Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN PHÁT HUY NHÂN tố CON NGƯỜI là vấn đề CHIÊN lược TRONG sự NGHIỆP xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.09 KB, 27 trang )

Phát huy nhân tố con người là vấn đề chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng
yếu tố con người, coi con người và phát huy nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, đất nước đang bước vào
thời kỳ phát triển mới, thời kỳ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh, việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo... càng trở
nên quan trọng và bức thiết. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn
mạnh: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nhập kinh tế quốc tế”1.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa làm cho
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, một trong những điều
kiện hết sức cơ bản, vô cùng quan trọng bảo đảm cho các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại, vượt qua được thử thách nghiêm trọng, chiến thắng được sự chống phá của
kẻ thù bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” hiện nay là việc phát huy cao độ nhân
tố con người.
Đối với nước ta trong thời gian vừa qua, dưới ánh sáng của đường lối đổi
mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách thiết thực nhằm khơi
dậy và phát huy mọi tiềm năng to lớn của đất nước, trong đó có phát huy nguồn lực
con người phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, bên
cạnh những mặt tích cực, việc phát huy nhân tố con người phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Nhiều
tiềm năng trong xã hội và trong nhân dân do những nguyên nhân khác nhau chưa
được khai thác, chưa được sử dụng có hiệu quả cao. Một trong những tiềm năng
quan trọng đó là tính tích cực, sáng tạo của nhân dân lao động. Do vậy, Đảng ta đã
xác định, chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, với tư cách vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Vấn đề


1

. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.106.

1


là ở chỗ, cần nhận thức một cách đúng đắn và sâu sắc đặc điểm, vị trí, vai trò to lớn
của nhân tố con người trong giai đoạn cách mạng mới. Trên cơ sở đó, tìm ra một hệ
thống các chủ trương, phương hướng và các giải pháp cơ bản đồng bộ để phát huy
cao độ nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

I. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI LÀ VẤN ĐỀ CHIẾN LƯỢC
TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về con người và nhân tố con người.
Phát huy nhân tố con người cần có quan điểm đúng về con người, nhân tố
con người và vị trí của nó trong hệ thống các động lực của tiến bộ xã hội.
Từ trước đến nay, vấn đề con người luôn luôn được nghiên cứu và được xem
xét như một đề tài không bao giờ cũ. Những bí mật của thế giới tự nhiên, xã hội và
con người ngày càng được khám phá sâu sắc và làm rõ hơn về bản chất. Con người
từng bước nhận ra rằng, sự hiểu biết của mình về tự nhiên, xã hội và chính bản thân
mình là phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó có hai nhân tố cơ bản là sự phát triển
của lực lượng sản xuất và trình độ khoa học. Hai nhân tố đó, có quan hệ biện chứng
với nhau, đều là sản phẩm hoạt động của con người, nhưng chúng lại chính là điều
kiện và phương tiện để con người tiếp tục chinh phục tự nhiên, khám phá xã hội và
bản thân mình.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, từ cổ đại, trung đại, những lý thuyết về con
người xuất hiện ở phương Đông và phương Tây đã làm sáng tỏ được nhiều yếu tố
cơ bản về bản chất của con người, nhưng đó là chưa đủ để kết thúc về phương diện

tiếp cận chân lý khoa học. Ngay từ thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, khi mà giai
cấp tư sản còn đóng vai trò cách mạng, tiến bộ, nhiều thành tựu khoa học to lớn về
con người đã ra đời đánh dấu lịch sử tự nhận thức của con người chuyển sang một
giai đoạn mới. Thế nhưng, khi mà chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa thì có nhiều lý thuyết xuất hiện mâu thuẫn với lý tưởng tốt đẹp của loài
người và trái với chủ nghĩa nhân văn tư sản thời kỳ đầu. Các lý thuyết đó, được kết
hợp với nhiều yếu tố lạc hậu của tôn giáo và được giai cấp tư sản phản động lợi
dụng nhằm mục đích làm sai lệch nhận thức của con người về bản thân mình, để dễ
2


bề cai trị, áp bức bóc lột, đẩy đông đảo những người lao động vào tình cảnh nghèo
khổ, bần cùng hoá, đối lập với sự giàu có của thiểu số - giai cấp tư sản.
Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác xuất hiện trên cơ sở sự
chín muồi của những điều kiện kinh tế - xã hội và những tiền đề về văn hoá, tư
tưởng do loài người sáng tạo ra, đã dẫn đến sự biến đổi cách mạng trong nhận thức
của loài người về chính bản thân mình. Trong nhiều tác phẩm của mình, Mác Ăngghen đã luận giải sâu sắc về con người dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau
như: nhân loại học, triết học, kinh tế học…
Theo Mác - Ăngghen, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố
sinh vật và yếu tố xã hội; con người là một thực thể xã hội mang bản chất xã hội,
đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học. Vì vậy, muốn từng bước
hoàn thiện con người, cần phải đồng thời khám phá sự tác động của các quy luật xã
hội và các quy luật tự nhiên trong nó. Sự vận động sinh học và sự vận động xã hội
trong con người là một quá trình thống nhất biện chứng, trong đó quá trình sinh học
diễn ra trước khi có sự tiến hoá về mặt xã hội. Mác viết: “Cũng như sự tồn tại của
con người là kết quả của một quá trình trước đó mà cuộc sống hữu cơ đã đi qua.
Chỉ đến một giai đoạn nào đó của quá trình này, con người mới trở thành người”1.
Khác với con vật, con người có ý thức và hành vi lao động sản xuất. Cho
nên, quá trình tiến hoá sinh học diễn ra bên trong quá trình tiến hoá xã hội và chịu
sự qui ước của quá trình tiến hoá xã hội, trái lại, sự tiến hoá sinh học đặt cơ sở cho

sự tiến hoá về mặt xã hội, đến một giai đoạn nào đó trong quá trình người chuyển
hoá trở thành người thì yếu tố sinh học chuyển sang sự phụ thuộc vào yếu tố xã hội
và do yếu tố xã hội quyết định. Điều này đã được Mác - Ăngghen chỉ rõ, mặt tự
nhiên và mặt xã hội trong con người không tách rời, đối lập nhau, ngược lại, thống
nhất biện chứng và tác động qua lại lẫn nhau. Chịu sự tác động của các mặt xã hội,
mặt tự nhiên trong con người được nâng lên trên trình độ các động vật khác. Chính
vì thế, khác với quan niệm nhận thức sai lệch, thô thiển về con người, coi con
người là một loài động vật giống như mọi loài động vật khác dẫn đến bênh vực cho
những hành vi vô nhân tính của những kẻ đã đánh mất tính người, Mác quan niệm:
con người là một thực thể tự nhiên loại đặc biệt, một thực thể tự nhiên đã nhân loại hoá.
. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 690.

1

3


Dựa trên cơ sở khoa học luận giải về con người, Mác đã đưa ra kết luận
mang tính vạch thời đại về bản chất của con người. Mác viết: “Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Điều đó cho thấy
rằng, tất cả các quan hệ xã hội vật chất, tinh thần, đều góp phần vào việc hình thành
bản chất con người, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò quyết định nhất.
Như vậy, bản chất con người chỉ có thể được hình thành, được nhận thức
thông qua các quan hệ xã hội của nó và bản chất con người không phải là cái vốn
có, hình thành một lần là xong, tách rời khỏi những mối quan hệ xã hội khách quan
mà là một đại lượng biến đổi, một quá trình mang tính lịch sử, cụ thể thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, có thể nhận thức được bản chất của con
người thông qua các tổ chức, thể chế chính trị, các mối quan hệ xã hội hiện thực,
xác định và thông qua hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính
bản thân con người. Vì vậy, muốn thay đổi hoặc hoàn thiện bản chất con người

phải thay đổi và hoàn thiện những mối quan hệ xã hội của họ.
Từ luận giải đúng đắn về con người, Mác đã chỉ ra muốn giải phóng con
người phải tìm ra chìa khoá giải phóng xã hội, đi từ nguyên nhân đầu tiên là
nguyên nhân kinh tế - xã hội, làm cho con người bị mất bản thân mình, bị tha hoá.
Tình trạng này được Mác và Ăngghen xem xét qua những biểu hiện chính của nó
khi chế độ tư hữu đi tới đỉnh cao là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa: người lao động
làm ra nhiều của cải nhưng bản thân mình lại chỉ được hưởng thụ quá ít của cải nên
buộc phải sống ở mức nghèo khổ, của cải sản xuất càng dồi dào càng trở thành một
sức mạnh khủng khiếp chi phối con người. Tình trạng con người bị tha hoá là dấu
hiệu cao nhất nói lên sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm
Bản thảo kinh tế - triết học, Mác đã khẳng định rằng: chủ nghĩa cộng sản như sự
xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu - sự tha hoá ấy của con người. Vậy, có thể
khẳng định cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là một tất
yếu và lập trường nhân đạo chủ nghĩa triệt để của giai cấp công nhân biểu hiện tập
trung ở mục tiêu cao cả giải phóng con người khỏi tình trạng bị tha hoá.
Khi đưa ra ra mô hình về xã hội tương lai trên những nết chủ yếu của nó, các
nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã đặt con người ở vị trí trung tâm, con
người là chủ thể xây dựng xã hội, đồng thời là sản phẩm chủ yếu của quá trình phát
triển xã hội đó. Theo Mác - Ăngghen, xã hội mới là một xã hội thoả mãn ngày càng
4


đầy đủ những nhu cầu không ngừng tăng lên của con người, bằng cách tạo ra
những điều kiện để con người phát triển năng lực và đóng góp nhiều nhất vào tiến
bộ xã hội. Điều này đã được các ông dự báo khoa học trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản (1848) là xã hội loài người trong tương lai sẽ là một thể liên hiệp trong
đó sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người. Luận
điểm này càng có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với nước ta
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Kế thừa tư tưởng của Mác - Ăngghen về con người và giải phóng con người,

Lênin đã phát triển, bổ sung trong điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Những quan điểm về con người của chủ nghĩa Mác được
Lênin vận dụng trung thành, sáng tạo làm cơ sở để vạch ra con đường giải phóng
con người, giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể những người lao động bị áp
bức, bóc lột trong xã hội tư bản. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười
Nga(1917) là minh chứng thực tiễn sinh động cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề
con người và giải phóng con người của chủ nghĩa Mác - Lênin, mở ra cho nhân loại
tiến bộ một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới.
Trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ chính quyền Xô Viết còn
non trẻ trước sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã cùng Đảng
Bôn sê vích Nga luôn luôn coi trọng giải quyết đúng đắn vấn đề con người. Theo
Lênin, nhân tố quyết định sự phát triển của lịch sử suy đến cùng là sự sản xuất và
tái sản xuất ra đời sống xã hội hiện thực. Con người không chỉ là sản phẩm của sự
phát triển tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã hội;
con người là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của mọi quá trình lịch sử; con người
là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, là lực lượng sản xuất quyết định
nhất của xã hội và “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Người khẳng định:
“Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”1.
Con người không chỉ là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên và xã hội mà
còn là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã hội. Vì vậy, cần phải nhận thức sâu
sắc và đầy đủ về nguồn lực con người (nhân tố con người). Đó là tổng thể những
yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã
. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1977, tr. 430.

1

5



hội… tạo thành năng lực của con người và của cộng đồng xã hội. Năng lực ấy khi
được sử dụng, phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng, chỉ có thể đánh giá vai trò quyết định
của nguồn lực con người khi đặt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực khác.
Chúng ta đều biết rằng, bất cứ một quốc gia dân tộc nào muốn tồn tại bền vững và
phát triển theo con đường tiến bộ cũng đều phụ thuộc vào những nhân tố như: vị trí
địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn đã được tích luỹ trong nước và có thể
tranh thủ được từ bên ngoài… Trong đó, nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của đất nước chính là vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên. Thế
nhưng trên thực tế lại cho chúng ta thấy rằng, những nhân tố đó lại phụ thuộc vào
khả năng khai thác của con người. Nhiều quốc gia, dân tộc có vị trí địa lý, điều kiện
tự nhiên rất thuận lợi là nhân tố cho đất nước giàu mạnh; trái lại cũng không ít quốc
gia có điều kiện tương tự nhưng đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu. Mặt khác, nguồn
vốn cũng là nhân tố không thể thiếu cho sự phát triển của đất nước, nhưng nó chỉ
có thể phát huy tác dụng tích cực khi quốc gia đó mà trước hết là con người sử
dụng hợp lý nguồn vốn ấy để phát triển nền sản xuất trong nước. Vì vậy, nhân tố
con người có vai trò quyết định trong các nhân tố, các nguồn lực của sự phát triển
lịch sử.
Trung thành với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và nguồn
lực con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo và giải quyết
đúng đắn vấn đề con người phù hợp với hoàn cảnh cách mạng Việt Nam. Theo Hồ
Chí Minh, sự nghiệp giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp , giải
phóng con người. Nói cách khác, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh có cấu trúc nhân cách là “đức” và
“tài”, trong đó “đức” là gốc, là nền tảng. Người nói: Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang.
Trong khi coi “đức” là gốc, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đặt ra yêu cầu đòi hỏi mỗi
con người phải không ngừng học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, không ngừng
phát triển tài năng. Người khẳng định: “Có tài phải có đức, có tài không có đức,
tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa,

không giúp ích gì ai được”1. Như vậy, con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
. Hồ Chí Minh, Sdd, tập 8, H, 1996, tr. 184.

1

6


con người toàn diện, con người hài hoà, cân đối trí lực và thể lực, đức và tài…
Không những quan niệm đúng đắn về con người mà Hồ Chí Minh còn là một nhân
cách mẫu mực, một nhà lãnh đạo tài ba trong trong phát huy nguồn lực con người
phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Người luôn đề cao sức mạnh của
con người, sức mạnh của nhân dân, và căn dặn chúng ta: “Dễ mười lần không dân
cũng chị, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Vì vậy, khi đất nước giành được hoà
bình bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” 2. Khi suy ngẫm về sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ để bảo đảm cho sự hưng thịnh bền vững của đất nước,
Người nhắc lại chân lý mà các nhà hiền triết đã tổng kết: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”3.
Suy cho cùng, công việc quyết định nhất của xã hội, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, chính là giáo dục mọi người thành người, làm người và ở đời, làm cho mọi
người thành nhân nhân cách có văn hoá.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của chế
độ ta, là kim chỉ nam cho nghiên cứu lý luận và hành động thực tiễn cách mạng của
chúng ta. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người đã được Đảng ta vận
dụng xây dựng thành các văn kiện, nghị quyết chỉ đạo hoạt động thực tiễn phát
triển con người Việt Nam, phục vụ công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.
Qua nghiên cứu những văn kiện đó, có thêm phần hiểu biết nhận thức về con người
Việt Nam.
Văn kiện Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (1960) đã khẳng

định: Con người là vốn quí nhất. Sự nghiệp giáo dục của chúng ta phải bồi dưỡng
thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, có văn hoá và kỹ thuật, có sức khoẻ, những người phát triển toàn diện để xây
dựng xã hội mới.
Tiếp tục cụ thể hoá quan điểm đó, Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản
Việt Nam(1976) đưa ra luận điểm giáo dục, hình thành và phát triển con người mới
đó là: Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người Việt Nam mới mà những đặc

. Hồ Chí Minh, Sdd, tập 10, H, 1996, tr. 310.
. Hồ Chí Minh, Sdd, tập9, H, 1996, tr. 222.

2
3

7


trưng nổi là làm chủ tập thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc
tế vô sản.
Đại hội Đảng lần thứ V tiếp tục khẳng định: Đẩy mạnh công cuộc xây dựng
nền văn hoá mới và con người mới bám thật sát yêu cầu cách mạng và phù hợp
với khả năng kinh tế, thúc đẩy tốt hơn công cuộc xây dựng chế độ mới và nền
kinh tế mới.
Phát triển tư tưởng về con người lên một tầm cao mới, đại hội lần thứ VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đưa ra đường lối đổi mới đất nước toàn diện,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân tố con người, phát huy
nhân tố con người; gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, lấy phục vụ con
người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, lấy sự quan tâm đến con người và
thái độ tôn trọng lẫn nhau là tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động kinh tế, văn
hoá và xã hội.

Phát triển đường lối đổi mới của Đại hội VI, qua các kỳ Đại hội Đảng ta luôn
khẳng định đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
đó là chiến lược của dân, vì dân, do dân, nhằm giải phóng và phát huy mọi tiềm
năng của mỗi cá nhân, từng tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc. Nguồn lực
lớn nhất, quí nhất của chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam, trong đó có tiềm
lực trí tuệ. Mục tiêu của chúng ta là giải phóng con người, là phát triển toàn diện
cá nhân. Với tư tưởng đúng đắn về con người, đặt con người giữ vị trí trung tâm
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, coi con người là nguồn lực quan trọng
nhất để phát triển đất nước, nhằm phục vụ con người, từng tập thể và cả xã hội, lấy
lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển.
Một lần nữa, quan điểm về con người và chiến lược phát triển con người
Việt Nam tiếp tục được Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội XII: “Xây
dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng
tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi”; “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân
cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế”2. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực,
. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr. 103, 106.

2

8


thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn
quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững
hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Vị trí chiến lược của phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nhân tố con người là tổng hoà các năng lực và phẩm chất của con người
được biểu hiện trong hoạt động tích cực cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm thúc đẩy
tiến bộ xã hội.
Như vậy, nhân tố con người là tổng thể những dấu hiệu đặc thù thể hiện vai
trò chủ thể của con người trong hệ thống các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội, bao gồm địa vị chủ thể khả năng, năng lực, phẩm chất, tư cách của con người.
Nhân tố con người là một khái niệm rộng bao hàm các nội dung cơ bản sau:
Một là, nhân tố con người là chủ thể tổng hợp của đời sống xã hội, của hệ
thống các giai cấp và tầng lớp xã hội tác động qua lại và giữ địa vị khác nhau, mà
hoạt động của nó đảm bảo sự phát triển tiến bộ xã hội.
Hai là, nhân tố con người được biểu hiện bằng những chỉ tiêu về số lượng,
chất lượng, nói lên khả năng của con người, cộng đồng người như một tiềm năng
cần được phát huy, đó là số lượng lao động, tình trạng sức khoẻ, trình độ học vấn
của nguồn lao động và yếu tố truyền thống.
Ba là, nhân tố con người còn là tổng hoà phẩm chất và năng lực của nhân
cách, chức năng xã hội của cá nhân trong hệ thống các quan hệ xã hội, bao gồm cả
năng lực trí tuệ, tư duy chuyên môn, kỹ thuật được đào tạo và ý thức chính trị, lập
trường xã hội của cá nhân.
Từ những phân tích trên cho chúng ta thấy, hạt nhân của nhân tố con người
là hoạt động tích cực của con người nhằm cải tạo môi trường xung quanh , cải tạo
tự nhiên và xã hội, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội theo phương hướng nhân đạo. Vì thế,
nhân tố con người được hiểu là động lực trực tiếp của lịch sử, là nguồn gốc mọi giá
trị của xã hội loài người.
Dưới chủ nghĩa xã hội, nói đến nhân tố con người là nói đến vai trò chủ thể,
tính năng động sáng tạo của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức
9


xã hội chủ nghĩa và các tầng lớp lao động khác, họ là lực lượng quyết định sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hoạt động của nhân dân lao động sẽ được bảo
đảm và khuyến khích bằng cả hệ thống các tổ chức của họ, đó là sự lãnh đạo của
đảng, nhà nước chuyên chính vô sản và các tổ chức chính trị - xã hội. Vì vậy, mức
độ, quy mô, phạm vi sử dụng và phát huy các tiềm năng của con người cao hơn và
lớn hơn nhiều so với dưới chế độ xã hội cũ - xã hội tư bản chủ nghĩa; trình độ tự
giác, tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người cũng cao hơn, họ có điều
kiện tốt hơn về mọi mặt để phát triển và bọc lộ khả năng của mình trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa luôn đặt ra yêu cầu
khách quan phải phát huy cao độ nhân tố con người. Thế nhưng không phải ngay
từ đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhân tố con người đã được phát
huy đầy đủ và trong các giai đoạn khác nhau của quá trình cách mạng nó cũng
không hoàn toàn giống nhau. Do đó, Phát huy nhân tố con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho con người, tạo điều kiện để con người thực sự là chủ nhân chân chính của
xã hội xã hội chủ nghĩa. Phát huy nhân tố con người là nhiệm vụ thực tiễn hàng đầu
của các đảng cộng sản trong các nước xã hội chủ nghĩa, là đảm bảo chắc chắn nhất
cho sự toàn thắng của chủ nghĩa xã hội. Nhận thức sâu sắc điều đó, Đảng ta luôn
quan tâm phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người và cho rằng lấy việc phát
huy nhân tố con người, phục vụ con người là mục đích cao nhất. “Mọi hoạt động
của Đảng và Nhà nước không ngoài mục đích vì hạnh phúc của nhân dân”1.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, nhân dân là người làm nên lịch sử. Đó là cuộc cách mạng tự giác diễn ra
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không chỉ xoá bỏ triệt để xã hội cũ mà
chủ yếu là xây dựng thành công một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho nên,
đòi hỏi tính tích cực, sáng tạo rất cao của từng người, từng tập thể và toàn xã hội.
Lênin đã chỉ rõ: Chủ nghĩa xã hội không phải từ “trên trời rơi xuống”, không phải
tự nhiên mà có. Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là kết quả lao động sáng tạo
. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, H, 1991, tr.8.


1

10


của hàng triệu triệu quần chúng lao động. Vì vậy, phát huy nhân tố con người vừa
nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa là mục
đích cuối cùng và cao đẹp nhất của chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của con người,
vì sự phát triển toàn diện của con người.
Dưới chủ nghĩa xã hội, vai trò nhân tố con người không những được phát
huy mà ngày càng tăng lên. Bởi vì, xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội tiến bộ,
vì con người, phù hợp với xu thế phát triển chung của lịch sử, của thời đại. Hơn
nữa, do tính chất, nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa qui định là cuộc
cách mạng do quần chúng nhân dân lao động làm nên dưới sự lãnh đạo của đảng
mácxít chân chính. Đồng thời là sự đòi hỏi khách quan của sự nghiệp đổi mới đất
nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự tăng lên của vai trò nhân tố con
người trong chủ nghĩa xã hội còn do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại. Nó đã và đang làm thay đổi sâu sắc tính chất và nội
dung lao động, qui trình kỹ thuật, cơ cấu ngành nghề, quan hệ sản xuất, điều kiện
sống, cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp… Sự thay đổi đó buộc con người phải vươn
lên, phải không ngừng nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, nắm bắt những thành
tựu khoa học - công nghệ hiện đại để làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và làm chủ
thiên nhiên, bắt thiên nhiên phải phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của con
người. Thế nhưng cũng cần phải hiểu rằng, chính sự tác động qua lại của nhân tố
con người và nhân tố công nghệ, kỹ thuật trong qui trình sản xuất xã hội không có
gì mâu thuẫn và đối lập nhau mà chúng bổ sung cho nhau. Trong đó, sự phát triển
của công nghệ, kỹ thuật là điều kiện thuận lợi để giải phóng sức lao động của con
người, hạn chế được lao động nặng nhọc, độc hại, tránh được sự nhàm chán, mở ra
cho con người khả năng phát triển ngày càng toàn diện hơn. Sự phát triển của khoa

học kỹ thuật chỉ có thể đạt được trên cơ sở việc phát huy nhân tố con người và nâng
cao được vai trò to lớn của nó trong quá trình sản xuất. Bởi vì, xuất phát từ mối
quan hệ biện chứng giữa khoa học công nghệ và nhân tố con người, sự phát triển
của khoa học công nghệ không làm lu mờ hoặc mất đi vai trò của nhân tố con
người mà trái lại càng đề cao vai trò nhân tố con người và càng khẳng định vị trí ngày
càng tăng của nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cách mạng ở nước ta cho thấy, ở đâu coi trọng và phát huy được
nhân tố con người thì ở đó cách mạng được giữ vững và phát triển. Trong quá trình
11


lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc phát huy
nhân tố con người, vì hạnh phúc của con người, coi đó là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng quy định bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là vấn
đề trung tâm, là mục đích của mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước ta. Trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng ta đã chỉ rõ: Mục tiêu và
động lực chính của sự nghiệp phát triển là vì con người, giải phóng sức sản xuất,
khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và cả cộng đồng,
động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí, tự lực tự cường.
Cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước.
Như vậy, phát huy nhân tố con người là vấn đề chiến lược quyết định thắng
lợi sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong tình hình hiện nay, đất
nước đang đứng trước những thách thức và cơ hội mới, để thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề không chỉ nhận thức một cách đúng
đắn về đặc điểm, vai trò của nhân tố con người trong giai đoạn cách mạng mới mà
trên cơ sở đó tìm ra được một hệ thống các chủ trương phương hướng và giải pháp
cơ bản, đồng bộ nhằm phát huy cao độ nhân tố con người trong sự nghiệp cách
mạng hiện nay.


Chương 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
12


2. 1. Thực chất của việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, phát huy nhân tố con người là
làm bọc lộ hết tiềm năng, khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng vố có trong con
người, trong cộng đồng người, nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để con
người vươn lên không ngừng, tự hoàn thiện và phát triển toàn diện, đủ sức làm chủ
xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân.
Với bản chất tốt đẹp, dưới chủ nghĩa xã hội mục đích của việc phát huy nhân
tố con người chính là vì con người, làm cho con người có đủ điều kiện để ngày
càng phát triển hoàn thiện về phẩm chất và năng lực cao hơn so với các chế độ xã
hội có giai cấp bóc lột. Hơn nữa, hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người
là không ngừng gia tăng tính tự giác, năng động, tự chủ, phát huy sức mạnh bên
trong của mỗi cá nhân, kết hợp với sức mạnh của cả cộng đồng, xây dựng nền tảng
tinh thần vững chắc của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Đồng thời
kiên quyết phê phán, những thói hư tật xấu do tàn dư của xã hội cũ để lại. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy rằng, mỗi con người đều có cái thiện và cái ác trong lòng. Ta
phải biết làm cho lòng tốt ở mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu
bị mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng
của Người, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn luôn quan tâm phát huy
tốt nhân tố con người.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát huy
nhân tố con người là những tác động nhằm khơi dậy và tích cực hoá những tiềm
năng của con người, đồng thời tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không ngừng bọc lộ những tiềm

năng của chính mình, bao hàm hệ thống các tố chất về chính trị, tri thức, trí lực,
tâm lý, sức khoẻ và hệ thống năng lực về tư duy, sáng tạo, kỹ thuật, thích ứng… Vì
vậy, phát huy nhân tố con người là làm khơi dậy và bọc lộ hệ thống về các tố chất
và các năng lực tiềm ẩn trong mỗi con người được phát huy trong sự phát triển toàn
diện của nhân cách, thích ứng với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự phát
triển của xã hội. Do đó, nghiên cứu nhân tố con người phải xuất phát từ sự nhận
thức đúng đắn về những thuộc tính của con người. Phát huy nhân tố con người làm
cho con người ngày càng phát triển cao về trí tuệ, sức khoẻ về thể chất, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức, linh hoạt và văn minh trong ứng xử. Trong đó,
13


trí tuệ được biểu hiện trước hết ở năng lực, chuyên môn được đào tạo và không
ngừng được bổ sung trong quá trình sản xuất. Sức khoẻ về thể chất không chỉ đơn
thuần là sự cường tráng về thể lực mà còn bao hàm sự phát triển tốt về trí lực, tư
chất thông minh, tâm lý, thần kinh và trí sáng tạo cao trong lao động. Đạo đức cũng
không chỉ là lương tâm, danh dự, trách nhiệm nói chung, mà trước hết phải gắn liền
với nghề nghiệp của mỗi con người. Linh hoạt và văn minh trong ứng xử là thích
ứng nhanh với mọi hoàn cảnh luôn giành thế chủ động trước mọi tình huống, xử sự
thông minh, lịch sự, đầy lòng nhân ái, vị tha và mang đậm tính nhân văn. Đạo đức
là cái nền để định hướng các hành động cụ thể của con người trong xã hội. Xây
dựng con người vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
trong từng giai đoạn.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trí tuệ và đạo đức cách mạng
trong sáng hoà quện vào nhau để tạo nên nhân cách mới của con người Việt Nam
từng bước đi vào kinh tế tri thức. Khi đó, tri thức sẽ mang một ý nghĩa hoàn toàn
mới, nó bao hàm đầy đủ cả năng lực tư duy, năng lực dự báo, năng lực giải quyết
vấn đề, đặc biệt là những kỹ năng ứng xử văn minh, hiện đại. Ngày nay, tốc độ
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo ra cuộc cách mạng
năng xuất cao, kéo theo sự chuyển đổi cơ chế quản lý sâu sắc để phù hợp với xu thế

của thời đại, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đòi hỏi. Đối với nước ta, đây vừa là cơ hội,
vừa là thách thức lớn đối với con người và phát huy nhân tố con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều đó đòi hỏi vai trò chỉ đạo của Đảng và
sự tác động của Nhà nước đối với các cộng đồng xã hội trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhằm tạo ra những động lực phát triển của con người, không
ngừng phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của con người trong sự phát triển của xã
hội. Đồng thời đó cũng chính là những tác động trực tiếp đến con người, giúp con
người phát triển toàn diện. Không những thế, nó còn là vấn đề chiến lược và sách
lược của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phát huy nhân
tố con người phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng ta xác định
trong các văn kiện đó là: Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi; phát triển
trí tuệ con người Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và
14


đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; khơi dậy
trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí người Việt Nam,
quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu bằng khoa học và công nghệ.
Như vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người ở vị trí
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Coi việc phát huy nhân tố con
người Việt Nam là một bộ phận cốt lõi của chiến lược ấy, quyết định sự thành bại
của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XXI.
2.2. Thực trạng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con
người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Phát huy nhân tố con người là phát hiện, làm bọc lộ, tạo điều kiện hình thành
và sử dụng những tiềm năng sáng tạo của nhân dân lao động phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực chất chính là việc giải quyết

mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong con người. Xem xét việc phát huy
nhân tố con người, không chỉ cần được nhìn nhận về mặt tự nhiên mà còn cần được
nhìn nhận về mặt xã hội. Tạo môi trường xã hội để con người được sống tự do và
hạnh phúc, có điều kiện thuận lợi nhất để hoạt động sáng tạo và phát huy mọi tiềm
năng của mình. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm giải
quyết tốt vấn đề này. Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, chất lượng
con người Việt Nam cũng được nâng lên một bước đáng kể về mức sống vật chất
và tinh thần, thu nhập và việc làm… Theo cùng với đó là tính tích cực về chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục…ngày càng được nâng cao và thể hiện rõ nét
trong cuộc sống. Đại đa số quần chúng đã thể hiện được ý chí tự cường, chủ động
vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm giàu một cách chính đáng, đưa đất nước từng
bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhiều giá trị văn hoá, đạo đức được cộng đồng
xã hội đề cao. Tính năng động, tính tích cực của công dân, năng lực cá nhân được
khuyến khích phát triển. Con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trở nên năng động hơn, có khả năng sáng tạo, tin tưởng ở
mình và cộng đồng của mình, nhu cầu tinh thần, vật chất, sinh hoạt đã thực sự thay
đổi, chất nhân văn thấm vào cá thể.
Nhiệm vụ xây dựng con người với những chuẩn mực cụ thể đã được nhiều
địa phương, nhiều ngành, nhiều giới nghiên cứu, tổ chức thực hiện. Những đức tính
15


cơ bản của con người Việt Nam đã được cụ thể hoá thành những mẫu hình, chuẩn
mực, phù hợp với từng ngành, giới, địa phương, hình thành cuộc vận động xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước
từng bước được quan tâm. Năm 2000, Việt Nam đã công bố xoá xong nạn mù chữ
và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học 5 năm trong số 13 nước qui định mức độ
giáo dục bắt buộc là 5 năm. Là một nước nông nghiệp đang trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề “tri thức hoá công, nông” rất có ý nghĩa chiến

lược. Tính đến hết năm 2015, số lao động làm việc trong nền kinh tế khoảng
53.098.000 người, trong đó 58,6% thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, 17,4%
thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng còn lại 24% thuộc lĩnh vực dịch vụ 1. Vấn
đề học tập của nông dân, công nhân và những lao động nghèo luôn được gắn liền
với chương trình xoá đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng, tăng được việc làm
trong xã hội. Trong 5 năm gần đây, công tác đào tạo sau đại học được phát triển rất
nhanh, nhờ đó, số thạc sỹ và tiến sỹ tăng lên đáng kể. Đây là lực lượng trí thức
được đào tạo chuyên sâu, làm cơ sở cho việc xuất hiện nhiều nhân tài trong các ĩnh
vực hoạt động của nền kinh tế quốc gia.
Tuy nhiên, trong những năm qua việc phát huy nguồn lực con người ở nước
ta còn bọc lộ nhiều yếu kém, bất cập. Việc xây dựng con người Việt Nam về tư
tưởng, đạo đức, lối sống còn những vấn đề khá bức xúc, một số giá trị văn hoá đạo
đức truyền thống đang có những thay đổi trước tác động của mặt trái cơ chế thị
trường và mở cửa. Sự suy thoái về tư tưởng, chính trị từng là hiện tượng cá biệt, bị
lên án, đến nay suy thoái chính trị ngày càng nặng nề và nghiêm trọng hơn, đi từ
thờ ơ, giảm lòng tin, phai nhạt lý tưởng, xa lánh, né tránh đến một bộ phận bất mãn,
mất lòng tin. Sự xuống cấp về đạo đức, lối sống trong một bộ phận nhân dân, kể cả
cán bộ, đảng viên, gây nên sự bất bình nặng nề trong quần chúng, làm tổn hại niềm
tin vào chế độ; gây cản trở không nhỏ đến chiến lược phát huy nguồn lực con
người. Biểu hiện nổi bật của sự xuống cấp này là các hiện tượng ma tuý, mại dâm,
cờ bạc, ăn chơi trác táng, sa đoạ. Sự suy thoái về đạo lý trong quan hệ cộng đồng
như chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, tình đồng chí, đồng nghiệp,
bạn bè…coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, ảnh hưởng đến phát huy sức
. 30 năm đổi mới thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và phát triển văn hoá, Nxb CTQG, H, 2015, tr. 223.

1

16



mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong cơ cấu đào tạo bậc học, ngành học còn biểu hiện sự bất hợp lý, mất
cân đối. Việc đào tạo nghề còn thiếu và chưa đáp ứng kịp yêu cầu đòi hỏi của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu đào tạo vùng, miền có độ chênh lệch
cao, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay. Cơ cấu chuyển đổi nguồn nhân lực trong nước diễn ra chậm
chạp, cả ở lao động công nghiệp, lao động nông nghiệp và lao động dịch vụ. Đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật phục vụ
cho các ngành công nghệ cao còn thiếu. Từ năm 2010 đến nay, mức đầu tư bình
quân hàng năm cho khoa học và công nghệ đạt 2% ngân sách quốc gia (tương
đương 200 - 250 triệu USD) là một cố gắng lớn của Nhà nước, song việc sử dụng
kinh phí này lại thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu quan trọng. Thiếu
qui hoạch đào tạo đội ngũ can bộ khoa học và công nghệ trình độ cao ở các lĩnh
vực ưu tiên, cán bộ có trình độ cao hiện còn ít, song cũng chưa được sử dụng tốt và
đãi ngộ thoả đáng, gây ra tình trạng “chảy máu chất xám” rất xót xa. Đánh giá về
thực trạng yếu kém đó, Văn kiện Đại hội Đảng XII đã chỉ rõ: “Chất lượng giáo dục
và đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu cầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”1.
Thực trạng trên phần nào đã phản ánh cho chúng ta thấy rằng, trong những
năm qua Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm giải quyết vấn đề con người và phát huy
nhân tố con người phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Cùng với những thành
tựu đã đạt được, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Thực tế đã chứng tỏ rằng, những đổi mới trong lĩnh vực phát huy nhân tố con
người là chưa đầy đủ và toàn diện, nhiều vấn đề về giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng
nhân tài, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống nhân dân, khai thác quản lý, sử
dụng nguồn nhân lực chưa được quan tâm đúng mức…đang cần được bổ sung, đổi
mới để đáp ứng yêu cầu phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn mới, phục
vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đòi hỏi cấp bách đó,
việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay cần phải thực hiện tốt một số

giải pháp cơ bản sau:
. ĐCSVN Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr. 63.

1

17


Một là, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ.
Giáo dục và đào tạo là cơ sở hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực
hoạt động thực tiễn của nhân cách, của tập thể lao động và cả cộng đồng. Thông
qua giáo dục và đào tạo nâng cao trình độ, năng lực hoạt động có hiệu quả và làm
cho con người có lối sống tích cực, có văn hoá và trách nhiệm…Hoạt động tự giác
của con người đạt đến trình độ cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc vào việc con
người nhận thức về thế giới xung quanh mình. Nghĩa là, việc con người hiểu biết
và làm chủ các qui luật phát triển của tự nhiên và xã hội, có kiến thức nghề nghiệp
ở mức độ nào. Do vậy, việc tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo trở
thành nhân tố to lớn phát huy những tiềm năng của con người trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Tạo ra khả năng khai thác có hiệu quả tiềm năng của
mọi công dân, mọi giai tầng xã hội, mọi thành phần kinh tế và cả cộng đồng dân
tộc. Đảng ta xác định: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học
và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động
lực trực tiếp của sự phát triển”1.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay, phải tập trung vào cả giáo
dục chung, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục đạo đức, giáo dục thể lực… nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Thông qua giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục nghề nghiệp giúp
cho con người có thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, hiểu biết
những nhu cầu tất yếu khách quan về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, nắm bắt những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại…giúp cho họ có khả năng hoạt động phù hợp với các quy lật

khách quan, làm cho con người xứng đáng là chủ nhân của đất nước.
Mặt khác, chất lượng giáo dục, đào tạo ảnh hưởng quyết định trình độ, khả
năng sáng tạo của con người Việt Nam trong hoạt động thực tiễn. Dưới tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa - công nghệ hiện đại, làm thay đổi tính chất và
nội dung của lao động, yêu cầu về trí tuệ, trí lực cũng như tính sáng tạo của con
người ngày càng cao. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Vì vậy, để hoạt động của con người Việt Nam ngày càng tích cực
. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, H. 1991, tr. 221.

1

18


hơn, sáng tạo hơn thì vấn đề có ý nghĩa chiến lược và cấp bách hàng đầu là phải
không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo con người. Để làm việc đó,
phải nắm vững quan điểm “xã hội hoá” giáo dục và đào tạo. Toàn dân học tập và
toàn dân tham gia giáo dục, thực hiện một nền giáo dục của dân, do dân, vì dân.
Mọi người đều được học tập và học suốt đời. Đồng thời, đa dạng hoá các hình thức
giáo dục và đào tạo, trong đó trường công lập giữ vai trò nòng cốt; phát triển các
trường dân lập, tư thục; đa dạng hoá các hình thức đào tạo không tập trung như tại
chức, từ xa, đại học mở… Cùng với các hình thức trên, cần phải phát triển việc tự
giáo dục, tự đào tạo thông qua hoạt động thực tiễn của các tập thể lao động.
Chất lượng giáo dục và đào tạo còn góp phần quan trọng vào việc hình thành
thái độ sống tích cực, định hướng giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả trong hoạt động
của nhân dân lao động và trình độ phát triển toàn diện nhân cách cho mỗi người.
Trên thực tế, chất lượng giáo dục, đào tạo của nước ta trong những năm qua còn
nhiều vấn đề gây bức xúc, tạo ra dư luận không tốt trong nhân dân. Việc giáo dục
con người Việt Nam phát triển toàn diện chưa được quan tâm đúng mức, nhất là

thế hệ trẻ có sự sa sút về phẩm chất, đạo đức, lối sống… Để khắc phục những hạn
chế đó, điều có ý nghĩa quyết định là không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo đối với mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi, nhất là thế hệ trẻ. Làm cho họ
có đầy đủ tri thức về văn hoá, về nghề nghiệp, về chuyên môn, về khoa học kỹ
thuật, về đời sống…để trở thành con người có nhân cách đáp ứng đòi hỏi của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hai là, thường xuyên đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội và thực hiện
tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội là yêu cầu khách quan, phù hợp
với sự phát triển tất yếu của đất nước thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý không chỉ tác động đến
hoạt động kinh tế, mà còn tác động tích cực đến đến việc phát huy nhân tố con
người trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Cơ chế quản lý xã hội đúng, phù
hợp tạo ra sự phối hợp hành động của từng con người và toàn xã hội, tạo nên sức
mạnh của nhân tố con người.
Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội theo hướng tinh gọn, dân chủ
công khai, bảo đảm thực sự quyền làm chủ thuộc về nhân dân, với phương châm
19


“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Có như vậy, nhân dân mới cống hiến
sức lực và tài trí của mình với ý thức, trách nhiệm cao nhất cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực tiễn 30 năm đổi mới ở nước ta đang chứng
minh cho phương hướng đúng đắn đó.
Hơn nữa, đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội còn góp phần quan
trọng làm cho mỗi cá nhân, tập thể và cả cộng đồng thấy rõ vị trí người chủ xã hội,
xác nhận rõ vai trò hàng đầu của chủ thể sáng tạo, mọi giá trị của xã hội. Trên cơ sở
đó, người lao động xác định rõ quyền và nghĩa vụ công dân, mới phát huy được hết
tính năng động, tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo, tính kỷ luật…của mỗi con
người, tập thể và cộng đồng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội, cần phải mở rộng dân
chủ hoá đời sống xã hội. Bởi vì, dân chủ hoá xã hội là yêu cầu cơ bản thường
xuyên để phát huy nhân tố con người, chúng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động
biện chứng lẫn nhau. Đây là hai vấn đề có chung một mục đích là tôn trọng con
người, nhằm phát triển con người đạt đến trình độ cao của tính nhân đạo, nhân văn
cao cả. Dân chủ hoá đời sống xã hội sẽ tạo ra môi trường tâm lý lành mạnh, sinh
động, kích thích tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động của con người. Chính dân
chủ hoá tạo điều kiện thuận lợi cho con người được tự do hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật, vì lợi ích cá nhân cũng như toàn xã hội, từng bước hoàn thiện nhân
cách và phát triển nhân cách. Nó còn là yếu tố cơ bản khắc phục và hạn chế những
tiêu cực, những hiện tượng xâm phạm quyền con người, coi thường nhân phẩm con
người. Trên cơ sở đó, kích thích tính tích cực, tính năng động, sáng tạo của con
người, làm cho con người và mọi hoạt động của họ luôn hướng tới chân - thiện mỹ trong cuộc sống, đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của mỗi người trong
lời nói và việc làm, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Ba là, coi trọng và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội.
Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, nhằm nâng cao phúc lợi
xã hội cho nhân dân, làm cho điều kiện sống, sinh hoạt và lao động của nhân dân
được cải thiện từng bước phù hợp với khả năng phát triển của nền kinh tế nước
nhà. “Thực hiện chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to
lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ
20


nghĩa xã hội”1. Chính sách xã hội góp phần quan trọng để hình thành hệ thống nhu
cầu và lợi ích đúng đắn của cá nhân, tập thể lao động và cả cộng đồng phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Suy đến cùng mọi hoạt
động của con người điều gắn liền với lợi ích và lấy lợi ích làm xuất phát điểm. Lợi
ích chúng ta bàn ở đây bao gồm, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích trước mắt,
lợi ích lâu dài, lợi ích mỗi cá nhân và lợi ích tập thể, cộng đồng. Sự khác biệt về

chất của chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội khác là không
chỉ quan tâm đến lợi ích của xã hội và tập thể lao động nói chung mà trước hết là
quan tâm đến lợi ích của mọi người lao động trong mối quan hệ với lợi ích tập thể,
lợi ích xã hội. Tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra nhiều bài học
quan trọng, trong đó có bài học “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào
nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn,
nhạy bén với cái mới”2.
Để phát huy nhân tố con người phải từng bước đổi mới chính sách xã hội đối
với người lao động. Chính sách xã hội phải hướng trọng tâm vào giải quyết vấn đề
việc làm cho người lao động, bảo đảm công bằng xã hội, nâng cao dân trí, lành
mạnh hoá xã hội, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Bên cạnh đó, thực
hiện tốt chính sách ưu đãi đối với gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng
là thể hiện sâu sắc đạo lý của con người và dân tộc Việt Nam. Trong những năm
qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm thực hiện tốt các chính sách xã hội, nâng
cao được mức sống cho nhân dân, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao
động… Trong 5 năm (2011-2015), tạo việc làm cho 7,8 triệu lao động. Thu nhập
bình quân đầu người tăng từ 5,8 triệu đồng năm 2011 lên trên 10 triệu đồng năm
2015. Tuy nhiên, kết quả thực hiện chính sách xã hội cũng còn nhiều hạn chế như,
khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa
các vùng có xu hướng doãng ra. Nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa
được đáp ứng tốt. Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp…Vì vậy, coi trọng và
thực hiện trên thực tế chính sách xã hội phù hợp càng có ý nghĩa quan trọng đối với
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. Điều đó được Đảng ta
xác định: “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ
. Cương linh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, H. 1991, tr. 13.
. ĐCSVN Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 71.

1
2


21


công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc
làm, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao…” 1, sẽ tạo ra khả
năng và điều kiện để phát huy tiềm năng to lớn của con người Việt Nam trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, dưới sự quản lý của Nhà nước.
Thực chất phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là phát
triển lực lượng sản xuất, giải phóng sức lao động, tạo việc làm và kích thích tính
năng động sáng tạo của người lao động. Đây chính là môi trường tích cực để rèn
luyện con người cả về năng lực hoạt động thực tiễn, tính sáng tạo và cả về phẩm
chất, đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp. Đối với nước ta, phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều kiện thuận lợi
để người lao động phát huy tài năng thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp, hoá
hiện đại hoá đất nước. Trên thực tế, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang phát triển đúng hướng
đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực, từng bước đưa đất nước thoát khỏi đói
nghèo, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm 2011
- 2015 là 5,9% đạt mức kế hoạch đặt ra. Sức sản xuất được giải phóng mạnh mẽ và
không ngừng phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao,
tạo thuận lợi cho đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên
làm giàu chính đáng, nhân tố con người được phát huy trên cơ sở bảo đảm công
bằng, bình đẳng xã hội…
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn
chậm. Nhiều nguồn nhân lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai
thác tốt. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ

biến, lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao…Điều đó đặt ra, phải tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để phát huy và khai
thác tối đa mọi nguồn lực của đất nước, trong đó có nguồn lực con người phục vụ
đắc lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Muốn vậy, phải tiếp tục phát triển nền
. ĐCSVN Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 101.

1

22


kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Trên cơ sở đó,
phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Năm là, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
cơ bản của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, muốn có chủ
nghĩa xã hội thì phải có con người mới xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm đó,
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của
cách mạng trong từng giai đoạn. Bởi lẽ, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
chính là biện pháp cơ bản mang tính tổng hợp để phát huy nhân tố con người phục
vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa gắn bó chặt chẽ với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội, đồng thời con
người xã hội chủ nghĩa là lực lượng quyết định sự phát triển của chế độ xã hội mớixã hội xã hội chủ nghĩa.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm thấp về kinh tế và xã

hội, tàn dư của chế độ xã hội cũ để lại nặng nề, đất nước lại phải trải qua chiến
tranh và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù. Đặc điểm đó, chi phối lớn đến sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. Để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa phải khai thác và phát huy cao độ nhân tố con người, phải xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm xây dựng con
người Việt Nam đó là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các giá trị mới như lý
tưởng, năng lực trí tuệ, vẻ đẹp đạo đức, bản lĩnh văn hoá…của con người Việt Nam
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Đây là một đòi hỏi cao
và mới trong xây dựng con người Việt Nam. Bởi vì, những năm qua, cuộc vận
động xây dựng con người mới, tuy có bề rộng, nhưng chưa sâu, chưa bền vững,
23


hiệu quả còn hạn chế và hình ảnh con người Việt Nam hiện đại còn mờ nhạt trong
sáng tạo văn học, nghệ thuật cũng như trong các hoạt động khác.
Cùng với xây dựng và hoàn thiện hệ thống các gia trị mới, phải kiên quyết
đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời phải quan tâm bồi dưỡng các giá trị văn hoá
cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Con người mới xã hội chủ nghĩa không hình thành một cách tự phát mà phải
trải qua quá trình xây dựng, thông qua lao động sản xuất và đấu tranh, thông qua sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các giải pháp trên là một tổng thể có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau trong
xây dựng và phát huy nhân tố con người. Phải tiến hành đồng bộ triệt để các giải
pháp đó, đồng thời kiên quyết đấu tranh với quan điểm , thái độ không đúng về con
người và nhân tố con người. Xác định tốt trách nhiệm của các cấp, các ngành, các
tổ chức xã hội và cá nhân trong xây dựng và phát huy nhân tố con người.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, là công cụ
bạo lực sắc bén của Nhà nước, đồng thời là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp

toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc phát huy nhân tố con người trong quân đội là
tất yếu khách quan, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bởi vì, xuất phát từ mối quan hệ giữa con người và vũ khí, vai trò của nhân tố con
người trong chiến tranh; từ đặc điểm, tính chất, yêu cầu của cuộc chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và yêu cầu xây dựng quân đội nhân dân cách mạng,
chính qui, tinh nhuệ từng bước hiện đại. Xuất phát từ thực tế giải quyết mối quan
hệ giữa nhu cầu lợi ích, cống hiến và hưởng thụ, vinh dự và trách nhiệm của quân
đội đối với vận mệnh của đất nước, đòi hỏi phải phát huy nhân tố con người.
Phát huy nhân tố con người trong Quân đội nhân dân Việt Nam là làm bọc
lộ, khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng về phẩm chất và năng lực hoạt động quân
sự của mỗi cán bộ, chiến sĩ, nâng cao bản lĩnh chính trị , ý chí tự lực tự cường, tính
tổ chức, tính kỷ luật và trách nhiệm trong sử dụng trang bị kỹ thuật đáp ứng yêu
cầu xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc. Tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sỹ phát
huy bản chất, truyền thống cách mạng, khả năng sáng tạo trong hoạt động quân sự.
Nắm vững khoa học và kỹ thuật quân sự, làm chủ các loại vũ khí trang bị, nêu cao
24


tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của các thế
lực thù địch.
Trong giai đoạn cách mạng mới, để phát huy nhân tố con người trong quân
đội, Đảng và Nhà nước cần phải thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố nền
quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân và quân đội nhân dân vững
mạnh về mọi mặt, lấy xây dựng chính trị - tư tưởng làm cơ sở. Đồng thời có chính
sách phù hợp cho sĩ quan, chiến sĩ và hậu phương quân đội; bảo đảm lợi ích chính
đáng về vật chất và tinh thần cho các lực lượng vũ trang.
Bên cạnh đó, bản thân quân đội cũng phải thường xuyên giác ngộ lý tưởng
xã hội chủ nghĩa cho mọi quân nhân, xây dựng và tăng cường bản lĩnh chính trị,
nâng cao năng lực chiến đấu cho mọi cán bộ, chiến sĩ. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế

lãnh đạo và chỉ huy, nêu cao dân chủ, củng cố kỷ luật; cụ thể hoá quan điểm của
Đảng về xây dựng con người mới trong quân đội; quan tâm đầy đủ đến lợi ích vật
chất, tinh thần cho bộ đội, thực hiện nghiêm chính sách hậu phương quân đội của
Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, mỗi quân nhân trong quân đội, phải không ngừng
nêu cao ý thức, trách nhiệm, tự giác, gương mẫu trong thực hiện tốt chức trách,
nhiệm vụ của mình, góp phần phát huy tốt nhân tố con người, bảo đảm cho quân
đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
KẾT LUẬN
Phát huy nhân tố con người không chỉ là vấn đề chiến lược mà còn là vấn
đề cấp bách hiện nay. Bởi lẽ, do đặc điểm của đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã
hội; tình hình quốc tế đang diễn biễn phức tạp và tác động mạnh mẽ vào sự
nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta; do yêu cầu của đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; yêu cầu phải tiến kịp về mọi mặt với các
nước trong khu vực và thế giới; đồng thời, để phát huy và sử dụng các tiềm năng
dồi dào của đất nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thì
nguồn lực con người là nguồn lực to lớn nhất, quyết định nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb CTQG, H, 1995
2. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1977
25


×