Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TÌM HIỂU DÂN TỘC NGƯỜIKHƠME VÀ TẾT KHƠME NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.79 MB, 16 trang )

NHÂN HỌC VĂN HÓA

TÌM HIỂU VỀ DÂN TỘC NGƯỜI
KHƠME VÀ TẾT KHƠME NAM BỘ

Sinh viên : Lương Minh Khang
Lớp K8A Quản Lý Văn Hóa


1.Dân tộc Khơme

Nguồn : bảo tàng dân tộc học Việt Nam

Tên gọi khác
Cur, Cul, Cu, Thổ, Việt gốc Miên, Khơ me Krôm.
Nhóm ngôn ngữ
Môn – Khmer
Dân số


1.000.000 người.
Cư trú
Sống tập trung tại các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Kiên Giang, An
Giang.
2. Đặc điểm kinh tế

Nguồn : Bảo tàng dân tộc học Việt Nam


Người Khơme đã biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết chọn giống lúa,
biết làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để thau chua, xổ phèn cải tạo đất, có địa phương


trồng nhiều dưa hấu. Đồng bào cũng phát triển kinh tế toàn diện như chăn nuôi trâu bò để
cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt đàn, thả cá và phát triển các nghề thủ công như dệt, gốm, làm
đường từ cây thốt nốt.

Nguồn : bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Đây là những dụng cụ làm lúa nước của người Khơme Sóc Trăng.. Gồm Nọc Cấy,
Móc vơ cỏ, Dao phát cỏ, Dụng cụ nạo dẫy..


Nguồn : Bảo tàng dân tộc học Việt Nam

Các công cụ cầm tay được trưng bày ở bảo tàng dân tộc học Việt Nam, giới thiệu có hệ
thống về sản xuất nông nghiệp của người Khơme từ các thế kỷ trước, cho thấy sự khéo tay
của các nghệ nhân thời xưa, cũng như phản ánh một cách rõ nét về đời sống kinh tế, sinh
hoạt văn hoá, tôn giáo, và tín ngưỡng. Và mô hình sân khấu Rô băm, Dù kê (loại hình sử
dụng ngôn ngữ múa còn gọi là nghệ thuật kịch múa cổ nhất còn lưu giữ được) được thiết
kế công phu giúp khách tham quan hiểu nghệ thuật sân khấu của người Khơme Nam Bộ.


Nguồn : Bảo tàng dân tộc học Việt nam


Nguồn : Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Đây là sản phẩm nghề nhộm vải khơme gồm váy, khăn và váy nam giới..


Nguồn : Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Đây là đàn nguyệt của người khơme Trà Vinh, Hộp thuốc lá ( Khơme Sóc Trăng)
và Bình vôi Khơme Sóc Trăng.
3. Văn hóa

Từ lâu và hiện nay, chùa Khơme là tụ điểm sinh hoạt văn hóa - xã hội của đồng bào.
Trong mỗi chùa có nhiều sư (gọi là các ông lục) và do sư cả đứng đầu. Thanh niên người
Khmer trước khi trưởng thành thường đến chùa tu học để trau dồi đức hạnh và kiến thức.
Hiện nay ở Nam Bộ có trên 400 chùa Khơme. Nhà chùa thường dạy kinh nghiệm sản
xuất, dạy chữ Khơme.
Đồng bào Khơme có tiếng nói và chữ viết riêng, nhưng cùng chung một nền văn hóa, một
lịch sử bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Đồng bào khơme sống xen kẽ với đồng bào
Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp.


Nguồn : Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Sách lá buông của người khơme
Đồng bào Khơme Nam Bộ có nhiều phong tục tập quán và có nền văn hóa nghệ thuật rất
độc đáo. Những chùa lớn thường có đội trống, kèn, đàn, có đội ghe ngo... Hàng năm
người Khơme có nhiều ngày hội, ngày tết dân tộc.

Nguồn : Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Nhạc cụ cung đình cổ


Về hình thức, nhạc ngũ âm được dàn dựng khá tinh xảo, mỗi nhạc cụ được định
âm một cách chính xác, đảm bảo các yếu tố hòa âm cho cả dàn. Bộ nhạc này có 6 nhạc cụ
chính, gồm: Đàn thuyền bằng tre bass, đàn thuyền bằng tre trép, cồng bằng đồng bass,
cồng bằng đồng trép, hai trống lớn và một trống sampho. Ngoài sự hòa âm ở những nhạc
cụ chính trong dàn, nhạc ngũ âm còn phối hợp hài hòa với các nhạc cụ khác như đàn cò,
đàn hai dây… hoặc có thể tách ra thành những nhạc cụ riêng lẻ để dễ thể hiện trong các
điệu múa khác.

Đồng bào Khơme có các ngày lễ lớn là Chôn Chơ nam thơ mây (năm mới), lễ
Phật đản, lễ Đôn ta (xá tội vong nhân), Oóc bom boóc (cúng trăng).

4. Nhà cửa
Người Khơme vốn ở nhà sàn, nhưng nay nhà sàn chỉ còn lại rất ít ở dọc biên giới Việt Campuchia và một số nhỏ trong các chùa phật giáo Khơ me là nơi hội họp sư sãi và tín
đồ... Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Khơ me khá đơn giản
Nay số đông người Khơme ở nhà đất. Bộ khung nhà đất được làm khá chắc chắn. Nhiều
nơi làm theo kiểu vì kèo của nhà Việt cùng địa phương. Trong nhà được bài trí như sau:
Nhà chia làm hai phần theo chiều ngang, một phần làm nơi ở, một phần dành cho bếp núc.
Phần dành để ở lại chia thành hai phần theo chiều dọc: phần phía trước, ở giữa kê bàn ghế
tiếp khách, bên cạnh thường có tủ kính đựng những chiếc gối thêu vừa để trang trí vừa
tiện dùng có khách. Sau bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thờ Phật. Nữa sau, bên phải là
buồng của vợ chồng chủ nhà. Về bên trái là phòng con gái.


Qua nhà ở và cách bài trí trong nhà của người Khơme Nam bộ ta thấy được sự bình
đẳng trong mối quan hệ gia đình, dòng họ cũng như thấy được cả về tính cách của họ. Đó
là lối sống không bon chen, không màu mè. Theo tinh thần Phật giáo, họ quan niệm, giá
trị đích thực của con người được thể hiện qua việc làm được nhiều điều thiện hay điều ác
trong cuộc sống hàng ngày.
Người Khơme ít quan trọng trong vấn đề nhà ở nhưng họ lại quan tâm đến việc xây dựng,
tu bổ cho ngôi chùa. Theo thống kê hiện nay tại Đồng bằng sông Cửu Long có tới gần 450
ngôi chùa Khơme. Các chùa Khmer này được xây dựng vào các thời điểm khác nhau và
trong đó có nhiều ngôi chùa đã được công nhận là di tích lịch sử, văn hóa và kiến trúc cấp
tỉnh và cấp quốc gia.
Chùa Khơme Nam bộ là nơi lưu giữ và phổ biến kinh sách Phật giáo cũng như các tác
phẩm văn học, nghệ thuật; là trung tâm đào tạo giáo lý, dạy chữ Khơme, chữ Pali cho các
sư sãi; là trung tâm sinh hoạt văn hóa xã hội gắn với tập tục; nơi tổ chức các hoạt động
văn nghệ thể thao truyền thống và phổ biến thông tin của cộng đồng. Thanh niên Khmer
vào chùa để tu luyện và rèn đạo đức, nhân phẩm. Sư sãi sinh hoạt tại chùa là những trí
thức tiêu biểu của xã hội Khơme truyền thống. Cho tới ngày nay, sự giao lưu với bên
ngoài đã có nhiều mở rộng, đa dạng và phong phú nhưng các sư sãi vẫn tiếp tục đóng vai
trò tích cực trong các hoạt động xã hội của người Khơme. Vì vậy, nói đến văn hóa tộc

người Khơme là phải nói đến chùa Khơme. Người Khơme có một tâm lý rất đặc biệt, nơi
nào có người Khơme cư trú thành phum sóc, có điều kiện kinh tế, đất đai thì ở đó sớm
muộn gì cũng sẽ lập chùa để thờ Phật. Người Khơme rất tự hào nên luôn chăm sóc ngôi
chùa của mình và họ coi các chùa như là bộ mặt văn hóa của phum sóc.


Kiến trúc nhà của người Khơme có sự tương phản rõ rệt với chùa. Ngôi nhà ở của người
dân được xây dựng bằng tre lá đơn sơ bao nhiêu (của tầng lớp bần cố nông) thì ngôi chùa
lại được xây dựng lộng lẫy bấy nhiêu
Với người Khơme, Phật giáo là quốc đạo.

Nguồn : Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Chim Thần Maha Krut


Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, trang trí của chùa Khơme tập trung chủ yếu ở ngôi
chính điện. Khác với những ngôi chùa theo Phật giáo Đại thừa miền Bắc, chùa Khơme
theo Phật giáo Tiểu thừa, chỉ thờ duy nhất Đức Phật Thích Ca, luôn được đặt ở vị trí trung
tâm trên bệ thờ cao nhất của chính điện. Nóc trần và dọc 4 bức tường trong chính điện
được phủ kín bằng nhiều bức tranh kể về cuộc đời Đức Phật. Bên cạnh đó nhiều môtíp của
Bà La Môn giáo và tín ngưỡng dân gian vẫn hiện diện sống động, là nguồn cảm hứng bất
biến trong trang trí kiến trúc của chùa qua hệ thống phong phú tượng các linh thần, linh
thú như đầu vị thần 4 mặt "Mara Prưm" (tiền thân của Brama - vị thần sáng tạo ra thế giới
của Bà La Môn giáo), nữ thần "Kầyno" nửa người, nửa chim, chim thần "Maha Krút",
phúc thần "Tévođa, sư tử, voi, khỉ, nữ thần đất "Him tholny", rắn là biểu tượng của Thần
nước, gắn liền với nghi lễ cầu mưa của tín ngưỡng dân gian... Nhiều hoạ tiết hoa lá, nhất
là dạng hoa dây, hoa cúc, hoa reang được trang trí trên các bệ cửa, phù điêu, riềm tường...
từ giản đơn đến phức tạp, tinh tế như một nét đặc thù tài hoa của mỹ thuật cổ điển Khơme.

Nguồn Bảo tàng dân tộc học Việt Nam

Mâm đựng lễ vật ( khơme Sóc Trăng) ở giữa, Hộp gỗ đựng tro hài cốt ( khơme Bạc
Liêu )


bên trái, Hộp đồng đựng tro hài cốt (khơme Bạc Liêu) bên ph

5. Trang phục
Trang phục cổ truyền có cá tính ở lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín giáo
đạo Phật.
+ Trang phục nam
Thường nhật nam giới trung niên và người già thường mặc bộ bà ba đen, quấn khăn rằn
trên đầu. Trong dịp lễ, tết họ mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng khăn
quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái. Trong đám cưới chú rể thường mặt bộ "xà
rông" (hôl) và áo ngắn bỏ ngoài màu đỏ. Đây là loại áo xẻ ngực, cổ đứng cài cúc, quàng
khăn trắng vắt qua vai trái và đeo thêm 'con dao cưới' (kầm pách) với ý nghĩa bảo vệ cô
dâu. Thanh niên hiện nay khi ở nhà thường không mặc áo và quấn chiếc 'xà rông' kẻ sọc.
Trang phục nữ
Cách đây ba, bốn mươi năm phụ nữ Khơ Me Nam Bộ thường mặc 'xăm pốt' (váy). Đó là
loại váy bằng tơ tằm, hình ống (kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một
loại váy hở, quấn quanh thân nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này là
cách mang váy vào thân. Đó là cách mang luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi kéo lên
dắt cạnh hông tạo thành như chiếc quần ngắn và rộng.
Nếu cách tạo hình váy và một số mô tip hoa văn trên váy có thể có sự tiếp xúc với các tộc
người khác thì cách mặc váy này có thể xem là đặc trưng độc đáo của Khơ Me Nam Bộ.
Họ thường mặc váy trong những ngày lễ lớn, mỗi ngày mặc một màu khác nhau trong
suốt tuần lễ đó. Đó là loại xăm pốt pha muông.
Ngày nay các loại trên ít thấy, có khả chăng chỉ trên sân khấu cổ truyền mà thôi. Người
Khơ Me có kỹ thuật nhuộm vải đen tuyền bóng lâu phai từ quả mặc lưa để may trang
phục. Thường nhật hiện nay người Khơ Me ảnh hưởng văn hóa Kinh qua trang phục.
Trong lễ, Tết lại mặc loại áo dài giống người Chăm. Ngoài ra phụ nữ Khơ Me còn phổ

biến loại khăn Krama dệt ô vuông màu xanh, đỏ trên nền trắng. Ngày cưới các cô dâu
thường mặc chiếc xăm pốt hôl màu tím sẫm hay hồng cánh sen, áo dài tăm pông màu đỏ
thẩm, quàng khăn chéo qua người, đội mũ pkel plac hay loại mũ tháp nhọn nhiều tầng
bằng kim loại hay giấy bồi.


Nguồn Bảo tàng dân tộc học Việt Nam
Trang phục cưới của phụ nữ dân tộc Khmer.


Photography: Khang Minh
produce :Khang Minh



×