Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.68 KB, 24 trang )

BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH PHỦ ĐIỆN TƯ
ĐỀ TÀI: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TƯ
Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Quế Hương
Sinh viên: Phan Thị Hoài Thương
Lớp: KH15 – Nhân sự 2
Mã SV: AH140857
Khóa: 2014-2018

Hà Nội, tháng 10 năm 2016


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
1. Khái niệm
2. Thực trạng
II. Cổng thông tin điện tử và Dịch vụ công trực tuyến
1. Khái niệm
2. Thực trạng
III. An toàn và bảo mật thông tin trong CPĐT
1. Sự cần thiết của an toàn và bảo mật thông tin trong CPĐT
2. Thực trạng
IV. Nguồn nhân lực trong CPĐT
1. Khái niệm


2. Thực trạng
V. Giải pháp hoàn thiện Chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay.
1. Nâng cao nhận thức và thay đổi cách nghĩ về Chính phủ điện tử.
2. Hình thành khung pháp lý chung về việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý hành chính nhà nước.
3. Gắn việc xây dựng chính phủ điện tử với cải cách thủ tục hành
chính.
4. Hạ tầng kỹ thuật và công nghệ cho chính phủ điện tử và tài
chính đầu tư cho chính phủ điện tử.
5. Phát triển và đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
6. Hợp tác quốc tế trong xây dựng chính phủ điện tử.
C. KẾT LUẬN

2


A. LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, công nghệ thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển của mỗi quốc qia. Nó giúp rút ngắn khoảng cách địa lý, rào cản văn
hóa của các nước trên khắp thế giới. Cùng với đó chính phủ điện tử được sử dụng
như một công cụ đắc lực hỗ trợ sự phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa, giáo dục.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của Nhà nước ngày càng
trở nên quan trọng. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định các
chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội công
bằng, văn minh và đưa nền kinh tế phát triển sánh ngang với các cường quốc kinh
tế trên thế giới. Nhưng làm thế nào để các chủ trương chính sách đó đến được với
nhân dân mới là vấn đề mà Chính phủ cần phải suy tính.
Các nước phát triển trên thế giới đã tìm ra lời giải cho bài toán, đó là phát
triển Chính phủ điện tử. Hầu hết các nước này đã nhận thức được rằng Chính phủ
điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước. Trong tương lai, nước nào có nền

Chính phủ điện tử phát triển, nước đó sẽ có lợi thế hơn các nước khác. Không
một nước nào muốn bị tụt hậu so với các nước, do đó, phát triển Chính phủ điện
tử đã trở thành xu hướng chung của các quốc gia trên toàn thế giới.
Và ở nước ta, Chính phủ điện tử dù mới chỉ được triển khai nhưng đã
nhận được sự quan tâm của các cấp chính quyền cũng như người dân. Sau gần 20
năm triển khai, xây dựng, thực trạng Chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay
đang rất được quan tâm. Đó là lý do em chọn đề tài “Thực trạng Chính phủ điện
tử ở Việt Nam”.
Trong qúa trình tìm hiểu chắc hẳn sẽ có những thiếu sót, sai lầm. Kính
mong cô giáo đóng góp để em có thể hoàn thiện bài của mình hơn.
Em xin cảm ơn!

3


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin.
1. Khái niệm
Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và
công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao
đổi thông tin số. ( Theo Khoản 1, Điều 4 Luật Công nghệ thông tin 2006)
Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho
việc sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số, bao
gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính và cơ sở dữ liệu. (Theo
Khoản 4,, Điều 4 Luật Công nghệ thông tin 2006)
Chính phủ điện tử là tên gọi của một chính phủ mà mọi hoạt động của nhà
nước được "điện tử hóa", "mạng hóa". Tuy nhiên, chính phủ điện tử không đơn
thuần là máy tính, mạng Internet; mà là sự đổi mới toàn diện các quan hệ (đặc
biệt là quan hệ giữa chính quyền và công dân), các nguồn lực, các quy trình,
phương thức hoạt động và bản thân nội dung các hoạt động của chính quyền

trung ương và địa phương, và ngay cả các quan niệm về các hoạt động đó.
2. Thực trạng Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ở Việt Nam.
•Thành tựu đạt được.
Theo số liệu thống kê năm 2014, hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước tại
các Bộ, ngành, tỷ lệ cán bộ công chức được trang bị máy tính làm việc khá cao,
đạt khoảng 90%. Hệ thống mạng nội bộ (LAN) được triển khai tại tất cả các Bộ,
ngành, địa phương (đến cấp đơn vị trực thuộc đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ; đến cấp Sở, ban, ngành, quận, huyện đối với các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương).

4


100% các cơ quan thuộc diện khảo sát đã cài đặt phần mềm diệt virus cho
các máy tính tại cơ quan, nhưng tỉ lệ máy tính được trang bị công cụ đảm bảo an
toàn mới chỉ đạt 81.5%. Mặc dù vậy, ở một số đơn vị tỉ lệ này còn rất thấp. Về
vấn đề bảo mật, 96% cơ quan sử dụng hệ thống tường lửa, hệ thống phát hiện,
phòng chống truy cập trái phép; 90% cơ quan sử dụng phần mềm quét, lọc thư
rác trong hệ thống thư điện tử sử dụng tại cơ quan; 86% cơ quan sử dụng hệ
thống an toàn dữ liệu trong mạng cục bộ như tủ/băng đĩa/SAN/NAS.
Cơ sở hạ tầng để triển khai hệ thống thư điện tử đang từng bước được hoàn
thiện, số lượng cán bộ, công chức được cung cấp hộp thư điện tử và sử dụng thư
điện tử thường xuyên trong công việc ngày một tăng. Gần 100% các cơ quan nhà
nước đã trang bị hệ thống quản lý văn bản và điều hành, hệ thống thư điện tử để
trao đổi văn bản, điều hành qua mạng.
Trong những năm qua, việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật CNTT ở các cơ quan
nhà nước tại các địa phương đã được các cấp lãnh đạo hết sức quan tâm. Tỉ lệ
trung bình máy tính/cán bộ của các địa phương (tính đến cấp sở, ban, ngành,
quận, huyện) trên toàn quốc là đạt 64.0%; tỉ lệ máy tính kết nối Internet trung
bình của các địa phương trên toàn quốc đạt 85.9%. Do phụ thuộc vào điều kiện

kinh tế và địa lý khác nhau nên vẫn còn tồn tại sự chênh lệch khá lớn về hạ tầng
máy tính và kết nối mạng giữa các địa phương trên cả nước.
Về trang bị máy tính, hiện có 38.1% các tỉnh, thành phố có tỉ lệ máy
tính/cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC); đạt trên 80% (khoảng mỗi người
có 1 máy tính);39.7% tỉnh thành có tỉ lệ máy tính/CBCCVC trong khoảng từ
50%-80% (khoảng 2 người có 1 máy tính); 22,2% tỉnh thành có tỉ lệ máy
tính/CBCCVC đạt dưới 50%.
Về kết nối mạng, hiện có 71,4% tỉnh, thành phố có mức độ máy tính kết
nối Internet ở mức trên 80%; 25,4% tỉnh, thành có mức độ máy tính kết nối ở
5


mức 50%-80%; 3,2% tỉnh, thành có mức kết nối dưới 60%. Tính đến năm 2010,
đã có 13 địa phương xây dựng được hệ thống mạng kết nối tới 100% các máy
tính là Hà Nội, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Hải Dương, Đồng Nai, Đồng Tháp, Kiên
Giang, Lào Cai, Lâm Đồng, Ninh Bình, Phú Thọ, Quảng Bình và Thái Nguyên.
Về ứng dụng CNTT để tin học hóa hoạt động chỉ đạo, điều hành công việc
trong cơ quan nhà nước tại các tỉnh, thành phố: 90% các tỉnh, thành phố đã đưa
thông tin chỉ đạo, điều hành lên môi trường mạng Internet. Tuy nhiên, chỉ có
25,81% đơn vị được đánh giá là cung cấp đầy đủ các thông tin chỉ đạo điều hành
lên cổng/trang thông tin điện tử. Mức chênh lệch giữa các địa phương về tỉ lệ văn
bản được chuyển hoàn toàn trên môi trường mạng và tỉ lệ thực hiện các cuộc họp
trực tuyến khá cao. Tỉ lệ trung bình văn bản đi/đến được chuyển hoàn toàn trên
môi trường mạng ở các tỉnh, thành phố đạt 30,5%; tỉ lệ trung bình các cuộc họp
trực tuyến trên tổng số các cuộc họp diện rộng được thực hiện ước khoảng
42,1%.
Tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương đã có Cổng hoặc Trang thông tin điện tử để cung cấp
thông tin và dịch vụ công trực tuyến, hầu hết các dịch vụ công được cung cấp
trực tuyến mức độ 2 (người dân có thể tra cứu, tải về qua mạng những mẫu biểu

thủ tục hành chính); ngày càng nhiều dịch vụ công trực tuyến mức 3 được các cơ
quan nhà nước cung cấp (cho phép người dân có thể nộp hồ sơ qua mạng); nhiều
bộ phận một cửa các cấp đã có ứng dụng công nghệ thông tin, tạo điều kiện cho
người dân tra cứu tình trạng hồ sơ, tiếp nhận kết quả thủ tục hành chính. Một số
hệ thống chuyên ngành đã được triển khai và phát huy hiệu quả nổi bật, góp phần
phát triển kinh tế, tiêu biểu như các hệ thống thuế, hải quan điện tử. Đến nay, số
lượng người nộp thuế qua mạng là 389.023 người, hơn 15 triệu hồ sơ thuế điện tử
đã nhận vào hệ thống quản lý thuế, 64 loại tờ khai thuộc 15 sắc thuế đã được khai

6


qua mạng. Hệ thống đã triển khai tại 63 tỉnh, thành phố và tới 252 Chi cục Thuế.
Các ứng dụng hải quan điện tử đã được triển khai đồng bộ, hiện đã triển khai 13
hệ thống ứng dụng ở cả 3 cấp (Tổng cục Hải quan, 34 Cục Hải quan thành phố,
tỉnh và liên tỉnh, 170 Chi cục Hải quan), số lượng tờ khai qua hệ thống hải quan
điện tử là 1.572.590 tờ khai, số lượng kim ngạch xuất nhập khẩu 63,83 tỷ USD,
số lượng doanh nghiệp tham gia là 36.813.


Những hạn chê

Mặc dù đã đạt những kết quả quan trọng trên, nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn
chế như tồn tại sự chênh lệch khá lớn về hạ tầng máy tính, kết nối mạng giữa các
địa phương trên cả nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, địa lý khác nhau; số
lượng các cơ quan triển khai các giải pháp an toàn, an ninh thông tin lớn, nhưng
hiệu quả của các giải pháp này chưa cao. Một số dự án đã được phê duyệt nhưng
vẫn đang ở bước chuẩn bị đầu tư như dự án Trung tâm thông tin dữ liệu điện tử
Chính phủ, dự án Hệ thống chứng thực điện tử và chữ ký số trong các cơ quan
nhà nước, dự án Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà

nước.
Hiện đa số các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đã triển khai ứng dụng phần mềm quản lý văn bản và điều hành khá cao.
Tuy nhiên, các văn bản hành chính chủ yếu chỉ được trao đổi trong nội bộ mỗi cơ
quan, chưa được trao đổi nhiều trên diện rộng giữa các cơ quan nhà nước. Rất ít
lãnh đạo các cơ quan thực hiện công tác quản lý, điều hành qua mạng. Cụ thể,
khoảng 25,81% đơn vị được đánh giá là cung cấp đầy đủ các thông tin chỉ đạo
điều hành lên cổng/trang thông tin điện tử. Mức chênh lệch giữa các địa phương
về tỷ lệ văn bản được chuyển hoàn toàn trên môi trường mạng và tỷ lệ thực hiện
các cuộc họp trực tuyến khá cao. Tuy nhiên, tỷ lệ trung bình văn bản đi/đến được
chuyển hoàn toàn trên môi trường mạng còn rất thấp, mới chỉ đạt khoảng 24%.
7


Những hạn chế này, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, tuy nhiên một số nguyên
nhân chính là: Cơ sở hạ tầng thông tin mới chỉ được đầu tư ban đầu, trong đó chủ
yếu đầu tư trang bị máy tính; nhiều máy tính vẫn hoạt động đơn lẻ chưa kết nối
mạng thông tin thống nhất. Chưa xây dựng được đường truyền tốc độ cao kết nối
giữa Trung tâm tích hợp dữ liệu với các đơn vị.
Nhiều lãnh đạo các cấp chưa thực sự quyết tâm, chỉ đạo sâu sát, ưu tiên
phát triển cơ sở hạ tầng thông tin nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động;
đầu tư kinh phí đã có sự quan tâm, nhưng so với yêu cầu phát triển công nghệ
thông tin thì chưa tương xứng, chưa có sự tập trung trọng điểm trong đầu tư cơ sở
hạ tầng công nghệ thông tin; vốn triển khai cho cơ sở hạ tầng thông tin còn rất
thấp so với nhu cầu thực tế, đặc biệt là vốn cho triển khai cho các dự án quy mô
quốc gia; trình độ các cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin nhiều nơi còn
hạn chế, đặc biệt là cấp huyện, xã, phường tại các địa phương; năng lực tổ chức
triển khai các dự án công nghệ thông tin quy mô quốc gia của các cơ quan nhà
nước còn yếu.
II. Cổng thông tin điện tử và dịch vụ công trực tuyến.

1. Khái niệm.
Cổng thông tin điện tử - Portal là một thuật ngữ tin học xuất hiện từ năm
1998. Nội hàm khái niệm còn có nhiều vấn đề cần phải tiếp tục bàn bạc, trao đổi,
bởi vậy cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa đưa ra được có một định nghĩa hoàn
chỉnh.
Có nhiều khái niệm về cổng thông tin điện tử tích hợp khác nhau, và cho
đến nay chưa có khái niệm nào được coi là chuẩn xác. Một số tên gọi gần tương
đương với thuật ngữ “portal” như Cổng thông tin điện tử hoặc Cổng giao tiếp
điện tử hoặc Cổng giao dịch điện tử. Cả 3 tên gọi này đều có thể hiểu tương

8


đương với “portal”, tuy nhiên với các ứng dụng ở Việt Nam, chúng lần lượt thể
hiện 3 cấp độ phát triển khác nhau, từ thấp đến cao. Tùy theo nhu cầu và định
hướng phát triển của đơn vị, người lãnh đạo có thể quyết định tên gọi nào cho
phù hợp, trong khi bản chất không thay đổi, được tạm gọi là bản chất về “cổng”.
Cổng thông tin là địa chỉ tổng hợp các ứng dụng của một tổ chức như thư
điện tử, chia sẻ tài liệu, lịch công tác thông qua giao diện Web. Các thành viên
của doanh nghiệp có thể thông qua giao diện web (hay còn gọi là cổng thông tin,
webportal) mà truy cập và sử dụng các ứng dụng của doanh nghiệp đơn giản tiện
lợi.
Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác
của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường
mạng.
Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực
thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý
trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. Mỗi dịch vụ hành chính
công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc

cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân.
2. Thực trạng Cổng thông tin điện tử và Dịch vụ công trực tuyên ở Việt Nam
Việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến đến nay đã có tiến bộ
rõ rệt. Trong việc cung cấp thông tin đã cung cấp kịp thời và đầy đủ những thông
tin chủ yếu để phục vụ người dân và doanh nghiệp. Về dịch vụ công trực tuyến
đã cung cấp hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến tới người dân và doanh
nghiệp; điều kiện cho các cơ quan hoạt động hiệu quả, minh bạch.

9


Các CQNN từ cấp quận, huyện, Sở, Ban, ngành hoặc tương đương trở lên
có cổng hoặc trang thông tin điện tử, cung cấp tất cả các dịch vụ công trực tuyến
mức độ 2 tới người dân và doanh nghiệp. Người sử dụng có thể tải về các mẫu
văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu và được thông báo tình
trạng xử lý các thủ tục hành chính của các CQNN qua mạng.
Về cơ bản các Bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành mục tiêu đưa các
thông tin chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp lên cổng thông tin điện tử, đưa
các thông tin lên cổng thông tin điện tử. Bên cạnh đó, các thông tin chuyên ngành
cấp quốc gia cũng đã được triển khai. Việc này tạo cơ sở cho việc mở rộng hạ
tầng thông tin nhằm phục vụ các công việc nội bộ của CQNN, cũng như cung cấp
các dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp, tiêu biểu là các hệ thống thông tin về
tài chính, thuế, hải quan, mua sắm.
Đối với dịch vụ công trực tuyến, hầu hết các dịch vụ hành chính đã được
chuẩn hóa theo quy định và được đăng tải lên Website ở mức độ 1 và 2. Đối với
các Bộ, CQNN, và các địa phương thì số lượng dịch vụ công trực tuyến ở mức
độ 3 chưa cao nhưng đã có sự tăng vượt bậc so với nhưng năm trước. Cùng với
đó số nhóm dịch vụ công trực tuyến, mức dộ triển khai tới cấp quận, huyện cũng
được mở rộng. Đặc biệt dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 đã được cung cấp của
một số cơ quan như tại TP HCM, Bộ Công Thương. Hay mới đây nhất là dịch vụ

công mức độ 4 của Bộ Y Tế.
Triển khai các dịch vụ công trực tuyến có nghĩa là công dân, doanh nghiệp
có thể giao tiếp với chính quyền 24/24 giờ trong ngày, tại bất cứ đâu có kết nối
internet. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực
hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí và nhận kết quả được thực
hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Như vậy, công dân, tổ chức

10


chỉ phải đến duy nhất 1 lần để thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được
thực hiện trực tiếp tại Bộ phận “một cửa” của cơ quan, đơn vị.
Việc áp dụng dịch vụ công điện tử giúp cơ quan Nhà nước giảm tải được
áp lực công việc, giải quyết công việc nhanh hơn, thuận tiện, khoa học hơn. Qua
đó, người dân được hưởng thụ dịch vụ thuận lợi, tiết kiệm chi phí cũng như thời
gian đăng ký, làm các thủ tục hành chính. Đặc biệt là tránh được tệ nạn nhũng
nhiều, quan liêu, phiền hà… từ những cán bộ công quyền.
Việc chính phủ điện tử cung cấp thông tin cũng như các dịch vụ tạo điều
kiện cho người dân, chính phủ và doanh nghiệp kết nối với nhau, trao đổi thông
tin và cộng tác với nhau dễ dàng và hiệu quả.
Tuy nhiên tại các cổng thông tin địa phương như ở cấp xã, huyện nhất là
khu vực nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế. Như việc cung cấp thông tin còn
chậm, cổng thông tin điện tử còn xa lạ với những ngừoi dân, hay trình độ của cán
bộ còn đang yếu…
Hay việc ứng dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 còn gặp một số khó
khăn nhất định. Hiện chưa có thống kê mới nhất để cập nhật số lượng người dân
sử dụng dịch vụ công trực tuyến ở các cơ quan, đơn vị. Hiện có thực tế đáng ngại
là tại nhiều nơi, dù các cơ quan nhà nước, địa phương đã cung cấp dịch vụ công
trực tuyến online nhưng người dân vẫn với thói quen sử dụng văn bản thủ công.
Trong khi đó, để đầu tư xây dựng một dịch vụ công trực tuyến, nhất là

những dịch vụ mức độ 3 việc đầu tư cho các dịch vụ này rất tốn kém chi phí, thời
gian và công sức.
III. An toàn và bảo mật thông tin trong Chính phủ điện tử.
1. Sự cần thiêt của an toàn và bảo mật thông tin trong Chính phủ điện tử.

11


An toàn thông tin có ý nghĩa sống còn đối với CPĐT; công tác bảo đảm an
toàn, an ninh thông tin là một trong những công việc cấp thiết để thúc đẩy ứng
dụng công nghệ thông tin và xây dựng Chính phủ điện tử.
Đảm bảo an toàn, an ninh thông tin (đặc biệt là thông tin cá nhân và quyền
riêng tư khi tham gia giao dịch trên môi trường điện tử nói chung, môi trường
Internet nói riêng) là một trong những yếu tố tiên quyết cho thành công của
Chính phủ điện tử.
Thông tin cá nhân (bao gồm những thông tin cho phép xác định chính xác
danh tính một người dân cụ thể cũng như tình trạng pháp luật của họ) chính là
những thành tố cơ bản nhất của hệ thống thông tin Chính phủ điện tử. Việc bảo
vệ thông tin trong chính phủ là việc làm mới. Tất cả các cơ quan chính phủ từ khi
ra đời đều có xây dựng quy trình nghiệp vụ bảo vệ thông tin nhạy cảm thuộc
phạm vi quản lý của mình khỏi những truy cập bất hợp pháp, bao gồm cả phá
hủy, tiết lộ, sửa đổi, sử dụng không đúng cách thông tin.
Trong những năm gần đây, chính phủ các nước đã triển khai phát triển
Chính phủ điện tử một cách rộng khắp, đa dạng từ các cổng thông tin điện tử, các
trang thông tin điện tử công cộng, các dịch vụ, thủ tục công được truy xuất từ xa,
và các ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ trong công tác, quản lý điều hành.
Các trang thông tin điện tử cung cấp phương thức trao đổi giữa chính phủ và
người dân không chỉ qua thư điện tử mà còn cả các dịch vụ công trực tuyến, tiếp
nhận phản hồi từ phía người dân và kích thích việc tham gia góp ý cho các chính
sách hoặc dự thảo văn bản pháp luật. Trong lĩnh vực tư, các doanh nghiệp cũng

đầu tư tương đối mạnh vào các hệ thống thương mại điện tử, cho phép việc sản
xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán
ngày càng thuận tiễn hơn thông qua mạng Internet. Bản thân những hệ thống
thông tin đứng đằng sau giao dịch trực tuyến được nhìn nhận như là hạ tầng xã
hội kỹ thuật, phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố con người.
12


An toàn thông tin cá nhân, môi trường pháp lý đảm bảo bảo vệ quyền riêng
tư là các nền tảng cơ bản trong phát triển Chính phủ điện tử không chỉ từ góc độ
của cơ quan nhà nước với mong muốn quản lý và phục vụ người dân tốt hơn mà
còn cả từ phía cộng đồng người dân và doanh nghiệp trước những lo ngại về
thiếu tính minh bạch trong việc sử dụng và trao đổi thông tin cá nhân trên các
trang thông tin điện tử, theo dõi và quản lý hoạt động của người sử dụng trên
trang thông tin điện tử cũng như lo ngại về thất thoát dữ liệu, tính an toàn thông
tin trên môi trường Internet.
Vì vậy, các nước trên thế giới đều có ý thức coi trọng việc đảm bảo an
toàn, an ninh thông tin (đặc biệt là thông tin cá nhân) trong các ứng dụng Chính
phủ điện tử. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng xu hướng chung của người dân hiện
nay vẫn là chọn lựa khai thác thông tin và dịch vụ công trên trang thông tin điện
tử dựa trên mức độ truy cập thuận tiện, dễ sử dụng hơn là trên mức độ đảm bảo
an toàn thông tin trên trang này.
2. Thực trạng về tình hình an toàn và bảo mật thông tin trong Chính phủ điện
tử ở Việt Nam.
• Thành tựu đạt được
Ban hành các văn bản pháp lý triển khai về công tác đảm bảo an toàn, bảo
mật thông tin trong các cơ quan, đơn vị nhà nước, các tổ chức doanh nghiệp và
người dân như:
+ Luật An toàn thông tin mạng, bộ luật quan trọng sẽ làm nền tảng cho
việc triển khai các hoạt động an toàn thông tin tại Việt Nam, đã được Chủ tịch

nước chính thức công bố. Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016. Luật An
toàn thông tin mạng được ban hành sẽ hướng đến giải quyết các yêu cầu về an
toàn thông tin mạng quốc gia, qua đó góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về
ATTT theo hướng áp dụng các quy định pháp luật đồng bộ, khả thi trong thực
13


tiễn thi hành và phát huy các nguồn lực của đất nước để bảo đảm ATTTM, phát
triển lĩnh vực ATTTM đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm
quốc phòng, an ninh.
+ Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 17/6/2014 của Thủ tướng chính phủ về
tăng cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình
mới.
Các bộ, ngành, địa phương ngày càng ý thức cao hơn về tầm quan trọng
của việc đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin đối với hoạt động của cơ quan,
đơn vị mình. Do đó, đã có nhiều biện pháp thiết thực để thực hiện nội dung này
như:
+ Phát triển và ứng dụng CNTT trong các cơ quan Nhà nước, đồng
thời thực hiện nghiêm Quy chế đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong hoạt
động ứng dụng công nghệ thông tin của cơ quan nhà nước.
+ Đầu tư thiết bị tăng cường đảm bảo an toàn, an ninh thông tin; nâng
cấp, bổ sung thiết bị phần cứng, phần mềm bảo mật.
+ Triển khai các giải pháp bảo đảm chống virus, mã độc hại cho máy
tính cá nhân; triển khai giải pháp lưu nhật ký đối với các hệ thống thông tin quan
trọng, Cổng Thông tin, Trang thông tin điện tử.
+ Định kỳ hàng năm thực hiện việc kiểm tra, đánh giá về an toàn
thông tin; xây dựng và diễn tập về đảm bảo an toàn thông tin với các phương án,
kịch bản phù hợp thực tế cùng sự tham gia của các cơ quan nhà nước và các
doanh nghiệp có liên quan.
+ Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn về an toàn, an ninh thông

tin; đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo công nghệ thông tin (Giám đốc công nghệ
thông tin - CIO).
14


+ Tổ chức các lớp đào tạo tiêu chuẩn nghiệp vụ cho cán bộ phụ trách
công nghệ thông tin của các cơ quan, đơn vị, như: Quản trị mạng; chuyên sâu về
bảo đảm an toàn; an ninh thông tin; xử lý và ứng cứu sự cố mạng, máy tính, ...
• Những hạn chế
Bên cạnh các mặt đã đạt được trong việc đảm bảo an toàn và bảo mật
thông tin trong Chính phủ điện tử như đã nêu ở trên, trong thời gian qua việc thực
hiện nội dung này ở nhiều cơ quan, tổ chức vẫn gặp rất nhiều khó khăn, thách
thức làm cản trở tới quá trình hoàn thiện Chính phủ điện tử nói chung.
- Theo các chuyên gia, tình hình an toàn, an ninh thông tin mạng tại Việt
Nam vẫn diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Kết quả theo dõi, khảo sát tình
hình an toàn thông tin mạng của Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam
(VNCERT), Bkav, Kaspersky Lab, Trend Micro cho thấy, mã độc mã hóa tống
tiền và phần mềm quảng cáo bất hợp pháp sẽ là những xu hướng chính của mã
độc trong năm 2016.
- Trong thời gian gần đây, tình trạng một số tổ chức, cá nhân mạo danh
Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương hoặc các Hiệp hội, Hội bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng để gọi điện, gửi email... lừa đảo, gây khó khăn cho một số tổ
chức, cá nhân kinh doanh vẫn diễn ra phức tạp. Để tránh bị những tổ chức, cá
nhân có ý đồ xấu lợi dụng, Cục Quản lý cạnh tranh đề nghị các cơ quan, tổ chức,
cá nhân đặc biệt là các phương tiện thông tin đại chúng thận trọng trước những
thông tin mạo danh nêu trên.
- Các chuyên gia bảo mật cũng cho biết nhiều công văn trong các cơ quan
nhà nước Việt Nam đã bị đánh cắp thông qua một loại mã độc mang tên Usector
lợi dụng lỗ hổng của Microsoft Office, việc sử dụng ứng dụng văn phòng cũng
như hệ điều hành của Microsoft hiện nay chưa đảm bảo an toàn do một loạt các


15


lỗ hổng bảo mật được công bố, đã từng bị tin tặc lợi dụng để tấn công, khai thác
nhằm vào nhiều tổ chức, cá nhân.
- Cũng theo các chuyên gia trong lĩnh vực an toàn thông tin (ATTT), các
mã độc gián điệp xâm nhập vào cơ quan nhà nước thường có chủ đích tấn công
nên dễ dàng qua mặt các phần mềm diệt virus (80% đơn vị sử dụng), trong khi
các biện pháp bảo mật tổng thể lại rất ít được quan tâm.
IV. Nguồn nhân lực trong Chính phủ điện tử.
1. Khái niệm
Nhân lực: bao gồm tất cả những kiến thức, kĩ năng và tiềm năng của con
người trong tổ chức hay xã hội liên quan đến sự phá triển của cá nhân, tổ chức
hay xã hội.
Nguồn nhân lực: đây là nguồn lực của mỗi con người, bao gồm cả trí lực
và thể lực.
Nguồn nhân lực trong chính phủ điện tử chính là đội ngũ cán bộ công
chức, đội ngũ chuyên gia công nghệ thông tin và người tiêu dùng. Trong đó Đội
ngũ cán bộ, công chức( là nguồn nhân lực đại diện cho cơ quan nhà nước, là đội
ngũ thực hiện các công việc giao dịch giữa Chính phủ với người dân. Cán bộ,
công chức sẽ là nguồn nhân lực quan trong trong quá trình thực hiện Chính phủ
điện tử). Chuyên gia CNTT( là những người làm việc trong lĩnh vực CNTT có
năng lực chuyên môn và trình độ kỹ thuật cao). Người tiêu dùng bao gồm người
dân và doanh nghiệp(Số lượng người tiêu dùng quyết định thành bại của sản
phẩm hay dịch vụ mà chính phủ đưa ra)
2. Thực trạng nguồn nhân lực trong Chính phủ điện tử ở Việt Nam.
• Thành tựu đạt được

16



Mặc dù nước ta vẫn còn trong giai đoạn đầu của CPĐT, các tương tác hai
chiều và giao dịch hoàn chỉnh mới bước đầu được thực hiện nhưng xét ở góc độ
nguồn nhân lực cho Chính phủ điện tử chúng ta cũng đã đạt được những kết quả
đáng mừng.
Nguồn nhân lực mạnh mẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công
của chiến lược xây dựng chính phủ điện tử. Cả nước hiện nay có hơn 14 nghìn
tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, khoảng 1.200 giáo sư và 5.300 phó giáo sư, hơn 16
nghìn người có trình độ thạc sĩ và 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học công
nghệ. Số lao động làm việc trong ngành CNTT hiện nay là hơn 200 ngàn
người.Theo thống kê, tổng số các trường có ngành liên quan CNTT cả nước là
235 trường/ tổng số 390 trường trong cả nước, tuy nhiên chất lượng còn chưa
cao.
• Những hạn chế
Theo dự báo,nhu cầu nhân lực công nghiệp CNTT đến năm 2020 sẽ tiếp
tục tăng qua từng năm và nếu không có biện pháp điều chỉnh mạnh thì sư thiếu
hụt nguồn nhân lực sẽ tăng và cung không đáp ứng đủ cầu. Dự kiến tới năm 2020
nhu cầu nhân lực cho CNTT là hơn 600 ngàn người nhưng khả năng đáp ứng chỉ
đạt hơn 400 ngàn người. Đời sống và trình độ nhận thức của người dân chưa cao
cho nên việc nhận thức của người dân về chính phủ điện tử là rất thấp, hầu hết
mọi người chưa biết tới chính phủ điện tử là gì và lợi ích của chính phủ điện tử
đem lại ra sao. Có sự chênh lệch lớn trong quá trình nhận thức giữa người dân
thành thị và nông thôn, khu vực miền núi và đồng bằng. Do vậy khả năng tiếp
cận tới các dịch vụ công của chính phủ là thấp. Hiện nay, mới chỉ có 17,2% số
lao động biết sử dụng vi tính (Số liệu của Tổng cục Thống kê). Không chỉ thiếu
số lượng mà còn hạn chế về mặt chất lượng. Kiến thức của hầu hết sinh viên
CNTT ra trường đều thiếu, từ kỹ năng làm việc nhóm, tiếp cận quy trình chất
17



lượng và nhất là trình độ ngoại ngữ. Công nghệ thông tin và viễn thông mới chỉ
được sử dụng trong các ứng dụng nhỏ, độc lập. Các dịch vụ hành chính công mới
chỉ xuất hiện ở mức độ thấp. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc đẩy mạnh xây
dựng Chính phủ điện tử hiện nay và trong thời gian tới.
V. Giải pháp hoàn thiện Chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay.
1. Nâng cao nhận thức và thay đổi cách nghĩ về Chính phủ điện tử.
Trước tiên là nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo từ trung ương đến
địa phương. Đây là công việc có tầm quan trọng vì đây là cấp có vai trò quyết
định. Một khi các cấp lãnh đạo trung ương nhận thức đầy đủ về vai trò và
tác dụng của chính phủ điện tử và có ý kiến chỉ đạo cụ thể về vấn đề này thì việc
xây dựng chương trình kế hoạch phát triển chính phủ điện tử sẽ thuận lợi hơn.
Nâng cao nhận thức của cán bộ công chức. Đây là bộ phận trực tiếp thực
hiện các chương trình ứng dụng phục vụ cho hoạt động quản lý hành chính do
vậy nhận thức của các bộ, công chức tốt sẽ tạo điều kiện để cán bộ, công chức
nâng cao trình độ chuyên môn nói chung cũng như trình độ tin học nói riêng,
tránh lãng phí tài sản quốc gia khi thực hiện các dự án ứng dụng công nghệ thông
tin trong các hoạt động quản lý hành chính.
Nâng cao nhận thức của người dân, các doanh nhiệp và các tổ chức, bằng
việc tuyên truyền, phổ biến giúp họ hiểu về thế nào là chính phủ điện tử và những
tiện ích mà chính phủ điện tử mang lại, khi đó mức độ nhận thực của người dân,
các doanh nghiệp, tổ chức sẽ được nâng cao họ sẽ tự giác hơn trong việc học tập
cũng như nâng cao trình độ tin học của bản thân khi đó việc xây dựng chính phủ
điện tử sẽ thuận lợi hơn.

18


2. Hình thành khung pháp lý chung về việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý hành chính nhà nước.

Đây là việc cần thiết vì xây dựng Chính phủ điện tử là một chương trình
quốc gia, sử dụng nguồn lực quốc gia và để thành công thì bắt buộc phải có sự
tham gia của các cơ quan của chính phủ do vậy phải có môt khung pháp lý chung
nhằm định hướng cho các cơ quan của chính phủ xây dựng và thực hiện đồng
bộ. Cơ sở pháp lý để xây dựng và triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông không đầy đủ dẫn đến tình trạng lúng túng, không rõ phương hướng
phát triển, nhiều hệ thống thông tin sau khi được tin học hoá xong lại không được
sử dụng vì không đồng bộ với các quy chế, quy trình làm việc hiện hành.
Thực tế hiện nay ta có thể thấy việc triển khai Chính phủ điện tử chưa xác
định rõ ràng cơ quan cụ thể nào chịu trách nhiệm trong việc chỉ đạo theo một
chương trình thống nhất. Hiện nay, Văn phòng chính phủ, bộ bưu chính viễn
thông và một số cơ quan khác cùng tham gia triển khai. Việc có nhiều cơ quan
tham gia triển khai và quản lý sẽ làm mọi việc trở nên phức tạp đôi khi không
thồng nhất khó thực hiện.
Do vậy việc tạo lập khung pháp lý xác định rõ một hoặc hai cơ quan cùng
tham gia thực hiện, điều hành và chịu trách nhiệm về sự thành công và thất bại
của Chính phủ điện tử là việc có ý nghĩa quan trọng, một khi đã xác định rõ chức
năng nhiệm vụ của cơ quan tiến hành, mọi công việc sẽ được tập trung về đầu
mối khi đó sẽ dễ phát hiện được những vướng mắc khi thực hiện và kịp thời điều
chỉnh, đồng thời có thể biết chính sác được tiến độ dự án.
Xây dựng một đề án tổng thể thật cụ thể về Chính phủ điện tử để trình các
cơ quan có thẩm quyền xem xét, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xây dựng chính
phủ điện tử. Bản đề án phải thật chi tiết về các bước đi cũng như tiến trình thực
hiện đề án, thời gian cũng như nguồn nhân vật lực tham gia vận hành dự án. Các
19


bước xây dựng mô hình Chính phủ điện tử phải theo một quy trình. Đầu tiên phải
định nghĩa rõ tầm nhìn về chiến lược, sau đó phải đưa ra thiết kế. Kế tiếp là phải
xây dựng hình mẫu triển khai và sau đó phải tiếp tục củng cố, cập nhật. Bởi tất cả

các công nghệ đều thay đổi theo thời gian nên sau khi chúng ta kiểm tra phải tiếp
tục duy trì nó nhưng bên cạnh đó cũng phải củng cố và có những thay đổi cần
thiết trong quá trình áp dụng.
3. Gắn việc xây dựng chính phủ điện tử với cải cách thủ tục hành chính.
Hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động của chính phủ và chính quyền các
cấp, giúp người dân và doanh nghiệp làm việc với các cơ quan chính phủ được
nhanh chóng, thuận tiện, tiếc kiệm và hiệu quả hơn.
Chính phủ điện tử phải tính đến yêu cầu của người dân và các doanh
nghiệp cũng như các tổ chức xem họ cần gì, họ trông đợi gì ở Chính phủ điện tử,
một khi đã xác định được các yêu cầu cụ thể, một nền hành chính phục vụ xem
người dân như là khách hành và các cơ quan hành chính là những người cung cấp
dịch vụ, yêu cầu đối với người cung cấp dịch vụ là phải nhanh, thủ tục đơn giải
và dễ thực hiện.
Xây dựng Chính phủ điện tử gắn với việc cải cách thủ tục hành chính là
một công việc khó khăn phức tạp, hiện tại còn khoảng 6500 thủ tục hành chính có
hiệu lực. Một khi trung tâm cơ sở dữ liệu quốc gia được xây dựng thì trung tâm
này xẽ rà soát và kiến nghị loại bỏ bớt những thủ tục không phù hợp. Trung tâm
này sẽ tiến hành xây dựng các chương trình phần mềm ứng dụng để người dân,
các doanh nghiệp và các tổ chức có thể dễ dàng khi tiếp cân và thực hiện các thủ
tục, đảm bảo được các yếu tố nhanh, hiệu quả. Khi đó mục tiêu xây dựng Chính
phủ điện tử gắn với các cách thủ tục hành chính sẽ được thực hiện một cách hiệu
quả.

20


4. Hạ tầng kỹ thuật và công nghệ cho chính phủ điện tử và tài chính đầu tư
cho chính phủ điện tử.
Đây là hai vấn đề quan trọng đối với việc xây dựng Chính phủ điện tử.
Muốn xây dựng được hạ tầng kỹ thuật và công nghệ thì phải có tài chính đầu tư

vấn đề này có thể giải quyết bằng nguồn vốn ODA hoặc lấy từ ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên, để đảm bảo nguồn vốn mày được sử dụng hiệu quả thì phải có
kế hoạch về việc phân bổ kinh phí và giải ngân, tránh thất thoát, lãng phí trong
quá trình triển khai dự án.
Còn đối với hạ tầng kỹ thuật và công nghệ thì chúng ta có thể xây
dựng, nhập khẩu hoặc kêu gọi đầu tư . Xây dựng mạng truyền số liệu chuyên
dung và hạ tầng viễn thông – Internet phục vụ cho Chính phủ điện tử, trước đây
khi thực hiện đề án 112 hạ tầng kỹ thuật tin học của các bộ và các tỉnh đã được
đầu tư khá đáng kể như mạng LAN hay máy tính, chúng ta có thể tận dụng những
thiết bị còn có thể sử dụng được đồng thời xây dựng kết cấu hạ tầng mới phù hợp
với trình độ công nghệ trên thế giới. chính phủ phải hỗ trợ người dân đến mức tối
đa như: triển khai hạ tầng, nối mạng đến tận người dân, thiết bị giá rẻ, dự án phổ
cập tin học. Như vậy mới có thể tạo ra được nền tảng để phát triển Chính phủ
điện tử và hướng tới một xã hội thông tin.
Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia. Bản chất của quá trình quản lý
là quá trình thông tin, do vậy nhiệm vụ của trung tâm này là xây dựng quản lý và
cung cấp thông tin hành chính công trực tuyến, rà soát lại hệ thống văn bản quy
phạm và hệ thống các thủ tục hành chính có hiêụ lực xem xét và kiến nghị với
các cơ quan có thẩm quyền loại bỏ những thủ tục không hợp lý khó áp dụng
trong quảng lý.

21


5. Phát triển và đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
Trước hết là năng lực của cán bộ xây dựng và quản lý chính phủ điện tử.
Đây là yếu tố quan trọng, sống còn. Chính phủ cần phải tập hợp đủ những con
người có đủ khả năng xây dựng hệ thống và duy trì hệ thống đó hoạt động ổn
định.
Ở Việt Nam, đề án 112 thất bại một phần cũng do yếu tố trình độ của cán

bộ xây dựng và quản lý dự án, các trang thiết bị được bỏ tiền mua về trang bị
nhưng cán bộ công chức rất ít người biết sử dụng, các trương trình phần mềm cài
trên máy nghèo nàn và khó áp dụng trong hoạt động quả lý hành chính. Do vậy
yêu cầu khi bắt tay vào xây dựng Chính phủ điện tử là phải đào tạo nguồn nhân
lực có đủ trình độ để xây dựng và vận hành.
Vấn đề tiếp theo trong giáo dục đào tạo là khả năng sử dụng của người
dân.
Thực tế hiện nay cho thấy khả năng sử dụng máy tính và các chương trình
ứng dụng của người dân còn rất hạn chế, do vậy yêu cầu đặt ra khi xây dựng
Chính phủ điện tử là phải phổ cập tin học rộng rãi trong các tầng lớp nhân
dân, tiến hành các khóa học, các chương trình đào tạo tại các trung tâm máy tính
giúp người dân có cơ hội thực nghiệm dùng Internet. Khi người dân đã cảm thấy
thoải mái, thuận tiện để tiếp cận và sử dụng Internet, chúng ta có thể phát triển hệ
thống, và để họ sử dụng hệ thống ấy, để cho mọi người dân có thể sử dụng thành
thạo máy tính và các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí
hành chính nhà nước, theo nguyên tắc trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ sản xuất. Khi đó Chính phủ điện tử được xây dựng xong thì
người dân có thể tận dụng được các tiện ích mà chính phủ điện tử đem lại.

22


6. Hợp tác quốc tê trong xây dựng chính phủ điện tử.
Việt Nam là nước đi sau, khoa học kỹ thuật và công nghệ về lĩnh vực công
nghệ thông tin và truyền thông chưa phát triển. Điều đó không có nghĩa là Việt
Nam không thể xây dựng thành công Chính phủ điện tử của mình.
Để làm được này đòi hỏi chính phủ phải tăng cường hoạt động ngoại giao,
kêu gọi và hợp tác đầu tư với tổ chức, chính phủ các nước trong lĩnh vực công
nghệ thông tin phục vụ cho việc xây dựng Chính phủ điện tử. Mới đây Việt Nam
đã ký kết hiệp định khung Asian cam kết về việc xây dựng Chính phủ điện tử.

Điều đó khẳng định Việt Nam đã sẵn sàng trong lĩnh vực này, việt nam sẵn sàng
hợp tác và chuyển giao công nghệ kỹ thuật, kinh nghiệp xây dựng Chính phủ
điện tử với các nước trên thế giới.
C. KẾT LUẬN
Trên đây là thực trạng cùng một số giải pháp nhằm xây dựng thành công
chính phủ điện tử ở Việt Nam. Để trả lời cho câu hỏi làm thế nào để xây dựng
thành công chính phủ điện tử ở Việt Nam? Đó vẫn là một câu hỏi lớn mà chính
phủ và các bộ ngành cùng các nhà khoa học hành đầu Việt Nam đang đi tìm lời
giải và việc xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn khởi
động ban đầu.
Với khái niệm Chính phủ địên tử, đây là khái niệm mới được tiếp cận nhận
thức và mức độ hiểu biết còn mơ hồ khả năng đưa ra một giải pháp xây dựng
Chính phủ điện tử hoàn chỉnh là điều chưa thể. Các giải pháp đưa ra chỉ mang
tính tham khảo, chưa thể coi là một giải pháp hữu hiệu để áp dụng cho việc xây
dựng Chính phủ điện tử ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là các nhóm giải pháp
cơ bản thường được đề cập trong các cuộc hội thảo do Bộ thông tin truyền thông
và các cơ quan có thẩm quyền tổ chức và đó cũng là các nhóm giải pháp hữu hiệu

23


nhất. Nhưng để đưa được các nhóm giải pháp này vào việc xây dựng và phát triển
chính phủ điện tử thì cần phải có nhữn bản kế hoạch chi tiết hơn.
Với quyết tâm của chính phủ cũng như các bộ ngành cũng như chính
quyền địa phương chúng ta có thể hy vọng vào một tương lai không xa chính phủ
điện tử ở việt nam sẽ được xây dựng thành công, người dân và doanh nghiệp sẽ
được hưởng những tiện ích mà chính phủ điện tử đem lại.

24




×