyên tắc pháp luật.
Nh vậy, nhìn chung, nguyên tắc pháp luật có tính khái quát hơn là pháp
luật nói chung, nhng cũng có trờng hợp nguyên tắc pháp luật là một quy phạm
pháp luật. Điều quan trọng nhất là ở chỗ các nguyên tắc pháp luật đặc cơ sở cho

việc ban hành, thực hiện và áp dụng pháp luật. Với ý nghĩa nh vậy, nguyên tắc
pháp luật có vai trò làm cho hệ thống pháp luật đợc ban hành, thực hiện và áp
dụng một cách thống nhất. Nguyên tắc pháp luật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hệ
thống pháp luật phức tạp và rộng lớn. Một hệ thống pháp luật bao giờ cũng tồn
tại những nguyên tắc pháp luật nh là xơng sống của hệ thống pháp luật đó. Do
đó, nguyên tắc pháp luật là cơ sở làm cho việc ban hành, thực hiện và áp dụng
pháp luật đợc dễ dàng, thống nhất và hiệu quả hơn.
Nguyên tắc pháp luật còn đợc coi là những bổ khuyết quan trọng cho pháp
luật nếu nh không có quy phạm pháp luật điều chỉnh. Hệ thống pháp luật không
bao giờ là hoàn thiện, mà bao giờ cũng có những lỗ hổng, do đó cần phải công
nhận áp dụng tơng tự pháp luật. Trong trờng hợp không có quy phạm pháp luật,
nhiều quốc gia chấp nhận áp dụng các nguyên tắc pháp luật thay thế cho sự khiếm
khuyết của các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội bị bỏ ngỏ.
Các nguyên tắc pháp luật trong các học thuyết cũng đợc viện dẫn nh là
một loại nguồn pháp luật quan trọng trong việc áp dụng pháp luật. Ví dụ, trong hệ
thống pháp luật Anh - Mỹ (Common Law), các thẩm phán thờng viện dẫn đến rất
nhiều học thuyết pháp lý, đặc biệt là các học thuyết nổi tiếng đã đợc công nhận
nh là những nguyên tắc pháp luật để áp dụng cho một vụ việc. Ngày nay, trong
các hệ thống pháp luật khác, ngời ta cũng rất đề cao các nguyên tắc pháp luật
trong các học thuyết nh là một loại nguồn pháp luật quan trọng. ở Việt Nam, việc
áp dụng nguyên tắc tơng tự chỉ đợc thừa nhận trong các ngành luật nh dân sự,
hôn nhân và gia đình...
Trong hệ thống pháp luật, các quy phạm hiến pháp thờng trở thành những
nguyên tắc pháp luật, vì hiến pháp là đạo luật cơ bản đặt cơ sở cho việc xây dựng
các văn bản, các quy định pháp luật khác. ở Nhà nớc Việt Nam, đối tợng điều
chỉnh của hiến pháp rất rộng, nên hiến pháp càng có cơ sở nền tảng cho toàn bộ
hệ thống pháp luật của chúng ta.
- Nguyên tắc pháp luật và đạo đức, truyền thống:
Trong mối quan hệ với đạo đức, ở chừng mực nhất định, pháp luật là sự
phản ánh đạo đức, là sự chắt lọc của đạo đức, hay nói cách khác thì pháp luật có

nền móng là đạo đức. Chính những nền mong cối lõi nhất của đạo đức đó trong
hệ thống pháp luật sẽ trở thành những nguyên tắc pháp luật quan trọng. Những
nguyên tắc pháp luật quan trọng đợc xã hội loài ngời biết đến phần lớn có
12

nguồn gốc từ đạo đức, ví dụ nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, công bằng, bảo vệ
quyền cá nhân, bảo vệ lẽ phải... Nói rộng ra thì nguyên tắc pháp luật có mối quan
hệ rất chặt chẽ với các quy phạm xã hội, nhng trong đó, đạo đức là một loại quy
phạm xã hội mà nó có mối liên hệ gần gũi nhất. Việc thừa nhận áp dụng tập quán
pháp chính là một nguyên tắc pháp luật trong hệ thống pháp luật Anh- Mỹ, đồng
thời nó cũng phản ảnh một t duy pháp luật phản ánh những quy tắc của đạo đức,
của đời sống xã hội. Đạo đức không thể phản ánh đợc hết trong pháp luật, và tập
quán pháp đợc coi nh là một bổ khuyết rất quan trọng.
Nguyên tắc pháp luật cũng có quan hệ rất gẫn gũi với truyền thống. Truyền
thống có tác động rất lớn đến hệ thống pháp luật, mà thể hiện rõ nhất thông qua
những nguyên tắc pháp luật. Những truyền thống của một dân tộc, một nhà nớc
thờng động lại ở các nguyên tắc pháp luật cơ bản. Sự tồn tại của các hệ thống
pháp luật lớn trên thế giới là sự thừa nhận sự ảnh hởng của truyền thống đối với
pháp luật. Hệ thống pháp luật Anh- Mỹ đặc trng với nguyên tắc án lệ có nguồn
gốc từ những truyền thống từ xa xa. Hệ thống pháp luật Châu âu với sự đề cao
luật thành văn gắn liền với truyền thống pháp luật La mã cổ đại. Pháp luật đạo
hội gắn liền với Kinh Côran, một truyền thống tôn giáo lâu đời. Xuất phát từ thực
tiễn pháp luật nh vậy, nhiều ngời đã đề nghị sử dụng các khái niệm nh truyền
thống pháp luật, văn hóa pháp luật thay cho khái niệm hệ thống pháp luật. Điều
đó thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật và truyền thống văn hóa, mà sự thể hiện
rõ ràng nhất trong pháp luật là các nguyên tắc pháp luật lớn.
- Quan hệ giữa nguyên tắc pháp luật và nhà nớc:
Nhà nớc thờng đặt ra hoặc thừa nhận các nguyên tắc pháp luật làm cơ sở
cho hệ thống pháp luật. Mặc khác, trong nhà nớc dân chủ, các nguyên tắc pháp
luật lại trở thành những giới hạn của quyền lực nhà nớc. Đây là sự khác nhau cơ

bản giữa pháp luật của nhà nớc dân chủ và pháp luật của nhà nớc chuyên chế.
Nhà nớc chuyên chế sử dụng pháp luật để cai trị xã hội, còn nhà nớc dân chủ
không chỉ dùng pháp luật để quản lý xã hội, mà pháp luật lại quay lại kiểm soát
nhà nớc. Trong nhà nớc dân chủ, pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân, tuy
nhiên, nhân dân không thể kiểm soát đợc toàn bộ hệ thống pháp luật, do đó
nhân dân trực tiếp hoặc thông qua ngời đại diện để đặt ra những nguyên tắc
pháp luật, và những nguyên tắc pháp luật này trở thành cơ sở cho các quy phạm
sau này. Và nh thế, nhà nớc đã bị kiểm soát bởi các nguyên tắc pháp luật.
Thờng thì nhà nớc rất dễ dàng để sửa đổi một quy phạm pháp luật thông
thờng, nhng đối với các nguyên tắc pháp luật thì lại khác. Việc thay đổi hoặc
đa ra những nguyên tắc pháp luật mới thờng phải đợc thực hiện thông quan
những thủ tục pháp lý rất chặt chẽ mà nhà nớc phải tuân thủ. Ví dụ, thủ tục sửa
đổi Hiến pháp thờng phải đợc thực hiện thông qua những thủ tục rất ngặt
nghèo thông qua Quốc hội lập hiến hoặc quốc hội hai viện với tỷ lệ phiếu đa
số tuyệt đối, trng cầu dân ý... Những thủ tục ngặt nghèo nh là những giới hạn
13

quyền lực nhà nớc nhằm chống lại mọi sự lạm dụng quyền lực nhà nớc để đảm
bảo các quyền dân chủ của cá nhân.
1.4. ý nghĩa của nguyên tắc pháp luật.
Những đặc điểm của nguyên tắc pháp luật cũng đã thể hiện đợc ý nghĩa,
vai trò của nguyên tắc pháp luật. Để tổng hợp lại, có thể liệt kê một số ý nghĩa cơ
bản sau của nguyên tắc pháp luật:
- Làm cơ sở cho việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật;
- Hệ thống hóa pháp luật làm tiền để đề thiết lập một hệ thống pháp luật
chặt chẽ và thống nhất;
- Định hớng pháp luật hoặc hệ thống pháp luật theo những mục đích của
nhà nớc hoặc của những nhà làm luật;
- Bổ khuyết cho pháp luật với tính cách nh là một loại nguồn pháp luật;
- Là những giới hạn (hạn chế) đối với quyền lực nhà nớc trong nhà nớc

pháp quyền...
2. Một số nguyên tắc pháp luật xuyên suốt lịch sử pháp luật và đặc
điểm của nguyên tắc pháp luật trong từng kiểu pháp luật.
2.1. Một số nguyên tắc pháp luật xuyên suốt lịch sử phát triển của pháp luật
Sự ra đời của pháp luật là một hiện tợng xã hội đặc biệt trong sự phát
triển của loài ngời. Qua bao thời kỳ lịch sử, nội dung và diện mạo của pháp luật
đã thay đổi rất nhiều. Tuy nhiên, có những nguyên tắc pháp luật tồn tại từ xa xa
cho đến ngày nay, có thể gọi là những nguyên tắc pháp luật xuyên suốt lịch sử
pháp luật. Sự tồn tại của những nguyên tắc pháp luật này xuất phát từ những đặc
trng chung, bản chất cơ bản của pháp luật. Những nguyên tắc đó tồn tại và phát
triển cho đến ngày nay, mặc dù tính chất, sự thừa nhận phổ biến của các nguyên
tắc này có thể khác nhau trong các thời kỳ lịch sử. Mặc dù có sự khác nhau,
nhng phải khẳng định rằng chúng đã và sẽ tồn tại.
- Pháp luật thể hiện bản chất chính trị
Tính chính trị của pháp luật đợc hiểu là pháp luật đợc rút ra từ bản chất
chính trị, là sự phản ánh các lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong
sự đa dạng, đấu tranh giữa các lợi ích, pháp luật luôn đại diện, phản ánh rõ ràng
nhất cho lợi ích của những ngời cai trị trong xã hội, mà theo chủ nghĩa Mác, đó
đợc gọi là tính giai cấp của pháp luật. Tính chính trị của pháp luật vừa là bản
chất của pháp luật vừa là một nguyên tắc pháp luật. Đây là một nguyên tắc pháp
luật bởi vì nó là cơ sở cho toàn bộ việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật.
Nguyên tắc này thờng không đợc quy định trong hệ thống pháp luật, mà
nó đợc nhà nớc thừa nhận một cách gián tiếp thông qua các hoạt động ban
hành, thực hiện và áp dụng pháp luật. Nhà nớc ban hành pháp luật để thừa nhận
những lợi ích của giai cấp thống trị, đồng thời bằng những biện pháp pháp lý để
14

bảo vệ những lợi ích đó trong đời sống xã hội. Việc áp dụng, thực hiện pháp luật
cũng luôn luôn đợc đặt dới cơ sở của nguyên tắc này.
Nguyên tắc pháp luật này là một nguyên tắc pháp luật khá trừu tợng và

không rõ ràng. Tính không rõ ràng là ở chỗ nó không đợc ghi nhận cụ thể trong
hệ thống pháp luật, mặc khác nó cũng không đợc công khai thừa nhận trong xã
hội. Trong bất kỳ nhà nớc nào, pháp luật luôn luôn đợc nhắc đến nh một đại
lợng của tất cả mọi ngời, của xã hội. Nhng trên thực tế thì lại không phải bao
giờ cũng nh vậy, mà nền tảng của hệ thống pháp luật chính là những lợi ích
chính trị đó. Hơn nữa, mỗi một nhà nớc, một kiểu nhà nớc lại thực hiện
nguyên tắc này ở những mức độ khác nhau, phụ thuộc vào bản chất nhà nớc.
Sự mâu thuẫn và tranh giành quyền lực giữa các tầng lớp, giai cấp khác
nhau trong xã hội là một quy luật xã hội, và những mâu thuẫn đó đợc biểu hiện
ở kiến trúc thợng tầng, đặc biệt là nhà nớc và pháp luật. Pháp luật có dân chủ
hay không, pháp luật có phục vụ xã hội và bảo vệ các quyền cá nhân hay không,
pháp luật có công bằng hay không... phụ thuộc rất nhiều vào bản chất của các
quan hệ xã hội. Trong những mối quan hệ mẫu thuẫn đó, Chủ nghĩa Mác cho
rằng mối quan hệ giai cấp, mẫu thuẫn và đấu tranh giai cấp là quan hệ cơ bản
quyết định sự tồn tại và phát triển của nhà nớc và pháp luật.
Do đó, là một nguyên tắc pháp luật trong nhà nớc, song sự biểu hiện của
nguyên tắc này lại rất khác nhau, phụ thuộc vào từng kiểu nhà nớc trong từng
hình thái kinh tế xã hội. Trong các nhà nớc chiếm hữu nô lệ và phong kiến, tính
chính trị của pháp luật đợc biểu hiện ở chỗ pháp luật công khai trong việc bảo
vệ lợi ích của giai cấp nắm quyền trong xã hội, do đó pháp luật thể hiện sự bất
bình đẳng rõ rệt. Cùng với các phong trào cách mạng đòi quyền dân chủ và sự
phát triển của tri thức nhân loại, nhà nớc ngày càng phản ánh tính dân chủ và
công bằng hơn. Trong nhà nớc dân chủ t sản, pháp luật đã có bớc chuyển biến
hết sức quan trọng trong việc đảm bảo dân chủ và sự công bằng trong xã hội.
Tính chính trị của pháp luật t sản là thể hiện qua sự thỏa hiệp giữa các tầng lớp,
giai cấp hết sức phức tạp và mâu thuẫn trong lòng xã hội. Nhà nớc bằng công cụ
pháp luật bảo đảm trật tự pháp luật trong những quan hệ phức tạp và mẫu thuẫn
đó. Pháp luật không thể chỉ phản ánh lợi ích của một tầng lớp, giai cấp này, mà
pháp luật phải phản ánh đợc tính đa dang của các lợi ích trong xã hội. Nhà nớc
xã hội chủ nghĩa ra đời cùng với hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa đảm bảo

quyền lực thống nhất thuộc về nhân dân.
- Pháp luật thể hiện vai trò xã hội
Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật cũng bảo đảm lợi ích chung của toàn xã
hội. Nhà nớc nào cũng quan tâm ở những mức độ khác nhau trong việc đảm bảo
những lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng trong việc ban hành
hay áp dụng pháp luật. Tính xã hội là một nguyên tắc pháp luật hình thành ngay
từ khi pháp luật ra đời. Nguyên tắc pháp luật này thể hiện bản chất của pháp luật.
Pháp luật đáp ứng những nhu cầu của xã hội với tính cách là các chuẩn mực cho
15

các hành vi trong xã hội, do đó pháp luật luôn phản ánh những lợi ích của xã hội.
Pháp luật ngày càng thể hiện vai trò xã hội nhiều hơn, tức là phản ánh lợi ích, nhu
cầu của toàn xã hội nhiều hơn xuất phát từ bản chất của nhà nớc và xã hội.
- Nguyên tắc công bằng của pháp luật
Ngay từ khi pháp luật mới ra đời, ngời ta đã coi pháp luật là một đại
lợng phân xử công bằng giữa con ngời với nhau. Từ xa xa, ngời ta đã nhờ
đến sự phán xét của pháp luật để giải quyết các tranh chấp, mẫu thuẫn trong xã
hội. Quan tòa, ngời sử dụng và áp dụng pháp luật để phán xét về các tranh chấp
hoặc mâu thuẫn, đợc coi là biểu tợng của sự công bằng. Vì lẽ đó, vai trò của
các tòa án đã đợc khẳng định từ rất lâu trong lịch sử. Để bảo đảm tính công
bằng trong việc áp dụng pháp luật, ngời ta thờng quan tâm đến sự công minh
và độc lập của thẩm phán trong xét xử.
Pháp luật là khuôn mẫu của các hành vi, cách ứng xử trong xã hội. Đã là
khuôn mẫu, cách ứng xử phổ biến cho xã hội, thì pháp luật cần phải đảm bảo tính
công bằng trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật. Ngay từ thời kỳ cổ đại,
pháp luật đã đợc coi là một đại lợng công bằng. Theo Aristot, công lý chính là
các quy phạm, pháp luật hành động một cách công bằng tức là hành động theo
pháp luật
5
. Tuy vậy, Aristot cũng cho rằng pháp luật phản ánh bản chất nhà

nớc, do đó phản ánh những lợi ích khác nhau trong xã hội, ví nh mối quan hệ
giữa ngời giàu và ngời nghèo. Trong hầu hết sự phân loại các thể chế nhà nớc
lúc bấy giờ, khi bàn về nhà nớc cộng hòa dân chủ, các học giả cổ đại Phơng
tây đều cho rằng pháp luật phải phản ánh đợc sự công bằng, lợi ích của công
dân và xã hội. Trong trờng hợp ngợc lại, chế độ đó sẽ là độc tài. Aristot cũng
nói rằng chế độ dân chủ sẽ chuyển hóa thành chế độ độc tài nếu ý chí đợc điều
tiết bằng pháp luật bị thay thế bởi ý chí cá nhân tùy tiện. Các t tởng chính trị
pháp lý cổ đại Trung Hoa cũng đợc biết đến với t pháp gia với các đại diện
nh Quản Trọng, Thơng Ưởng, Hàn Phi Tử... Các nhà t tởng pháp gia cho
rằng pháp luật là công cụ cai trị xã hội tốt nhất, và để làm đợc điều đó, pháp luật
phải đảm bảo sự công bằng, thởng phạt nghiêm minh. Mặc dù còn có những hạn
chế, song nhng t tởng và một số thực tế chính trị pháp lý đã cho thấy bình
đẳng là một nguyên tắc nguyên thủy từ thời kỳ cổ đại, cho dù nguyên tắc này chủ
yếu thể hiện về mặt t tởng. Tuy vậy, những t tởng đó đã đặt tiền đề hết sức
quan trọng cho việc phát triển t tởng công bằng, dân chủ của pháp luật trong
các thể chế sau này, đặc biệt là ở các thể chế dân chủ t sản và xã hội chủ nghĩa.
2.2. Đặc điểm của nguyên tắc pháp luật trong mỗi kiểu pháp luật
- Các nguyên tắc của pháp luật chủ nô:
Các nguyên tắc của pháp luật chủ nô có cơ sở từ chế độ chiếm hữu nô lệ, thừa
nhận sự cai trị tuyệt đối của chủ nô đối với nô lệ. Pháp luật chỉ coi chủ nô là công


5
Viện khoa học chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Chính trị học (Hệ cao cấp lý
luận chính trị), NXB Lý luận chính trị, Hà nội, 2004
16

dân có đầy đủ quyền hành, còn nô lệ chỉ là một loại tài sản của chủ nô. Nhiều quy
định pháp luật ghi nhận rõ tình trạng bất bình đẳng giữa chủ nô và nô lệ. Pháp luật
có những quy định rất nghiêm khắc để bảo vệ quyền t hữu của chủ nô. Tuy nhiên,

nhiều nguyên tắc pháp luật không đợc ghi thành văn bản mà chủ yếu đợc nhà
nớc thừa nhận thông qua các tập quán bất thành văn. Các nguyên tắc pháp luật thời
kỳ này còn lạc hậu phù hợp với chế độ kinh tế- xã hội lúc bấy giờ.
- Các nguyên tắc của pháp luật phong kiến
Nhà nớc phong kiến, về bản chất, vẫn là nhà nớc chuyên chế, nên các
nguyên tắc pháp luật trong kiểu nhà nớc này vẫn thể hiện tính chuyên chế, bất
bình đẳng và lạc hậu. Pháp luật vẫn bảo vệ đặc quyền của giai cấp phong kiến, ghi
nhận những hình phạt rất tàn bạo đối với những hành vi xâm phạm trật tự xã hội.
- Các nguyên tắc của pháp luật t sản
Có thể nói, pháp luật t sản ra đời là một bớc ngoặt trong lịch sử phát
triển của pháp luật. So sánh với các kiểu pháp luật ở giai đoạn trớc, pháp luật t
sản đã có rất nhiều những nguyên tắc, đặt nền móng cho sự phát triển của pháp
luật cho tới tận ngày nay. Hệ thống pháp luật t sản đợc thiết lập dựa trên những
hệ thống các nguyên tắc pháp luật hết sức chặt chẽ. Có những nguyên tắc pháp
luật chung bao trùm toàn bộ hệ thống pháp luật, có những nguyên tắc pháp luật
trong từng ngành luật, từng chế định pháp luật hoặc từng bộ luật. Chẳng hạn, các
nguyên tắc dân chủ, công bằng, bình đẳng trớc pháp luật; nguyên tắc công dân
đợc làm tất cả những gì mà pháp không cấm, nhà nớc chỉ đợc làm những gì
mà pháp luật cho phép.
- Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là một kiểu pháp luật mới do vậy các nguyên
tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa ngoài việc kế thừa và phát huy những nguyên
tắc pháp luật tốt đẹp, phù hợp của các thời kỳ trớc còn có những sự phát triển rất
mạnh vì lợi ích của nhân dân. Các nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa có
những đặc điểm cơ bản nh: Bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; thể
hiện tính nhân đạo, vì con ngời; thực hiện việc giải phóng con ngời khỏi áp bức
bóc lột, sự bất công và những lệ thuộc khác; dân chủ rộng rãi đối với nhân dân;
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản...

Khái niệm và đặc điểm

của nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa
TS. Nguyễn Minh Đoan
1. Khái niệm nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa
Pháp luật của các nhà nớc đều đợc thiết lập dựa trên những nguyên tắc
nhất định, đó là những t tởng chỉ đạo có tính chất xuất phát điểm, thể hiện sự
17

toàn diện và có ý nghĩa bao quát, quyết định sự đúng đắn về nội dung, chất lợng
và hiệu quả của pháp luật, của quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật.
Các nguyên tắc pháp luật là nền tảng của hệ thống pháp luật luôn thấm nhuần
xuyên suốt toàn bộ hệ thống pháp luật, nói cách khác, mỗi hệ thống pháp luật
đều đợc thiết lập dựa trên hệ các nguyên tắc pháp luật nhất định, do đó, hệ các
nguyên tắc pháp luật nh giá đỡ cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Ngoài ra chúng
còn có tác dụng nh chất kết dính tạo ra sự liên kết và thống nhất giữa các bộ
phận của hệ thống pháp luật.
Các nguyên tắc pháp luật luôn giữ vai trò chỉ đạo, định hớng cho toàn bộ
cơ chế điều chỉnh pháp luật, chúng có ảnh hởng rất lớn tới ý thức pháp luật,
pháp chế, trật tự pháp luật và văn hoá pháp lý trong xã hội. Ngoài ra chúng còn
có ảnh hởng tới chất lợng và hiệu quả của pháp luật và nh vậy xét đến cùng
thì các nguyên tắc pháp luật có ảnh hởng tới địa vị, lợi ích của lực lợng cầm
quyền nói riêng, sự tồn tại và phát triển của cả xã hội nói chung. Do vậy, không
chỉ là cơ sở cho việc ban hành pháp luật, các nguyên tắc pháp luật còn chỉ đạo cả
việc thực hiện và áp dụng các quy phạm pháp luật. Các nguyên tắc pháp luật là
một bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật, chúng có tính ổn định, bền
vững, ít thay đổi hơn so với các quy phạm pháp luật. Bởi chúng gắn liền với bản
chất của pháp luật, phản ánh những mối quan hệ giai tầng, những điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội cơ bản của xã hội, những quy luật quan trọng nhất của hình
thái kinh tế- xã hội tơng ứng. Chính sự ổn định của các nguyên tắc pháp luật sẽ
tạo cơ sở cho sự ổn định của cả hệ thống pháp luật. ở một góc độ khác, nguyên
tắc pháp luật còn đợc coi nh một loại nguồn của pháp luật, đặc biệt là khi thực

tiễn áp dụng pháp luật thiếu hụt các quy phạm pháp luật cụ thể dẫn đến phải áp
dụng pháp luật theo nguyên tắc tơng tự pháp luật. Trong trờng hợp này nguyên
tắc pháp luật đã thay thế cho các quy phạm pháp luật cụ thể để giải quyết những
vụ việc thiếu hụt pháp luật, mà những "lỗ hổng" trong pháp luật thì hầu nh lúc
nào cũng có, chúng ta chỉ có thể làm giảm bớt chứ không thể loại bỏ hoàn toàn
chúng đợc.
Các nguyên tắc pháp luật vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách
quan. Chúng do nhà nớc (con ngời) đặt ra và có vai trò rất quan trọng trong việc
định hớng xây dựng và phát triển của toàn bộ hệ thống pháp luật. Các nhà nớc
luôn quan tâm tới việc đặt ra hoặc thừa nhận những nguyên tắc pháp luật nhất định
cho phù hợp với mỗi thời kỳ phát triển và ở những mức độ khác nhau, những
nguyên tắc pháp luật luôn phản ánh lợi ích và thể hiện ý chí nhà nớc của lực
lợng cầm quyền trong xã hội đó. Tính khách quan của nguyên tắc pháp luật thể
hiện ở chỗ chúng luôn phản ánh những quy luật chung của đời sống xã hội và nội
dung của chúng do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội quyết định. Nguyên tắc
pháp luật thuộc thợng tầng kiến trúc pháp lý, nên các điều kiện về kinh tế, xã
hội quyết định sự hình thành và phát triển của các nguyên tắc pháp luật. Mỗi chế
độ kinh tế- xã hội sẽ xác lập cho mình một hệ các nguyên tắc pháp luật nhất
18

định. Do vậy, các nguyên tắc pháp luật cũng vừa thể hiện tính giai cấp, tính chính
trị sâu sắc, vừa thể hiện tính xã hội rộng lớn. Sự phát triển và thay đổi của xã hội
sẽ dẫn đến sự thay đổi của các nguyên tắc pháp luật. Sự phát triển của các nguyên
tắc pháp luật làm cho mỗi kiểu pháp luật ngoài những nguyên tắc chung lại có
những nguyên tắc riêng của mình, phản ánh bản chất và những đặc điểm về kinh
tế, chính trị, xã hội, t tởngcủa xã hội hiện tại.
Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống những t tởng cơ
bản có liên quan chặt chẽ với nhau chỉ đạo nội dung, quá trình xây dựng, thực
hiện và bảo vệ pháp luật xã hội chủ nghĩa vì lợi ích của nhân dân lao động.
Kế thừa và phát triển những nguyên tắc pháp luật của các thời đại trớc các

nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa là những t tởng mang tính khoa học nhất,
chúng phản ánh những quy luật khách quan của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và những điều kiện khác của đất nớc cần
đợc điều chỉnh bằng pháp luật ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Những nguyên
tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa thờng đợc thể hiện thông qua nội dung đờng
lối chính sách của Đảng Cộng sản, trong nội dung, tinh thần các chính sách pháp
luật, trong các học thuyết chính trị- pháp lý, các văn bản pháp luật, các quy định
pháp luật mà nhà nớc xã hội chủ nghĩa ban hành, trong đó tập trung nhất là hiến
pháp và các văn bản luật quan trọng. Những nguyên tắc pháp luật đợc quy định
trong hiến pháp (những nguyên tắc hiến định) đợc xem là cơ sở để xây dựng và
hình thành các nguyên tắc pháp luật trong các văn bản pháp luật khác.
Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình thành và phát
triển trên cơ sở của chủ nghĩa Mác- Lênin và t tởng Hồ Chí Minh- "là hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa mác- Lênin
vào điều kiện cụ thể của nớc ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại"
(1)
. Sự hình thành và phát
triển của các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự kế thừa, phát
triển những nguyên tắc của pháp luật nói chung, những thành tựu, những nguyên
tắc pháp luật tiến bộ mà loài ngời đã đạt đợc trong lĩnh vực điều chỉnh pháp
luật ở các thời đại trớc, đặc biệt là những nguyên tắc pháp lý tiến bộ của pháp
luật t bản chủ nghĩa. Trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
IX đã nhấn mạnh: "Con đờng đi lên của nớc ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thợng tầng t bản chủ nghĩa, nhng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ t bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ"
(1)

Trong lĩnh vực pháp luật chúng
ta đã tiếp thu, kế thừa và phát triển các nguyên tắc của pháp luật t sản nh


(1)
Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H 2001, tr.83
(1)
Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H 2001, tr.21

19

nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng của công dân trớc pháp luật...
Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa luôn định hớng và đợc vận
dụng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật ở tất cả các giai đoạn của quá trình điều
chỉnh pháp luật từ hoạt động xây dựng pháp luật cho đến hoạt động thực hiện và
áp dụng pháp luật, kể cả hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý vì lợi ích của
nhân dân lao động. Chính nhờ sự chỉ đạo của các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà các quy định pháp luật xã hội chủ nghĩa luôn có sự gắn kết chặt chẽ và
sự thống nhất nội tại rất cao, đồng thời thể hiện sâu sắc bản chất dân chủ, nhân
đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chúng làm cho các quy phạm trong một chế
định pháp luật thống nhất, các chế định pháp luật trong một ngành luật thống
nhất, các ngành luật trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa thống nhất. Mở
rộng hơn các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng làm cho pháp luật của
các nớc xã hội chủ nghĩa nói chung có sự thống nhất căn bản với nhau. Mặt
khác, các nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa cần đợc áp dụng linh hoạt
trong mỗi lĩnh vực, mỗi thời kỳ sao cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của
mỗi nớc khác nhau. Trong quá trình thực hiện chúng thì không nên quá máy
móc, cứng nhắc, tùy theo yêu cầu của vấn đề cụ thể đặt ra mà chú trọng đến
nguyên tắc này hay nguyên tắc khác một cách hợp lý. Chẳng hạn, đối với ngành
luật này nguyên tắc này là quan trọng, song đối với ngành luật khác thì nguyên

tắc khác lại quan trọng hơn hay ở giai đoạn này phải chú trọng nguyên tắc này
nhiều hơn, ở giai đoạn khác lại nhấn mạnh nguyên tắc khác. Trong quá trình phát
triển và hoàn thiện phụ thuộc vào tình hình thực tế của mỗi nớc mà nội dung các
nguyên tắc của pháp luật sẽ có những thay đổi nhất định và cũng có thể xuất hiện
thêm những nguyên tắc pháp luật mới.
Việc xác định và thực hiện các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa phù
hợp sẽ làm cho hệ thống pháp luật có hiệu quả cao, công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội đạt đợc nhiều thành tích, quyền, lợi ích của nhân dân đợc mở
rộng và nâng cao. Ngợc lại, nếu việc xác định hoặc thực hiện các nguyên tắc
pháp luật không chính xác, không tốt sẽ có ảnh hởng xấu đến các hoạt động xây
dựng, thực hiện pháp luật và xét đến cùng sẽ ảnh hởng không tốt đến sự phát
triển kinh tế, chính trị- văn hoá, xã hội của đất nớc và đời sống của nhân dân.
Chẳng hạn, nội dung của một số nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp đợc xây dựng và áp dụng
một cách nóng vội, cứng nhắc, không phù hợp với thực tế đã làm cho nhiều quy
định pháp luật cao hơn so với tình hình, điều kiện kinh tế- xã hội của đất nớc,
khó đi vào cuộc sống dẫn đến hiệu lực và hiệu quả pháp luật không cao. Có thể
nói ở thời kỳ này chúng ta đã mắc sai lầm chủ quan, nóng vội, không tôn trọng,
thậm chí làm trái quy luật khách quan, đồng thời lại bảo thủ, trì trệ, nên đã duy
trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấpkhiến cho nền kinh tế lâm vào
20

tình trạng khó khăn kéo dài, lạm phát triền miên, giá cả không ổn định, đời sống
bấp bênh, các giá trị đạo đức, tinh thần bị sói mòn, tiêu cực phát triển
(1)
.
Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ đổi mới, hội
nhập, xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà
nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã thể
hiện đờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nớc Việt Nam về con đờng đi lên chủ

nghĩa xã hội ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, nhng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt đợc ở các thời đại trớc. Đây "là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đờng, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong những
lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái
cũ"
(2)
. Vì vậy, những nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần đợc
vận dụng một cách mềm dẻo, vì lợi ích thiết thực của đất nớc, của những ngời
dân lao động Việt Nam. Chẳng hạn, trong điều kiện hiện nay chúng ta không thể
áp dụng một cách cứng nhắc là xác lập và củng cố chế độ sở hữu về t liệu sản xuất
nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân kế hoạch hoá tập trung mà phải "xuất phát
từ thực tế của nớc ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần là một đặc trng của thời kỳ quá độ"
1)
, với các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu t nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế đã có những thay đổi cho phù hợp với tình hình mới nhằm chỉ
đạo quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, quá trình thực hiện và áp
dụng pháp luật ở Việt Nam phát triển theo những phơng hớng cơ bản là: Thừa
nhận sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu về t liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa;
chủ động hội nhập quốc tế; mở rộng hơn các thiết chế dân chủ, những hình thức
dân chủ; xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, trong đó quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
t pháp; dân chủ hoá hoạt động của bộ máy nhà nớc; nâng cao quyền tự chủ của

địa phơng, của cấp dới theo hớng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn; ghi
nhận ngày càng nhiều các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; mở rộng phạm vi
điều chỉnh của pháp luật lên các quan hệ xã hội; công bằng, nhân đạo, vì con
ngời; bảo vệ quyền công dân bằng con đờng t pháp; nâng cao an toàn pháp lý
cho các tổ chức và các cá nhân trong và ngoài nớc; đẩy mạnh pháp điển hoá
pháp luật, hoàn thiện các ngành luật; mở rộng tính công khai, minh bạch của


(1)
Trờng Chinh, Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nớc và của thời đại, Nxb Sự thật, H 1987, tr. 13-14.
(2)
Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H 2001, tr.22.
1)
Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H 1987, tr.56.

21

pháp luật; mở cửa và hội nhập, hài hoà hoá pháp luật, từng bớc thu hẹp và tiến
tới xoá bỏ sự khác biệt về một số chính sách và quy định pháp luật của Việt Nam
với pháp luật của các nớc khác và với pháp luật quốc tế...
Việc đổi mới, hoàn thiện các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay phải đợc thực hiện một cách sáng tạo, nhng phải bảo đảm những
yêu cầu cơ bản: thứ nhất, phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế-
xã hội của đất nớc trên cơ sở giải phóng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng
của đất nớc làm cho dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân; thứ hai,
bảo đảm định hớng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nớc trên tất cả
các phơng diện kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội...
2. Đặc điểm của các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội: "Do nhân dân lao động làm chủ; có

một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lợng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các t liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con ngời đợc giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nớc bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nớc trên thế giới"
(1)
. Do vậy, các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa
có những đặc điểm cơ bản sau:
2.1. Luôn đề cao chủ quyền nhân dân.
Sự nghiệp cách mạng ở các nớc xã hội chủ nghĩa là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Trong chủ nghĩa xã hội nhân dân là chủ thể của quyền
lực do vậy, mọi công việc lớn, có ý nghĩa quan trọng phải do nhân dân quyết
định; các thiết chế chính trị trong xã hội do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp lập
ra và phải chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân; các tổ chức này đều đợc
thành lập và hoạt động để thực hiện quyền lực của nhân dân vì lợi ích của nhân
dân. Trong đó nhà nớc xã hội chủ nghĩa là biểu hiện tập trung nhất của quyền
lực nhân dân, đồng thời là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện chủ quyền nhân
dân. Nhân dân không chỉ tham tổ chức và thực hiện quyền lực mà còn có quyền
kiểm tra, giám sát hoạt động của những ngời, những cơ quan thay mặt nhân dân
để thực hiện quyền lực nhân dân. Khi nhà nớc thực sự là của nhân dân, do nhân
dân thì khi đó nhà nớc sẽ vì nhân dân. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"..bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân"
(1)
. Hiến pháp
và pháp luật của tất cả các nớc xã hội chủ nghĩa đều quy định nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nớc



(1)
Đảng Cộng sản Việt nam, Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự
thật, H 1991, tr.8-9.
(1)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, H 1985, tr. 299.
22

thông qua hệ thống các cơ quan đại biểu do nhân dân trực tiếp bầu ra và chịu
trách nhiệm trớc nhân dân.
Thông qua pháp luật nhà nớc xã hội chủ nghĩa luôn tạo điều kiện để nhân
dân tham gia quản lý nhà nớc và quản lý xã hội; ghi nhận và mở rộng nhiều
thiết chế dân chủ, những hình thức thực hiện dân chủ trong xã hội; xác lập mối
quan hệ đúng đắn giữa các tổ chức chính trị trong xã hội trên cơ sở của nguyên
tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa; công khai hoá các hoạt động nhà nớc và xã hội,
thực hiện chủ trơng: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"; mở rộng các
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; trừng trị nghiêm minh mọi hành vi xâm hại
tới các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
2.2. Thực hiện việc giải phóng con ngời khỏi áp bức, bóc lột, bất công và
những lệ thuộc khác.
Mục đích bao trùm của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con
ngời khỏi mọi hiện tợng áp bức, bóc lột con ngời, xoá bỏ mọi sự bất công và
phân biệt đối xử, thực hiện công bằng xã hội vì hạnh phúc con ngời. Vì vậy, các
nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa luôn thể hiện t tởng này thông qua việc:
Củng cố và bảo vệ nền độc lập dân tộc, từng bớc xoá bỏ chế độ chiếm hữu t
nhân về t liệu sản xuất, xóa bỏ các giai cấp bóc lột và tiến tới xoá bỏ mọi hiện
tợng áp bức, bóc lột con ngời; từng bớc xây dựng chế độ công hữu về t liệu
sản xuất, thúc đẩy sự phát triển lực lợng sản xuất; tạo điều kiện cho sự phát triển
toàn diện của con ngời, phấn đấu vơn lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội
và làm chủ bản thân mình; mang lại cho mỗi ngời lao động khả năng nh nhau
trong cống hiến và hởng thụ bằng chính năng lực, sự lao động và cống hiến của

bản thân...
Với tinh thần quốc tế vô sản, những ngời vô sản không chỉ mong muốn
giải phóng ngời lao động trong đất nớc mình mà luôn tích cực ủng hộ các
phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc, của những ngời lao động trên
phạm vi toàn thế giới. Điều này càng thể hiện tính nhân đạo, tiến bộ của pháp
luật xã hội chủ nghĩa trong việc góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.3. Luôn củng cố khối đại đoàn kết toàn dân vì hoà bình, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng xã hội
chủ nghĩa: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành
công". Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa luôn ghi nhận và thể hiện tinh
thần đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lợng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu
nớc mạnh; thực hiện chính sách đối ngoại vì hoà bình, hợp tác và hữu nghị với
tất cả các nớc; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn
kết với các nớc xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lợng đấu tranh vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản luôn là đảm bảo cao nhất cho chế độ xã
hội chủ nghĩa bởi mục đích của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc
23

sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Sự nghiệp cách mạng mà nhân dân tiến
hành sẽ không thể thắng lợi nếu không có vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì lẽ đó
trong tất cả các hoạt động quan trọng của nhà nớc và xã hội pháp luật xã hội
chủ nghĩa luôn ghi nhận, củng cố bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối
với nhà nớc và xã hội xã hội chủ nghĩa.
2.4. Không ngừng phát triển, hoàn thiện vì các mục tiêu dân chủ, nhân
đạo, vì hạnh phúc của con ngời.
Các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa luôn không ngừng đợc hoàn

thiện và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa vì các mục
tiêu dân chủ, nhân đạo vì hạnh phúc của con ngời. Trong chủ nghĩa xã hội con
ngời là giá trị cao quý nhất, mọi cố gắng của nhà nớc và xã hội đều phải nhằm
mục đích phục vụ con ngời, vì lợi ích và hạnh phúc của con ngời. Do vậy,
trong hoạt động xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật, nhà nớc xã hội chủ
nghĩa luôn thấm nhuần t tởng chỉ đạo là bảo vệ tính mạng, danh dự, sức khoẻ
và nhân phẩm cho mỗi ngời. Mọi ngời sống với nhau trong tình thân ái, đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trên tinh thần "mỗi ngời vì mọi ngời, mọi
ngời vì mỗi ngời". Tạo mọi điều kiện để mỗi ngời có thể phát huy cao nhất và
tốt nhất những khả năng của mình, tự quyết định hạnh phúc của mình. Mục đích
của pháp luật là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi
thành viên trong xã hội. Các biện pháp trách nhiệm pháp lý đợc quy định không
có mục đích gây đau khổ về thể xác, hành hạ con ngời hoặc hạ thấp nhân phẩm
của họ mà phải vừa đảm bảo sự trừng phạt phù hợp với những hậu quả mà họ đã
gây ra cho xã hội, vừa đảm bảo sự giáo dục, cải tạo chủ thể vi phạm pháp luật để
họ có thể trở lại với cuộc sống lơng thiện cùng các chủ thể khác trong xã hội.
Có sự kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục và cỡng chế trong các cách thức tác
động pháp luật lên các quan hệ xã hội.
3. Phân loại các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa
Pháp luật xã hội chủ nghĩa có rất nhiều các nguyên tắc khác nhau nên
cũng có rất nhiều cách để phân chia chúng thành các nhóm khác nhau tuỳ theo
cách tiếp cận của chủ thể phân chia. Và đơng nhiên sự phân chia và xác định tên
gọi các nguyên tắc pháp luật theo cách nào thì cũng chỉ mang tính chất tơng đối
mà thôi, vì: thứ nhất, giữa các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa luôn có mối
liên hệ mật thiết với nhau, nội dung của chúng luôn đan xen nhau nhiều khi khó
có thể tách bạch một cách rạch ròi; thứ hai, các nguyên tắc pháp luật xã hội chủ
nghĩa luôn có sự vận động, phát triển không ngừng cho phù hợp với sự vận động,
phát triển của xã hội và mức độ vận dụng các nguyên pháp luật ở mỗi nớc, mỗi
giai đoạn cũng khác nhau. Chúng ta có thể phân loại các nguyên tắc pháp luật xã
hội chủ nghĩa theo một số cách sau:

a). Theo tính chất và mục đích của các nguyên tắc có thể chia các nguyên
tắc pháp luật thành: Các nguyên tắc chung mang tính chất chính trị- xã hội và các
24

nguyên tắc pháp lý đặc thù.
+ Các nguyên tắc chung của pháp luật: là những nguyên tắc luôn phản ánh
một cách trực tiếp chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đợc đặt ra nhằm xác định rõ
những nguyên lý, t tởng chỉ đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa là thiết lập,
củng cố và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, nhằm đa lại cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân lao động. Chẳng hạn, các nguyên tắc nh bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản trong các hoạt động nhà nớc, nguyên tắc xác lập và bảo
vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa... Các nguyên tắc chung của pháp luật luôn chỉ
đạo, quán xuyến toàn bộ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
+ Các nguyên tắc pháp lý đặc thù của pháp luật: là những nguyên tắc thể
hiện rõ bản chất và những đặc trng của pháp luật, chúng đợc đặt ra nhằm giải
đáp vấn đề có tính đặc thù là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa sẽ củng cố và
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa nh thế nào. Chẳng hạn, nh nguyên tắc pháp
chế, nguyên tắc bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, tính phù hợp, tính khả thi của hệ
thống pháp luật. Về cấu trúc, các nguyên tắc pháp lý đặc thù đợc phân chia theo
phạm vi hiệu lực của pháp luật thành các nguyên tắc liên ngành luật (Chẳng hạn,
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trớc pháp luật; khi xét xử Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật) và nguyên tắc của
ngành luật (Chẳng hạn, nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; nguyên tắc cá
biệt hoá trách nhiệm hình sự).
b). Nếu phân chia theo phạm vi chỉ đạo của các nguyên tắc pháp luật đối
với hệ thống pháp luật sẽ có: Các nguyên tắc chung; các nguyên tắc liên ngành;
các nguyên tắc của ngành luật, thậm chí có nguyên tắc của từng văn bản pháp
luật...
+ Các nguyên tắc pháp luật chung: là những nguyên tắc liên quan đến toàn
bộ hệ thống pháp luật, các hoạt động pháp luật ở bất kỳ một lĩnh vực nào. Chẳng

hạn, nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng xã hội, nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn liên quan đến tất cả các ngành luật
trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
+ Các nguyên tắc pháp luật liên ngành: là những nguyên tắc liên quan đến
hai hoặc một số ngành luật. Chẳng hạn, nguyên tắc việc xét xử ở toà án do Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân thực hiện; nguyên tắc khi xét xử các thẩm phán và
hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc của cả ngành
luật tố tụng hình sự lẫn ngành luật tố tụng dân sự và pháp luật về tổ chức và hoạt
động của toà án
+ Các nguyên tắc pháp luật của ngành luật: là những nguyên tắc chỉ liên
quan tới một ngành luật. Ngoài những nguyên tắc chung, mỗi một ngành luật
trong hệ thống pháp luật còn đợc chỉ đạo bởi một số những nguyên tắc đặc thù
của ngành luật đó. Chẳng hạn, nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng; nguyên
tắc tự nguyện kết hôn trên cơ sở tình yêu chỉ liên quan đến luật hôn nhân và gia
25

đình. Còn ngành luật hình sự Việt Nam có những nguyên tắc đặc thù nh nguyên
tắc trách nhiệm cá nhân; nguyên tắc có lỗi; nguyên tắc cá thể hoá hình phạt
c). Nếu phân chia theo lĩnh vực của đời sống xã hội mà các nguyên tắc
pháp luật chỉ đạo sẽ có đợc: Nhóm nguyên tắc kinh tế; nhóm nguyên tắc chính
trị; nhóm nguyên tắc đạo đức; nhóm nguyên tắc xã hội; nhóm nguyên tắc t
tởng; nhóm nguyên tắc pháp lý.
+ Nhóm nguyên tắc kinh tế của pháp luật: là những nguyên tắc liên quan
đến việc xác lập, củng cố và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhằm mục
đích làm cho dân giàu, nớc mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất
và tinh thần của nhân dân... Chẳng hạn, nguyên tắc xác lập và bảo vệ chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy quá
trình xã hội hoá t liệu sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân lao động;
nguyên tắc "làm theo năng lực, hởng theo lao động"
+ Nhóm nguyên tắc chính trị của pháp luật: là những nguyên tắc liên quan

đến việc xác lập, củng cố chính quyền nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham
gia quản lý nhà nớc và quản lý xã hội, tự quyết định lấy vận mệnh và xu hớng
phát triển của đất nớc mình... Chẳng hạn, nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân; nguyên tắc bảo đảm sự ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội
+ Nhóm nguyên tắc đạo đức của pháp luật: là những nguyên tắc xác định
ý thức, trách nhiệm, bổn phận của mỗi con ngời trong xã hội xã hội chủ nghĩa
trớc nhà nớc, xã hội và nhân loại nói chung, trớc gia đình và bản thân nói
riêng... Chẳng hạn, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc sự thống
nhất giữa quyền và nghĩa vụ của nhà nớc, xã hội và công dân; củng cố tinh thần
quốc tế vô sản, tình yêu tổ quốc, lòng tự hào dân tộc, bảo vệ gia đình
+ Nhóm nguyên tắc xã hội của pháp luật: là những nguyên tắc nhằm đề
cao con ngời lao động, đảm bảo cho mỗi ngời có điều kiện phát triển toàn diện
về mọi mặt, thực hiện sự công bằng xã hội... Chẳng hạn, nguyên tắc bảo vệ
quyền, tự do, lợi ích chính đáng của ngời lao động, bảo đảm an toàn cho mỗi
ngời, tôn trọng quyền con ngời, những giá trị nhân phẩm, đạo đức của mỗi
ngời; tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân;
nguyên tắc công bằng xã hội
+ Nhóm nguyên tắc t tởng của pháp luật: là những nguyên tắc nhằm bảo
vệ những giá trị văn hoá, tinh thần trong xã hội, tạo điều kiện để mỗi ngời dân
có thể tiếp cận, tiếp thu và hởng thụ những giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc
và nhân loại theo quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học... Chẳng hạn, nguyên
tắc tôn trọng tự do t tởng, tự do tín ngỡng; xây dựng thế giới quan khoa học
cộng sản chủ nghĩa trong pháp luật và trong các hoạt động pháp luật, chống mọi
quan điểm cực đoan, giáo điều, xa rời thực tiễn và những quan điểm chống chủ
nghĩa xã hội

×