Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Chính sách dân tộc thiểu số vùng Bắc Trung bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.3 KB, 12 trang )

I. Phần mở đầu:
Nước Việt Nam ta là nước có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. vì
thế vấn đề dân tộc mà trong đó trước hết là vấn đề ngôn ngữ văn hóa các dân tộc
đã, đang và sẽ là vấn đề nóng bỏng của đất nước ta. Vì thế có một chính sách
ngôn ngữ văn hóa dân tộc hợp lí là một nhiệm vụ thực sự cấp bách, vừa là một
công việc không ít khó khăn. Bởi lẽ các dân tộc rất đa dạng về mặt dân số, trình
độ phát triển xã hội không đồng đều nhau, điều kiên tự nhiên nơi các dân tộc anh
em cư trú lại rất khác nhau. Trong khi đó, mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại
hóa của Nhà nước ta đòi hỏi các dân tộc phải phát triển như nhau. Đây cũng
chính là nhân tố tác động đến việc hoạch định chính sách cũng như việc thực thi
các nhiệm vụ để hiện thực hóa chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của xã hội và là công cụ
tư duy của con người. Cho đến hiện nay và trong tương lai, không ai có thể phủ
nhận được vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển văn hóa của từng cá
nhân con người trong một tập thể, trong một dân tộc.
II. Phần nội dung
1. Vấn đề song ngữ ở Việt Nam
Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của xã hội con người. Mỗi một
cộng đồng xã hội hay dân tộc khác nhau có những hình thức giao tiếp khác nhau.
Có những dân tộc trong xã hội chỉ dùng một ngôn ngữ duy nhất để giao tiếp với
nhau. Trường hợp ấy người ta gọi là tình trạng đơn ngữ. Lại có những dân tộc
trong xã hội để giao tiếp với nhau người ta sử dụng nhiều hơn hai ngôn ngữ
trong sinh hoạt hàng ngày. Trường hợp ấy người ta gọi là tình trạng song ngữ.
Việt nam là một quốc gia đa dân tộc và là một địa bàn thu nhỏ của bức
tranh ngôn ngữ - văn hóa khu vực Đông Nam Á . Theo tài liệu số 121 – TCTK
của Tổng cục thống kê ngày 2 – 3 – 1979, nước Việt Nam có 54 dân tộc gồm dân
tộc Kinh (Việt) và 53 dân tộc thiểu số khác. Như vậy Việt Nam là một quốc gia
đa dân tộc. Các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú từ Bắc vào Nam, ở miền núi,
trung du và đồng bằng tạo thành một bức tranh đa dạng và phức tạp về địa vực
cư trú.Ngoại trừ cộng đồng người Việt là một cộng đồng đơn ngữ thì có thể nói
tất cả các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam đều là những cộng đồng song


ngữ. Ngoài tiếng mẹ đẻ của mình được sử dụng trong những môi trường nhất
định, dân tộc thiểu số còn dùng tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia
throng những môi trường khác. Ngoài ra có những dân tộc, bên cạnh tiếng mẹ
đẻ, tiếng Việt lại có thể sử dụng những ngôn ngữ khác nữa trong một vài môi
trường giao tiếp nào đó. Trong tình hình như vậy, việc nghiên cứu ngôn ngữ các
dân tộc thiểu số ở nước ta không thể không chú ý tới vấn đề giao tiếp song ngữ.
Có những cộng đồng song ngữ, ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ của cộng
đồng ấy. Ở đây tiếng mẹ đẻ được dùng phổ biến ở quê hương, vùng lãnh thổ mà
cộng đồng song ngữ ấy sinh sống. Tuy nhiên do một điều kiên nào đó, cộng
đồng này phải sử dụng thêm một ngôn ngữ thứ hai không phải tiếng mẹ đẻ để
làm công cụ giao tiếp. Việc cần phải sử dụng ngôn ngữ thứ hai có thể là do tiếng
mẹ không thỏa mãn yêu cầu phát triển tư duy, yêu cầu giao tiếp ở một không
gian lớn hơn…Trong trường hợp này ngôn ngữ thứ hai có tác dụng tích cực bổ
sung cho ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó có những cộng đồng
song ngữ mà mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ với ngôn ngữ thứ hai không như vậy.
Ở đây ngôn ngữ thứ nhất không phải tiếng mẹ đẻ. Các cá nhân song ngữ không
thể sử dụng tiếng mẹ đẻ làm công cụ giao tiếp thường xuyên và rộng rãi trong xã
hội. Ngược lại ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ lại trở thanhf ngôn ngữ thứ
nhất, đóng vai trò là công cụ giao tiếp chính của cộng đồng hay cá thể người này.
Ở một khía cạnh khác người ta còn nói đến một trạng thái nữa là trạng thái song
ngữ tự nhiên. Ở trạng thái này các thành viên trong cộng đồng song ngữ tuy sử
dụng tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ thứ nhất nhưng trình độ sử dụng chủ yếu là ở dạng
nói mà chưa sử dụng ở dạng viết, trình độ năm bắt và sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa
ở trình độ hoàn chỉnh. Đồng thời ngôn ngữ thứ hai mà họ sử dụng cũng ở trình
độ thấp. Nếu xem xét ở địa bàn các dân tộc thiểu số nước ta, hình như phần lớn
cộng đồng song ngữ đang ở trạng thái tự nhiên này. Các dân tộc ở Bắc Trung Bộ
cũng thuộc trạng thái đó.
2. Khái quát về vùng Bắc Trung Bộ
2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội ở Bắc Trung Bộ
Bắc Trung Bộ là phần phía bắc của Trung Bộ Việt Nam có địa bàn từ Nam

dãy núi Tam Điệp tới Bắc đèo Hải Vân gồm sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An. Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế.
Vùng Bắc Trung Bộ nằm kề bên vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng KTTĐ miền
Trung, trên trục giao thông Bắc Nam về đường sắt, bộ; nhiều đường ô tô hướng
Đông Tây (7,8,9,29) nối Lào với Biển Đông. Có hệ thống sân bay (Vinh, Đồng
Hới, Phú Bài), bến cảng (Nghi Sơn, Cửa Lò, Cửa Hội, Vũng Ánh, Sơn Dương,
Cửa Gianh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Thuận An, Chân Mây...)có các đầm phá thuận lợi
cho việc nuôi trồng thủy hải sản,là trung tâm du lịch quan trọng của đất
nước(động Phong Nha-KẻBàng,Cố đô Huế.v.v.)tạo điều kiện cho viêc giao lưu
kinh tế giữa VN và các nước Lào,MianMa.v.v..
Lãnh thổ kéo dài, hành lang hẹp, Tây giáp Trường Sơn và Lào, phía Đông
là biển Đông(Vịnh Bắc Bộ)cả rung du và miền núi, hải đảo dọc suốt lãnh thổ, có
thể hình thành cơ cấu kinh tế đang dạng phong phú. Địa hình phân dị phức tạp,
thời tiết khắc nghiệt, nhiều biến động, cần phải lợi dụng hợp lí. Nhiều vũng nước
sâu và cửa sông có thể hình thành cảng lớn nhỏ phục vụ việc giao lưu trao đổi
hàng hoá giữa các tỉnh trong vùng, với các vùng trong nước và quốc tế.
Bắc Trung Bộ là nơi cư trú của 12 dân tộc khác nhau (Thái, Mường, Tày,
Mông, Bru-nây Kiều...) sống ở Trường Sơn. Phân bố không đều từ đông sang
tây. Người Kinh sinh sống chủ yếu ở đồng bằng ven biển.
Bắc Trung Bộ có nhiều khoáng sản quý , đặc biệt là đá vôi nên có điều
kiện phát triển ngành khai thác khoáng và sản xuất vật liệu xây dưng . Đây là
ngành quan trọng nhất của vùng.
Ngoài ra vùng còn có các ngành khác như chế biến gỗ , cơ khí , dệt may ,
chế biến thực phẩm . Phân bố không đồng đều . Các trung tâm có nhiều ngành
công nghiệp : Thanh Hóa , Vinh , Huế với qui mô vừa và nhỏ.
Cơ sở hạ tầng , công nghệ , máy móc , nhiên liệu cũng đang được cải thiện
. Cung ứng được nhiên liệu , năng lượng.
Bắc Trung Bộ có rất nhiều cửa khẩu biên giới giữa Việt - Lào :Nậm Cắn ,
Cầu Treo , Cha Lo , Lao Bảo.
Có bờ biển dài tạo điều kiện cho các tàu buôn hàng hóa nước ngoài xuất

nhập khẩu và các tàu chở khách du lịch nước ngoài vào nước ta .
Du lịch đang trên đà phát triển . Số lượng khách du lịch đang tăng lên mỗi
ngày nhiều.
Theo hệ thống phân vùng địa lí Việt Nam, Bắc Trung Bộ là khu vực
chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Nam Trung Bộ. Lịch sử cho thấy cư dân nơi đây có
nguồn gốc chủ yếu là người Thanh- Nghệ- Tĩnh thiên di vào Bình Trị Thiên từ
thời Lý- Trần- Lê. Do đó, mối quan hệ của người Việt nơi đây liên quan, gắn bó
với các sinh hoạt văn hoá dân gian nói chung.
2.2. Cảnh huống ở Bắc Trung Bộ
Bắc Trung Bộ là một vùng đất rộng lớn có lịch sử từ rất lâu đời bao gồm
sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế. Đây là
địa bàn cư trú của 12 dân tộc thiểu số: Thái, Mường, Mông, Dao, Thổ, Khơ Mú,
Bru – Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi, Lào, Chứt, Ơ Đu. Người Kinh sống chủ yếu ở
đồng bằng ven biển và chiếm một số lượng lớn. Nên tiếng Việt có vai trò quan
trọng nhất đôí với sự phát triển xã hội. Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng
chung cho tất cả các dân tộc thiểu số ở Bắc Trung Bộ. Họ chỉ dùng tiếng mẹ đẻ
khi sinh hoạt trong cộng đồng dân tộc của họ, còn khi giao tiếp với xã hội, đa
phần đồng bào dân tộc thiểu số ở đây đều dùng tiếng Việt.
Ở Bắc Trung Bộ, bên cạnh những cộng đồng ngừơi Kinh sinh sống khá
đông đúc thì còn có những cộng đồng dân tộc thiểu số có trình độ kinh tế xã hội
phát triển khá mạnh. Đáng chú ý nhất là hai dân tộc Thái và Mường.
Về tiếng Thái, đây là dân tộc thiểu số đông thứ hai ở Việt Nam (1040549 -
số liệu điều tra 1999) sau dân tộc Tày (1477514 - số liệu điều tra năm 1999).
Ngưòi Thái tại Bắc Trung Bộ đang sống tập trung ở miền Tây Thanh Hoá
(117836 người) , Nghệ An ( 213604 người) . Ở Việt Nam, người Thái có tên gọi
chính thức là Thái, nhưng tên tự gọi của họ là Táy / Tãy. Tuỳ thuộc vào từng địa
danh cụ thể, nguời Thái có tên gọi khác nhau. Ở Thanh Hoá ngươì Thái chia làm
hai nhóm có tên gọi là Tãy Do và Tãy Đeng (Thái Đỏ) nhưng đồng bào vẫn lờ
mờ nghĩ rằng mình là người Tãy dón. Riêng ở Nghệ An, việc chia thành đen hay
trắng không còn ý nghĩ mà họ chia thành ba nhóm Tãy Hàng Tổng/ Tãy Mường (

Thái hàng Tổng / Thái Mường), Tãy Thanh / Man Thanh (Thái Thanh / thái Man
Thanh) và Tãy Mươi (Tày Mười). Đôi khi nhóm Thái Hàng Tổng ở Quỳ Châu -
Nghệ An cũng tự nhận mình là Tãy Do. Người Thái có Một nền văn hoá dân tộc
phong phú và đa dạng. Họ không chỉ có chữ viết cổ mà còn có nhiều kiểu chữ

×