LỜI NÓI ĐẦU
Phát triển kinh tế là vấn đề quan trọng nhất từ trước tới nay của xã hội
loai người. Kể từ khi con người xuất hiện , xã hội loài người đã trải qua và
hình thành xã hội : cuộc sống nguyên thuỷ , chiếm hữu nô lệ , phong kiến , tư
bản chủ nghĩa và đỉnh cao đang huớng tới xã hội chủ nghĩa . Tương ứng với
mỗi tình thái xã hội trong một hình thái kinh tế mang nét đặc trưng riêng . Tư
bản chủ nghĩa cũng vậy , đây là một giai đoạn mà của cải vật chất của xã hội
được sản xuất ra nhiều hơn tất cả các giai đoạn trước cộng lại . Một giai đoạn
chứng kiến bao sự biến đổi cả về mặt chất lẫn về mặt lượng của xã hội loài
người : kinh tế , khoa học kĩ thuật , chính trị , văn hoá ... Tuy nhiên trong giai
đoạn này cũng là một giai đoạn phát triển còn nhiều thiếu sót như phân biệt
giàu nghèo , khủng hoảng king tế , chiến tranh bất công bằng trong xã hội ...
Từ những khuyết tật đó , con người muốn hướng tới một xã hội ở đó con người
có quyền bình đẳng , không còn đói nghèo và áp bức bóc lột , vật chất sản
xuất ra có thể đáp ứng mọi nhu cầu của con người... đó chính là chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Nhưng liệu xã hội tiến lên cộng sản chủ nghĩa bằng con đường nào và
trong bao lâu , đây là một bài toán nan giải đã đang và sẽ đặt ra với tất cả
nhân loại. Để tiến lên xã hội chủ nghĩa thì cần phải trải qua hai giai đoạn : đó
là giai đoạn chủ nghĩa xã hội và giai đoạn chủ nghĩa cộng sản. Hiện nay nước
ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ; một thời kì mang tính
chất quá độ , cái mới thì chưa thành cái cũ thì chư hoàn toàn dứt bỏ , thời kí
này có sự giao nhập của nhiều tư tưởng . Dưới ngọn cờ của Đảng là kim chỉ
nam la Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta cúng khong thể đốt
cháy giai đoạn hay phủ nhận hoàn toàn những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản
đạt được , nhất là c3 chủ nghĩa tư bản nhà nước . Theo Lênin thì trong giai
1
đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa , chúng ta không thể vuứt bỏ hoàn toàn chủ
nghĩa tư bản nhà nước mà phải thấy được những điểm mạnh của nó dể phát
huy.
Sau sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông Âu , hệ thống các nước
theo chủ nghĩa xã hội bị ảnh hưởng rất lớn . Tuy nhiên Đảng và nhân đân Việt
Nam vẫn kiên định đi theo con đường đã chọn và bảo vệ thành quả Cách mạng
. Để tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải trải qua rất nhiều khó khăn do
xuất phát điểm rất thấp , nền kinh tế lạc hậu , khoa học kĩ thuật thấp , trình độ
quản lí còn yếu kém ...Vì vậy muốn phát triển xã hội chúng ta phải áp dụng mô
hình kinh tế nhà nước tư bản vào sản xuất và quản lý . Đây là một vấn đề cần
giải quyết làm sao cho phù hợp với nền kinh tế nước ta , tình hình phát triển
kinh tế khu vực và thé giới trong sự chuyển hoá mạnh mẽ của nền kinh tế toàn
cầu , chúng ta phải đuổi kịp được guồng quay của toàn cầu hoákinh tế . Cũng
vì thế nên đề án kinh tế chính trị :
((
Chủ nghĩa Mác - Lênin về xã hội chủ
nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa ở Việt Nam
))
là một đề án rất cấp bách không chỉ đặt ra cho các nhà
kinh tế và quản lý mà còn là một vấn đề đặt ra cho chúng ta , những cử nhân
kinh tế tương lai một kết luận nhận thức và thực tế của nền kinh tế nước ta
hiện nay đó là phát triển nền kinh tế TT theo định hường Xã hội chủ nghĩa .
2
PHẦN NỘI DUNG
A. Lý luận của V.I.Lê Nin về c CNTB nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH
I- Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết phải sử dụng Chủ
nghĩa Tư bản Nhà nước .
1. Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết phải sử dụng Chủ nghĩa Tư bản
Nhà nước .
Sau khi giành được chính quyền từ tay phong kiến lại bước vào cuộc
chiến nhằm lật đổ chế độ thành quả cách mạng vừa đạt được . Một nước nga
vừa bước ra khỏi cuộc nội chiến với nền kinh tế lâm vào tình trang khủng
hoảng trầm trọng : Thiếu lương thực , thiếu năng lượng , sản xuất đình đốn ,
nông dân nghèo đói , khối liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ ... thì chỉ
sau một thời gian ngắn hầu hết các ngành đều đã đạt và vượt mức trước chiến
tranh , nền kinh tế được phục hồi dần , nhân dân hăng hái thi đua lao động sản
xuất . Nước Nga như được thổi một luồng sinh lực mới kể từ khi chính sách
kinh tế mới ra đời . Thực tiễn đó đã bác bỏ những kể thù của Nhà nước Xô
viết và những bọn hoài nghi khách coi chính sách kinh tế mới như là một
chính sách quay về chủ nghĩa tư bản .
Khi kế thừa những lý luận của Mác- Anghen , Lê Nin đã nói đến một
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là
những nhân tố của xã hội mới và những tàn tích của xã hội cũ tồn tại đan xen
lẫn nhau , đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội , tư tưởng , tập quán trong xã hội ... trong giai đoạn này, chưa
có một lực lượng nào thắng thé tuyệt đối , có nghĩa là việc tiếp tục áp dụng
phương thức sản xuất và phân phối cộng sản chủ nghĩa là một sai lầm đáng
3
tiếc và ngay giai đoạn thấp của Chủ nghĩa cộng sản chúng ta cũng không thể
đạt tới được .
Sự thiên tài của Lê Nin được thểhiện ở việc người đã nhận ra sự ấu trĩ
ấy và đã phát triển ngay lý luận của Mác khi cách mạng Xã hội Chủ nghĩa
mới giành được thắng lợi chỉ trong một thời gian rất ngắn . Lênin nhấn mạnh
việc cần phải xác định xem mình đang ở giai đoạn nào của quá trình phát
triển. Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị Quốc hữu hoá nay cho tư nhân thuê
hay mua lại đẻ kinh doanh tự do , chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng . Cho phép mở rộng trao đổi hàng hoá giữa thành thị và nông thôn , giữa
công nghiệp và nông nghiệp cho thương nhân được tự do hoạt động ( chủ yếu
là bán lẻ ) để góp phần khôi phục kinh tế thay thế chính sách trưng thu lương
thực bằng chính sách thuế lương thực . Theo chính sách này người nông dân
phải nộp thuế lương thực với một mức cố định trong nhiều năm . Mức thuế
này căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất đai canh tác . Nói cách khác thuế
nông nghiệp chính là địa tô mà người nông dân canh tác trên ruộng đất thuộc
sỏ hữu toàn dân phải trả cho nhà nước . Số lượng lương thực còn lại người
nông dân được tự do trao đổi , mua bán trên thị trường . Tổ chức thị trường ,
thương nghiệp , thiết lập quan hệ hàng hóa - tiền tệ giữa nhà nước và nông
dân , giữa thành thị và nông thôn , giữa công nghiệp và nông nghiệp . Sử
dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần , các hình thức kinh tế quá đọ như
khuyến khích phát triển sản xuất nhỏ của nông dân , thợ thủ công , khuyến
khích kinh tế tư bản tư nhân , sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước, củng cố
lại các doanh nghiệp nhà nước , chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế. Đồng
thời, V.I.Lênin chủ trương phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các
nước tư bản phương tây để tranh thủ kỹ thuật , vốn và khuyến khích kinh tế
phát triển . Danh từ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết có nghĩa là chính
quyền Xôviết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ
4
hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế hiện nay là chế độ xã
hội chủ nghĩa
((
điều này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng , nhất là sau thất
bại nặng nề của chính sách cộng sản thời chiến hồi mùa xuân năm 1921 . Nó
chỉ là một chính sách tạm thời trong thời chiến còn khi đất nước đã giành lại
thắng lợi thì chẳng người dân nào còn muốn thực hiện nó nữa . Còn lúc này
Nga là một nước trung nông chú không phải là một nước tư bản phát triênt
như Đức hay Anh , Pháp để mà có thể chuyển lên ngay chủ nghĩa xã hội .
Muốn duy trì đượ chủ ngihã xã hội thì phải có những cơ sở kinh tế , xã hội
nhất định . Sai lầm ở đây là những người cộng sản tưởng rằng chỉ cần thiết lập
chế độ sản xuất quốc doanh và chế đọ nhà nước phân phối là đã bắt đầu một
chế độ kihn tế mới khác với chế độ trước .
Như vậy đến thời kỳ hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chính sách
kinh tế công sản thời chiến không còn thích hợp là một điều tất yếu và cần
phải được thay thế bằng một chính sách khác phù hợp hơn với quy luật của sự
phát triển
Theo Lênin , nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn cần phải được tổ chức
theo kiểu sản xuất hàng hoá và vận động theo các quy luật kinh tế hoàng hoá ,
kinh tế thị trượng . Giai cấp vô sản lãnh đạo cần thiết phải biết sử dụng tốt các
quan hệ hàng - tiền , các phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá để thực hiện
được mục đích của mình . chính sách kinh tế mới ( NEP ) ra đời . Vậy thực
chất của chính sách này là như thê nào và nó có ưu điểm gì hơn so với chính
sáchsách cộng sản thời chiến.
Có thể khái quát toàn bộ nội dung của chính sách kinh tế mới thành
chính sách phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất , đặc biệt đối với một nước
tiểu nông quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây được coi là nhiệm vụ cơ bản và
bức thiết nhất , phù hợp với cương lĩnh mà Đảng đã đề ra .
5
Chúng ta biết rằng bất cứ một lí luận nào đưa ra đều phải dựa trên những
cơ sở thực tế khách quan . Nước Nga lúc bấy giờ là một nước trung nông ,
nông dân chiếm đại đa số nhưng sau chiến tranh nó lại rơi vào tình trạng thiếu
lương thực trầm trọng , nạn đầu cơ tích trữ lúa mì gia tăng khiến cho chính
phủ không thể kiểm soát được tình hình . Các hoạt động sản xuất đều bị đình
trệ , toàn bbộ nền đại công nghiệp bị phá huỷ toàn bbộ sau chiến tranh , công
nhân thiếu việc làm , thiếu lương thực , đời sống hết sức khó khăn . Kể cả đối
với một nước giàu nhất và phát triển nhất thì sau cuộc chiến tranh đế quốc tàn
phá cũng chỉ có thể khôi phục được nền đại sản xuất công nghiệp sau nhiều
năm . Vậy với một nước tiểu nông , giải pháp tối ưu để khôi phục nền kinh tế
phải chăng là cải thiện đời sống của người nông dân và nâng cao lực lượng
sản xuất của họ , đồng thời trong một chừng mực nào đó có thể khôi phục nền
tiểu công nghiệp để giúp đỡ ngay một phần nào đó cho nền king tế nông
dân ?
Lênin khẳng định
((
phải bắt đầu đầu tư nông dân , người nào không
hiểu điều đó , người nào có ý đưa vấn đề nông đân lên hàng đầu như thế là
một sự từ bỏ hoặc tương tự như sự từ bỏ chuyên chính vô sản , thì chẳng qua
là vì người đó không chịu suy nghĩ kĩ càng vấn đề đó và bị loèi nói chống
rỗng chi phối
))
. Tuy giai cấp vô sản nắm chính quyền nhưng một sự liên kết
chặt chẽ giữa giai cấp nông dân trong một nước tiểu nông sẽ là điều kiện cần
để thực hiện được chủ nghĩa xã hội . Giai cấp tư sản với tư cách là giai cấp
lãnh đạo cần thiết phải biết hướng chính sách vào việc giải quyết trước tiên
những vấn đề cấp thiết nhất , mấu chốt nhất . Mà
((
vấn đề cấp thiết nhất hiện
nay là dùng các biện pháp có thể khôi phục ngay lực lượng sản xuất cuả kinh
tế nông dân
))
. Chính sách thuế lương thực và tự do trao đổi ra đời chính là sự
biểu hiện quan điểm đó của Lênin . Đối với những người tiểu nông thì chế độ
xã hội chủ nghĩa hay chế độ tư bản không quan trọng , điều mà họ quan tâm
6
là họ sẽ được lợi như thế nào . Việc tự do trao đổi hàng hoá và lương thực
thừa đẫ tạo ra một động lực thúc đẩy tinh thần hăng say lao động của người
nông dân . Đối với nước Nga lúc bấy giờ , nông nghiệp phát triển tất sẽ kéo
theo các ngành khác phát triển . Chính điều đó đã củng cố thêm mối liên minh
công nông và vô sản được sự ủng hộ của những nông dân nghèo khổ . Tuy
nhiên nói đến tự do trao đổi là tự do buôn bán , mà tự do buôn bán theo quan
điểm của Lênin thời đó - tức là lùi lại chủ nghĩa tư bản. Lênin chỉ rõ , tự do
buôn bán là khôi phục chủ nghĩa tư bản trên một mức độ lớn , là tự do của chủ
nghĩa tư bản . Điều đó có phải là một thất bại nặng nề của giai cấp vô sản hay
không hay chỉ là một bước lùi mang tính chiến lược mà chính quyền Xô Viết
thi hành nhằm đạt được cái mà mình muốn .
Cần thấy ngay rằng với chính sách tự do trao đổi , từng lớp sản xuất
nhỏ đã phát triển nhanh chóng và chủ nghĩa tư bản là cần cho đông đảo quần
chúng nông dân và cho tư bản tư nhân là người phải buôn bán để thoã mãn
nhu cầu nông dân . Để vừa khuyến khích sản xuất phát triển mà vẫn giữ được
bản chất chuyên chính của mình , giai cấp vô sản chỉ có thể thừa nhận cho chủ
nghĩa tư được phát triển ở một chừng mực nào đó . Tư bản tư nhân cần phải
được phát triển theo sự điều tiết của Nhà nước , và điều đó tất dẫn đến sự ra
đời của chủ nghĩa tư bản Nhà nước .
Một nguyên nhân nữa dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản nhà nước
là ở ngay tình trạng sản xuất của nước Nga lúc bấy giờ . Mác và Anghen dự
báo rằng : Cách mạng vô sản và do đó chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng
sản sẽ nổ ra và thắng lợi cùng một lúc , hoặc trong phần lớn các nước tư bản
tiên tiến ở tây âu . Thế nhưng nước Nga là một nước tư bản trung bình - theo
cách đánh giá của Lênin - đang muốn tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội .
Nó không phải là nước Anh xã hội chủ nghĩa hay nước Đức xã hội chủ
nghĩa . Vì vậy nếu chỉ muốn không thôi mà không có nền tảng kinh tế vững
7
chắc thì con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đột phá vào tương lai là một điều
không tưởng . Lênin nói rõ thêm không có kĩ thuật tư bản chủ nghĩa đựoc xây
dựng trên những trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại thì
không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được . Nhiệm vụ của chính quyền vô sản
Nga là hết sức nặng nề . Làm sao để nước Nga vốn lạc hậu về khoa học kĩ
thuật , trình độ dân chí thấp lên một nước có trình độ khoa học kĩ thuật phát
triển , khoa học kĩ thuật tiến tiến khi mà đại đa số nhân dân là nông dân
nghèo chỉ có biết sản xuất nông nghiệp . Mối quan hệ giữa công nghiệp và
nông nghiệp , nông dân với công nhân không chỉ mang tính chất một chiều
mà người nông dân cũng cần những sản phẩm , hàng hoá của công nghiệp và
thủ công nghiệp, điều đó sẽ kích thích cả công nghiệp và nông nghiệp phát
triển . Thế nhưng sau chiến tranh nước Nga còn lại gì ?
Chỉ như " một người bị đánh gần chết ... và may mà nó vẫn có thể chống
nạng mà đi được " . Không có bất kỳ sự ủng hộ của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở một nước hay một số nước nào, nuớc Nga phải dựa vào nỗ lực của
mình là chính nhưng điều đó vẫn chua đủ . Dân tộc Nga cần phải dựa vào thời
đại để tồn tại , để xây dựng lý tưởng của mình . Trong khi chủ nghĩa tư
bảnvẫn mạnh thì tại sao ta không dựa vào nó để sống ? Lênin nói rõ điều đó
chúng ta không thể tự mình làm được nếu không có sự giúp đỡ của tư bản
nước ngơài . Người nào không chìm đắm trong ảo tưởng mà nhìn vào thực
tế , thì phải hiểu rõ điều đó . Theo Lênin cần phải du nhập chủ nghĩa tư bản từ
bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán với các nước tư bản lón bằng chính
sách tônhượng . Tóm lại bằng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư
bản nhà nước , chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ làm một bước tiến so với tình
hình hiện nay trong nước cộng hoà Xô Viết của chúng ta . Nếu chẳng hạn
trong nửa năm nữa chúng ta thiết lập được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì đó
8
sẽ là thắng lợi to lớn và sẽ đảm bảo chắc chắn rằng qua một năm sau chủ
nghĩa xã hội sẽ được củng cố hoần toàn và trở nên vững chắc .
Tại sao một nước xã hội chủ nghĩa lại có thể tồn tại một hình thứccủa
chủ nghĩa tư bản nhưng đó lại là nhận xét của V.I.Lênin , người đã sáng lập ra
Đảng cộng sản Xô Viết đưa dân Nga đi theo con đường chủ nghĩa tư bản .
Bằng những chính sách tiến bộ và những thành quả đạt được sau một thời
gian ngắn thực hiện chính sách kinh tế mới ( NEP ) mà nội dung chủ yếu của
chính sách này là việc thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lênin đã chứng
minh được rằng nhận định trên là hoàn toàn đúng đắn với một nước Nga có
chính quyền mới non trẻ và một nền kinh tế đi lên từ lạc hậu .
2/ Thành tựu của chính sách kinh tế ( NEP ) .
Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở cả
thành thị lẫn nông thôn , vì nó đắp ứng được nhu cầu của qui luật kinh tế của
nền sản xuất xã hội chủ nghĩa còn mang tính chất hàng hoá và có nhiều thành
phần . Nhờ đó , trong một thời gian ngắn , Nhà nước Xô Viết đã khôi phục
được nền kinh tế quốc dân bị chiến tranh tàn phá , ã tiến được một bứoc dài
trong việc củng cố khối liên minh công nông ; một Nhà nước công nông nhiều
dân tộc đầu tiên trên thế giới đã được thành lập , đó là liên bang cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Xô Viết .
Chính sách kinh tế mới còn có ý nghĩa quốc tế của nó . Đối với các nước
tiên tiến lên chủ nghĩa xã hội đều cần thiết vận dụng tinh thần cơ bản của
chính sách đó bchẳng hạn như vấn đề quan hệ hàng hoá - tiền tệ , nguyên tắc
liên minh công nông , sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần .
Chính sách kinh tế mới được quán triệt trong các ngành kinh tế và lấy
việc khôi phục nông nghiệp làm nhiệm vụ hàng đầu , là vấn đề cấp bách trước
mắt . Đến cuối xuân năm 1922 , Liên Xô đã vượt qua được nạn đói và
đếnnăm 1925 , nông nghiệp Liên Xô đã vượt mức trước chién tranh .
9
Tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với năm 1913 mới đặt 75.5%.
tuy nhiên ngành iện và cơ khí chế tạo vượt mức trước chiến tranh , nhiều xí
nghiệp công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm đã đặt và vượt mứ trước
chiến tranh . Trong việc thực hiện chính sách kinh tế mới , Lênin coi thương
nghiệp là mắt xíchtrong chuỗi dây xích các sự biến lịch sử mà Nhà nước phải
đem toàn lực ra mà nắm lấy nó . Do đó thương nghiệp đã được tăng cường
mạnh mẽ .
II-Chủ nghĩa tư bản nhà nước
1.Khái niệm:
Chủ Nghĩa Tư Bản là một hình thái kinh tế xã hội lớn của xã hội loài
người với các giai đoạn phát triển khác nhau.Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước là
một trong những giai đoạn lịch sử quan trọng của Chủ Nghĩa Tư Bản .Không
một ai có thể phủ nhận thành quả của Chủ Nghĩa Tư Bản ù đã đạt được ,đó là
một bứơc ngoặt của lịch sử.
C.Mac đã có nhận xét xác đáng rằng trong vòng chưa đầy một thế kỷ
thống trị của mình Chủ Nghĩa Tư Bản đã tạo ra một mức sản xuất khổng lồ
bằng tất các thế hệ loài người trước đó đã tạo ra .Từ lúc xuất hiện loài
người ,họ đã sốnng lâu dài trong nền sản xuất nhỏ lạc hậu,phân tán ,năng
xuất vô cùng thấp kém, không bảo đảm tái sản suất giản đơn.Từ đầu thế kỷ
XVI đến nay,lần đầu tiên trong lịch sử ,Chủ Nghĩa Tư Bản đã chuyển nền sản
xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn với đặc trưng về chất so với sản xuất nhỏ.Sự
thắng lợi này diễn ra đầu tiên ở nước Anh rồi lần lượt sang các nước Pháp
,Đức,…và các nước khác . Cùng với đà phát triển của lực lượng sản xuất ,quá
trình xã hội hoá sản xuất cũng đạt đượcnhưỡng bước tiến lớn , với trình độ
cao . Hiệp tác đơn giản , công trường thủ công nền đại công nghiệp cơ khí là
những giai đoạn phát triển xã hội hoá sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa .
10
Mầm mống đầu tiên của Chủ Nghĩa Tư Bản chính là sự tích luỹ tư bản
nguyên thuỷ, với sự buôn bán nô lệ ,trao đổi buôn bán các loại hàng hoá với
nước ngoài do nền sản xuất thủ công phát triển và do bóc lột thuộc địa các
nước đã tích luỹ được một khối lượng khổng lồ tư bản cho nền sản xuất tư
bản sau này .Tiếp tục phát triển kinh tế với sự trợ giúp đắc lực của khoa học
kĩ thuật các nước Tư bản tiếp tục phát triển vượt bậc về kinh tế , sự cạnh tranh
của các nước về thi trường tiêu thụ hàng hoá ,thuộc địa…đã dẫn đến các cuộc
chiến tranh lớn mà điển hình là hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ
hai vô cùng ác liệt và thảm khốc.
Hình thức xã hội hoá cao hơn khi Chủ Nghĩa Tư Bản chuyển lên giai
đoạn Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền va đỉnh cao là Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà
Nước . Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà Nước là hình thức thống trị của
Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền dựa trên cơ sở tích tụ và tập trung tư bản ra đời
từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất ,nó xuất hiện đầu tiên ở Đức .Do cạnh
tranh quá khốc liệt nên các nhà sản xuất tư bản có xu hướng liên kết với nhau
hay quy luật cá lớn nhuốt cá bé hìmh thành nên các tập đoàn độc quyền quốc
gia đến các tập đoàn xuyên quốc gia cac- ten, xanh-di-ca,congglomera
.Trong giai đoạn này vai trò của nhà nước con chưa thực sự quan trọng lắm
nhưng sau này thì nó càng thể hiện vai trò của mình như trong giai đoạn Chủ
Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà Nươâc cộng sản thể nói tư bản dẫ tạo ra phần
một nền tảng kinh tế vững chắc với cơ sở khoa học kĩ thuật tiên tiến,nền sản
xuất cơ khí ,tự động hoá tạo ra một khối lượng vật chất khổng lồ.
Lênin đã từng so sánh nước nga với nước Đức lúc bấy giờ và cho rằng
nếu nước Nga có đầy đủ vật chất kỹ thuật như nước Đức thì có thể chuyển
tiếp lên Chủ Nghĩa Xã Hội mà không phải trải qua bất kì một giai đoạn trung
gian nào. Người nhận định rằng “Chủ Nghĩa Tư Bản đọc quyền Nhà nước là
sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho Chủ Nghĩa Xã Hội ,là phòng chờ đi vào
11
Chủ Nghĩa Xã Hội mà giữa nấc thang đó với nấc thang Chủ Nghĩa Xã Hội
không còn một nấc thang nào nữa cả” .Như vậy xã hội cộng sản chỉ có thể
xuất hiện một cách tự nhiên khi những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội được
chuẩn bị đầy đủnhất , một “phòng chờ” lý tưởng cho Chủ Nghĩa Xã Hội đã
sẵn sàng.
Nhưng thắng lợi của Cách Mạng Tháng 10 Nga không xuất phát từ
tiền đè nói trên.Là một nước tư bản phát triển trung bình và còn nhiều mặt
hạn che á, nước Ngak có cơ sở vật chất kĩ thuật , không có lực lượng sản xuất
phàt triển nhằm tạo tiền đề vật chất cho Chủ Nghĩa Xã Hội ra đời .Chính vì
vậy nó không thể quá độ trực tiếp lên Chủ Nghĩa Xã Hội mà phải lấy mô
hình gián tiếp đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội .người nói trong bối cảnh đó ,phải
biết bắc chiếc cầu nhỏ xuyên qua Chủ Nghĩa Tư Bản lên Chủ Nghĩa Xã
Hội ,đó là Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Ø nước _một sự trở lại con đường phát
triển hợp quy luật kinh tế.
Khi LÊ_NIN đã đưa quan niệm về Chủ Nghĩa Tư Bản nhà nước ,đã có
rát nhiều người hoang mang giao động .ngay cả bản thân LÊ_NIN cũng bất
ngờ về “thứ Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà nước” không ai dự kiến này .Mọi người
cho rằng” Chủ Nghĩa Tư BảnNhà nước là Chủ Nghĩa Tư Bản “,và ta có thể
cần hiểu như thế thôi .LÊ-nin đã thuyết phục mọi người rằng đó là cách hiểu
kinh viện ,sai lầm vi rơi vào cái bệnh trí thức và chủ nghĩa tự do .bây giờ
muốn xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội thì chúng ta phải thẳng thắn
thừa nhận rằng “toàn bộ quan điểm của chúng ta về Chủ Nghĩa Xã Hội đã
thay đổi về cơ bản”.Theo LÊN_NiN,Chủ Nghĩa Xã Hội Nhà nước là sản
phẩm của sự can thiệp tích cực của nhà nước và hoạt động của các xí nghiệp
tư bản .Nếu là nhà nước tư sản thì Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà nước phucv vụ lợi
ích giai cấp tư sản,nếu là nhà nước Xã hội chủ nghĩa thì phục vụ cho lợi ích
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
12
Trong thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ,Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà
nước mang tính chất đặc biệt đó là tính chất chính trị nhà nước thay đổi ,nhà
nước Xã hội chủ nghĩa –Nhà nước của dân do dân ,vì dân .Nhà nước này có
trong tay một thực lực kinh tế dựa trên hình thức sở hữu xã hội mà nhà nước
là đại biểu nắm giữ những vị trí then chốt trọng yếu của nền kinh tế ,giữ vai
trò chủ đạo của các thành phần kinh tế khác .
Sự phát triển của Chủ Nghĩa Tư Bản nhà nước trong thời kì quá độ lên
Chủ Nghĩa Xã Hội không có mục đích tự thân ,mà là phương tiện ,con đường
để tăng sản xuất ,là biện pháp biến các xí nghiệp Tư bản chủ nghĩa thành Xã
hội chủ nghĩa .LÊ-NIN nói “thường chúng ta vẫn còn lập lại cái lý luận cho
rằng Chủ Nghĩa Tư Bản là xấu, Chủ Nghĩa Xã Hội là tốt “Cũng như quan
điểm trước đây cho rằng “mặt trăng Trung Hoa tròn hơn mặt trăng Hoa KÌ
“.Nhưng cái lí luận ấy là sai vì nó không đếm xỉa đến toàn bộ kết cấu kinh tế
xã hội hiện có ,mà chỉ nhìn thấy có hai kết cấu trong số đó thôi .Chủ Nghĩa
Tư Bản la xấu so với Chủ Nghĩa Xã Hội nhưng là tốt so với nền tiểu sản
xuất .Chủ Nghĩa Tư Bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền
kinh tế lúc đó của nươc Nga vì vậy nước Nga phải biết lợi dụng nó làm mắt
xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và Chủ Nghĩa Xã Hội ,làm phương
tiện ,làm con đường ,phương pháp,phương thức để û tăng lực lượng sản xuất
lên .Và điều đó sẽ đưa nước Nga đến Chủ Nghĩa Xã Hội bằng con đường chắc
chắn nhất.
Với điều kiện đặc biệt đó ,với sự kiểm kê, kiểm soát và sự thỗn hợp của
vốn của nhà nước vào các doanh nghiệp công nghiệp,nông nghiệp và dịch vụ
sẽ hướng sự hoạt động của các doanh nghiệp theo tay lái của nhà nước xã hội
chủ nghĩa .Bởi vậy Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước theo cách nói của Lê-nin
“là cái không đáng sợ “là sản phẩm tất yếu “là một “bước tiến trong sự phát
13
triển của lịch sử đối với các nước quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội tư một nền
kinh tế lạc hậu
Có thể nói nội dung của Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước qua các mặt
sau :
-Sự kiểm kê ,kiểm soát đối với các thành phần kinh tế .
_Các hình thức kinh tế quá đôï dựa trên các hình thức sở hữu hỗn hợp về
vốn giữa nhà nước XãHCN với nenà kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài
nước.
-Việc học tập ,sử dụng có chọn lọc những thàng tựu khoa học công nghệ và
chuyển giao khoa học kỹ thuật,công nghệ ,khoa học kinh tế và quản lý kinh tế
ở các nước tư bản tiên tiến.
-Việc coi trọng lợi ích kinh tế ,hiệu quả kinh tế thông qua việc nhà nước vận
dụng cơ chế thị trường với tư cách là động lực kinh tế của sự phát triểnnề
kinh tế quốc dân.
Từ các khía cạnh trên có thể quan niệm sự hình thành và phát triển Chủ Nghĩa
Tư Bản.Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ,về nội dung
gắn liền với 3 mức độ:
-Ở mức cao nhất và toàn diệïn nhất , Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước được
quan niệm như là một hình thức kinh tế-xã hội quá độ
-Ở mức hẹp và thấp hơn ,Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước được quan niệm là
một chính sách,một công cụ mà nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa dùng để điều
tiết và quản lý hoạt động của các thành phần kinh tế ,nhất là kinh tế tư bản tư
nhân trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội .
-Dưới góc nhìn kinhtế,Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước được quan niệm là các
hình thức kinh tế trung gian quá độ.Các hình thức này dựa trên hình thức sở
hữu hỗn hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài
nước.
14
2.Điều kiện thực hiện Chủ Nghĩa Tư Bản nhà nước và việc sử dụng
có hiệu quả hình thức này.
Bảnû thân Chủ Nghĩa Tư Bản không thể tự nó phát triển trong lòng
chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa dù rằng sự phát triển của nó có là khách quan ,tất
yếu đi chăng nữa.Vì vậy muốn duy trì Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước thì
chính quyền vô sản phải tạo ra các điều kiện để thứ Chủ Nghĩa Tư Bản
nàycó thể tồn tại và phát triển.Việc sử dụng sao cho có hiệu quả hình thức
kinh tế Tư bản Nhà Nướccũng là một vấn đề cần được quan tâm .
Theo lý luận của V.I.Lênin về Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước Û thì Chủ
Nghĩa Tư Bản Nhà Nước là sản phẩm của sự can thiệp tích cực của nhà nước
vào hoạt động trong các xí nghiệp tư bản.Vậy muốn Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà
Nước ra đời thì điều trước tiên là phải có quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ
Nghĩa , tức là cần phải có giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.Ở nước Nga lúc
bấy giờ giai cấp tư sản hầu như không còn tồn tại , các xí nghiệp tư bảnkể cả
vừa và nhỏ đều bị quốc hữu hoá,nền đại công nghiệp Tư Bản Chủ Nghĩa bị
tàn phá nặng nề, cá công xưỏng và nhà máy bị ngừng hoạt động .Giai cấp vô
sản vốn là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất trong các xí nghiệp của nền đại
công nghiệp Tư Bản Chủ Nghĩa nên họ, những người công nhân “đã bị mất
tính giai cấp,nghĩa là bị dẩy ra ngoài con đườn tồn tại giai cấp của mình , và
không còn tồn tại với tư cách là giai cấp vô sản nữa..Đôi khi về hình thức nó
đựoc coi là giai cấp vô sản, nhưng nó không có gốc rễ kinh tế.Vì vậy một yêu
cầu đặt ra là muốn khôi phục quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa thì phải
phục hồi giai cấp tư sản trong nướcvà kêu gọi đầu tư của tư sản nước
ngoài.Nhờ đó giai cấp công nhân mới có đièu kiện tiếp tục phát triển, “ được
làm việc trong các công xưởng cơ khí lớn chứ không làm cái việc đầu cơ, chứ
không phải chế tạo cái bật lửa để bán… .Quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa
15
xét về mặt sở hữu thì nó tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau: Sở
hữu tư nhân Tư Bản Chủ Nghĩa , Sở hữu tập thể Tư Bản Chủ Nghĩa , Sở hữu
nhà nước ,Sở hữu hợp tác , Sở hữu không mang tính chất Tư bản Nhà
nước .Tương ứng với các loại hình thức khác nhau là sự đa dạng về các thành
phần kinh tế. Đây cũng là một phần nội dung của chính sách kinh tế mới mà
Lênin đã đề ra.Và nó cũng phù hợp với nền kinh tế thời kỳ quá độ.Quan hệ
sở hữu Tư Bản Chủ Nghĩa với hình thức phổ biến nhất là sở hữu cổ phần
đựoc C.Mác coi là bước quá độ để “biến tất cả những chức năng của quá
trình tái sản xuất hiện còn gắn với quyền sở hữu tư bản giản đơn than chức
năng của người sản xuất đã liên hiệp lại với nhau ,tức là thanh chức năng của
xã hội.,và do đó xí nghiệp của nó cũng biểu hiện ra là những xí nghiệp xã hội.
Điều kiện thứ hai để phát triển Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước có sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế .Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì Chủ
Nghĩa Tư Bản Nhà Nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội phản
ánh mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và nhà nước của họ với nhà nước tư
bản .Kinh tế tư bản nhà nước là một kiểu tổ chức kinh tế do nhà nước của họ
với các nhà tư bản.Kinh tế tư bản nhà nước là một kiểu tổ chức kinh tế do nhà
nước của giai cấp công nhân chủ động tạo ra để khai thác ,thu hút các nguồn
lực định hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo con đường Xã
Hội Chủ Nghĩa .Khi áp dụng Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước vào nền kinh tế
Nga thì Chủ Nghĩa Tư Bản sẽ có điều kiện phát triển trong lòng một nước đi
theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa .và như vậy thì Chủ Nghĩa Tư Bản hay
giai cấp vô sản sẽ chiến thắng? Liệu rằng nhà nước vô sản có khống chế được
các nhà tư sản mà phát triển theo những định hướng ,kế hoạch mà mình đặt ra
hay không hay lại bi lật đổ và bị chế nhạo.Ở đây vai trò của nhà nước là rất to
lớn .Để định hướng sự phát triển của Chủ Nghĩa Tư Bản theo chế độ Xã Hội
Chủ Nghĩa thì nhà nước vô sản không chỉ đơn thuần đóng vai trò người quản
16