Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Kiểm toán bài giảng, giáo trình dành cho sinh viên đại học, cao đẳng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.05 KB, 100 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA KINH TẾ

BÀI GIẢNG MÔN:

KIỂM TOÁN
(Dùng cho đào tạo tín chỉ)

Người biên soạn: Th.S Trần Mai Lâm Ái

Lưu hành nội bộ - Năm 2015
-1-


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN
Kiểm toán lần đầu xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên và ngày
càng phát triển. Ngày nay, kiểm toán đã trở thành hoạt động quan trọng trong quản
lý nói chung và quản trị doanh nghiệp nói riêng. Cùng với sự phát triển không
ngừng của nền kinh tế, xu hướng hội nhập và sự biến động phức tạp của môi trường
kinh doanh, kiểm toán trở thành phương sách quản lý hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp, kiểm toán không những đáp ứng được yêu cầu quản trị nội bộ, mà còn đáp
ứng yêu cầu của Nhà nước và người sử dụng thông tin thông tin Báo cáo tài chính
bên ngoài. Chương 1 giúp người học có cái nhìn tổng quát về kiểm toán, chương
này trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về kiểm toán như khái niệm
kiểm toán, chức năng của kiểm toán, ý nghĩa của kiểm toán trong nền kinh tế, các
cách phân loại kiểm toán, chuẩn mực kiểm toán, tiêu chuẩn, trách nhiệm và quyền
lợi của kiểm toán viên.
1.1 Khái niệm kiểm toán
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán
1.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán trên thế giới
Quá trình phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của con người luôn đòi


hỏi phải có hoạt động quản lý. Có thể hiểu quản lý là quá trình định hướng và tổ
chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở những nguồn lực nhằm đạt hiệu quả
cao nhất. Trong quá trình quản lý, kiểm tra là một việc không thể thiếu để giúp cho
quá trình quản lý được thực hiện tốt.
Trong tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của con người luôn tồn tại
hoạt động tài chính, nó gắn liền với mọi hoạt động không phân biệt mục tiêu (Kinh
doanh hay sự nghiệp công cộng), không phân biệt lĩnh vực (Sản xuất hay dịch vụ),
không phân biệt sở hữu (Nhà nước hay tư nhân) và đây là hoạt động đòi hỏi sự kiểm
tra ở mức độ cao nhất.
Nhu cầu kiểm tra hoạt động tài chính trước hết được thực hiện bởi kế toán tài
chính: Đó là hệ thống thông tin và kiểm tra tình hình tài sản bằng các phương pháp
chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá và tổng hợp, cân đối kế toán. Một trong những

-2-


đặc điểm cơ bản của kế toán là gắn chặt hai chức năng thông tin và chức năng kiểm
tra không chỉ trên chu trình kế toán mà ngay trên từng yếu tố của chu trình đó.
Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động tự kiểm tra của kế toán cũng đáp
ứng được yêu cầu của quản lý. Có thời kỳ đòi hỏi phải có sự kiểm tra ngoài kế toán
do sự kiểm tra của kế toán đã bộc lộ những điểm yếu so với yêu cầu quản lý và từ
đó mầm mống của kiểm toán, bước đầu có thể hiểu là kiểm tra độc lập về kế toán đã
xuất hiện.
Kiểm tra độc lập đã xuất hiện trước hết là ở La Mã, Pháp và Anh.
Ở La Mã, vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, các nhà cầm quyền đã tuyển
dụng những quan chức có chuyên môn và độc lập kiểm tra các báo cáo của người
quản lý về tình hình tài sản của họ và đưa ra ý kiến chấp nhận hoặc yêu cầu sửa đổi
báo cáo này.
Ở Pháp, vua Charlemagne (768 – 814) cũng theo tiền lệ của La Mã đã tuyển
các quan chức cao cấp phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là các nghiệp

vụ tài chính của các quan chức địa phương và trình bày kết quả lại với Hoàng đế
hoặc các vị cận thần.
Ở Anh, theo văn kiện của Nghị viện, vua Edouard đệ nhất cho các Nam tước
quyền tuyển dụng kiểm toán viên (Auditors). Bản thân vua cũng đối chiếu lại các tài
khoản thuộc di chúc của cố Hoàng hậu Elonor của Ngài.
Đặc biệt từ thế kỷ XVI trở đi, với sự xuất hiện của kế toán kép đã khiến
phương pháp tự kiểm tra của kế toán ngày càng hoàn thiện hơn, đã đáp ứng đủ yêu
cầu quản lý và an toàn tài sản thời bấy giờ. Tiếp đó, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX,
các phương pháp kế toán và kỹ thuật thông tin phát triển đến mức tinh xảo đã đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu quản lý.
1.1.1.2 Quá trình phát triển của hoạt động kiểm toán ở nước ta
Ở Việt Nam, kiểm toán nói chung cũng như kiểm tra kế toán nói riêng cũng
đã được quan tâm ngay từ thời kỳ bắt đầu xây dựng đất nước. Trong cơ chế kế
hoạch hóa tập trung công tác kiểm tra và bộ máy kiểm tra cũng được tổ chức phù

-3-


hợp với cơ chế này. Kiểm tra của Nhà Nước chủ yếu được thực hiện thông qua xét
duyệt hoàn thành kế hoạch, xét duyệt quyết toán và thanh tra theo vụ việc.
Khi chuyển sang quản lý kinh tế theo cơ chế kinh tế thị trường, cơ chế duyệt
quyết toán tỏ ra không còn phù hợp nữa. Trước hết đối tượng quan tâm đến thông
tin tài chính không chỉ có Nhà Nước mà còn có các chủ doanh nghiệp, thành viên
hội đồng quản trị, nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp,...Tuy từ nhiều góc độ khác
nhau nhưng tất cả các đối tượng này đều có nguyện vọng chung là được sử dụng các
thông tin có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực. Vì vậy, cần phải có một tổ chức
độc lập, khách quan tiến hành kiểm tra các thông tin này để đáp ứng yêu cầu của
nhiều đối tuợng sử dụng thông tin, đó chính là tổ chức kiểm toán.
1.1.2 Khái niệm kiểm toán
Trên thực tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán, mỗi một

người, mỗi một tổ chức lại có quan điểm khác nhau về kiểm toán và ở mỗi thời
điểm khác nhau người ta có những quan điểm khác nhau về kiểm toán. Theo quan
điểm hiện đại là khái niệm do Uỷ ban về các khái niệm kiểm toán đưa ra:
“Kiểm toán là quá trình có tính hệ thống nhằm thu thập và đánh giá bằng
chứng các thông tin về hoạt động kinh tế và các sự kiện được kiểm tra, để xác định
về mức độ phù hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập và
báo cáo kết quả cho những người quan tâm. Quá trình kiểm toán phải được thực
hiện bởi các kiểm toán viên đủ năng lực và độc lập.”
* Các thuật ngữ trong định nghĩa nêu trên được hiểu như sau:
Thông tin được kiểm tra có thể là Báo cáo tài chính của các Doanh nghiệp,
quyết toán ngân sách của các cơ quan nhà nước... kết quả kiểm toán sẽ giúp cho
người sử dụng đánh giá độ tin cậy của các thông tin này.
Các chuẩn mực được thiết lập là cơ sở để đánh giá các thông tin được kiểm
tra, chúng thay đổi tuỳ theo thông tin được kiểm tra.
Bằng chứng kiểm toán là các thông tin để chứng minh cho ý kiến nhận xét
của kiểm toán viên. Đó có thể là các tài liệu kế toán của đơn vị, hoặc chứng cứ riêng
của kiểm toán viên.

-4-


Báo cáo kiểm toán là văn bản trình bày ý kiến của kiểm toán viên về sự phù
hợp giữa thông tin được kiểm tra và chuẩn mực đã được thiết lập. Nội dung và hình
thức báo cáo phụ thuộc vào mục đích của từng loại kiểm toán.
Kiểm toán viên phải có đủ năng lực và độc lập: Năng lực của kiểm toán viên
là trình độ nghiệp vụ được hình thành qua đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm, giúp cho
kiểm toán viên có khả năng xét đoán công việc trong từng trường hợp cụ thể. Còn
sự độc lập với đơn vị được kiểm toán là yêu cầu cần thiết để duy trì sự khách quan
của kiểm toán viên và tạo được sự tin cậy của người sử dụng kết quả kiểm toán.
1.1.3 Bản chất của kiểm toán

Kiểm toán là hoạt động độc lập, chức năng cơ bản của kiểm toán là xác
minh, thuyết phục để tạo niềm tin cho những người quan tâm vào những kết luận
kiểm toán cho dù những kết luận này hướng vào mục tiêu cụ thể khác nhau như tính
trung thực của thông tin, tính quy tắc trong việc thực hiện nghiệp vụ, tính hiệu quả
hay tính hiệu năng của hoạt động. Qua xác minh kiểm toán viên bày tỏ ý kiến của
mình về những lĩnh vực tương ứng, chức năng này quyết định sự tồn tại của hoạt
động kiểm toán.
Với bản chất và chức năng trên, kiểm toán phải thực hiện mọi hoạt động,
kiểm tra, kiểm soát những vấn đề có liên quan đến thực trạng tài chính kể cả thực
trạng tài sản.
1.2 Chức năng của kiểm toán

1.2.1 Chức năng xác minh
Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu và tính
pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bản khai tài chính.
Xác minh là chức năng cơ bản nhất gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát
triển của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển và
được thể hiện khác nhau tuỳ đối tượng cụ thể của kiểm toán là bản khai tài chính
hay nghiệp vụ kinh tế cụ thể hoặc toàn bộ tài liệu kế toán.
Cho đến nay, do quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp và yêu cầu pháp lý ngày
càng cao nên việc xác minh Báo cáo tài chính cần có hai mặt:

-5-


- Tính trung thực của các con số.
- Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính.
Ngày nay theo chuẩn mực của kiểm toán tài chính, chức năng xác minh này
không chỉ còn biểu hiện bằng chữ “chứng thực” nữa mà chuyển hoá thành “Báo cáo
kiểm toán” với các loại ý kiến thích ứng với từng tình huống khác nhau.

Đối với các thông tin đã được lượng hoá thì thông thường việc xác minh
được thực hiện trước hết qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết quả cuối cùng sau khi
đã xác minh được điều chỉnh trực tiếp để có hệ thống thông tin tin cậy và lập các
Báo cáo tài chính.
Đối với kiểm toán hoạt động, cũng qua lịch sử phát triển lâu dài. Lúc đầu các
nghiệp vụ được giới hạn ở hoạt động tài chính. Ở hoạt động này, tuỳ theo phạm vi ở
mức độ hệ trọng của nghiệp vụ, chức năng xác minh của kiểm toán có thể được thực
hiện bởi hệ thống nội kiểm hay ngoại kiểm. Sản phẩm của hoạt động xác minh này
thường là những biên bản (Biên bản xử lý sai phạm, biên bản thanh tra các vụ việc
cụ thể, biên bản kiểm kê,...). Mãi tới cuối thế kỷ XX, kiểm toán hoạt động mới được
mở rộng ở lĩnh vực hiệu năng và hiệu quả hoạt động. Ở lĩnh vực này kiểm toán
hướng nhiều vào việc thực hiện chức năng thứ hai là “bày tỏ ý kiến”.
1.2.2 Chức năng bày tỏ ý kiến
Chức năng bày tỏ ý kiến cũng có quá trình phát triển lâu dài song sản phẩm cụ
thể chỉ thấy rõ ở thời kỳ phát triển của kiểm toán chủ yếu vào cuối thế kỷ XX. Tuy
nhiên, cách thức thực hiện chức năng này ở các khách thể kiểm toán cũng như giữa
các nước có cơ sở kinh tế và pháp lý khác nhau.
Ở khu vực công cộng (bao gồm cả các xí nghiệp công, các đơn vị sự nghiệp
và các cá nhân thụ hưởng ngân sách Nhà nước) đều có sự kiểm soát của Nhà nước.
Trong quan hệ này, chức năng xác minh của kiểm toán được thực hiện tương tự
nhau. Tuy nhiên, chức năng bày tỏ ý kiến lại rất khác nhau.
Ở các nước Tây Âu, rõ nét nhất là ở Pháp và Cộng hoà liên bang Đức cơ
quan kiểm toán Nhà nước có quyền kiểm tra các tài liệu và tình hình quản lý của
các tổ chức sử dụng ngân sách Nhà nước để xác minh tính chính xác và hợp lệ của

-6-


tài liệu thu chi và quản lý ngân sách. Đồng thời các cơ quan này cũng có quyền xét
xử như một quan toà bằng các phán quyết của mình.

Khác với các nước Tây Âu, ở các nước Bắc Mỹ và nhiều nước ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương (đặc biệt là ở Australia và Singapore) chức năng “bày
tỏ ý kiến” lại thực hiện bằng phương thức “Tư vấn”. Hoạt động tư vấn này trước hết
và chủ yếu trong lĩnh vực nguồn thu và sử dụng công quỹ. Ngoài ra chức năng tư
vấn còn bao hàm cả việc phác thảo và xem xét những dự kiến về luật trước khi đưa
ra Quốc hội.
Ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài khách thể bắt buộc của kiểm
toán Nhà nước thường là khách thể của kiểm toán độc lập. Ở đây chức năng bày tỏ
ý kiến cũng được thực hiện qua phương thức tư vấn. Tuy nhiên, do khách thể chủ
yếu là các doanh nghiệp nên chức năng tư vấn chủ yếu được biểu hiện dưới hình
thức các lời khuyên hoặc các dự án. Do đó, trong trường hợp này nếu sản phẩm của
chức năng tư vấn là Báo cáo kiểm toán thì sản phẩm của chức năng bày tỏ ý kiến là
Thư quản lý. Vấn đề này sẽ được đề cập cụ thể hơn trong phần kiểm toán tài chính.
Ngoài chức năng tư vấn cho quản trị doanh nghiệp, ngày nay các công ty
kiểm toán chuyên nghệp còn phát triển chức năng tư vấn của mình trong nhiều lĩnh
vực chuyên sâu đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính như tư vấn về đầu tư, tư vấn về
thuế,...
1.2.3 Chức năng tư vấn
Chức năng tư vấn thực chất là chức năng bày tỏ ý kiến. Chức năng tư vấn
của kiểm toán có quá trình phát triển lâu dài. Báo cáo kiểm toán, đưa ra những nhận
xét, kết luận về những nội dung đã được kiểm toán và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về các nhận xét, kiến nghị của mình. Việc công bố các kết quả kiểm toán,
công khai hoá kết quả kiểm toán được xem như một phần chức năng của kiểm toán.
Trước đây khi chỉ có chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, báo cáo kiểm toán đơn
thuần chỉ là kết luận những nội dung của kiểm toán. Ngày nay khi kiểm toán đã
được phát triển, chức năng tư vấn đã được đưa vào trong báo cáo kiểm toán, ngoài
phần xác nhận hoặc chỉ ra các sai lệch, những vi phạm pháp luật… còn đưa ra
những khuyến nghị, biện pháp để sửa chữa khắc phục những sai sót vi phạm và
-7-



ngăn chặn không cho chúng lặp lại trong tương lai. Ngày nay các công ty kiểm toán
chuyên nghiệp còn phát triển chức năng tư vấn của mình trong nhiều lĩnh vực
chuyên sâu đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính như tư vấn đầu tư, tư vấn về thuế…
Chức năng tư vấn của kiểm toán được thể hiện trong cả lĩnh vực kiểm toán nhà
nước và kiểm toán độc lập.
1.3 Ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán
Ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán thể hiện chủ yếu trên các mặt sau:
- Kiểm toán tạo niềm tin cho những người sử dụng thông tin tài chính của
doanh nghiệp. Đây là cơ sở để tạo nên môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư
lành mạnh, phục vụ cho việc quản lý doanh nghiệp một cách hiệu quả, cũng như tạo
cơ sở vững chắc cho cả sự can thiệp trực tiếp lẫn quản lý gián tiếp của Nhà nước đối
với doanh nghiệp.
- Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động tài
chính kế toán nói riêng và hoạt động của đơn vị được kiểm toán nói chung.
- Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Kiểm toán
không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư vấn. Có thể thấy rõ chức
năng tư vấn trong thời gian gần đây với sự nảy sinh của kiểm toán hiệu năng và
hiệu quả quản lý. Chức năng này phát huy tác dụng rất lớn đối với các đơn vị được
kiểm toán thường xuyên.
Với ý nghĩa to lớn như vậy, sự phát triển của kiểm toán ở nước ta sẽ giúp
tăng cường hiệu quả của công tác quản lý kinh tế, góp phần vào sự nghiệp đổi mới
hệ thống công cụ quản lý, nền hành chính quốc gia.
Do đó, ngày 13/5/1991, Bộ tài chính đã ký 2 quyết định thành lập 2 công ty:
Công ty kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là VACO, và công ty dịch vụ kế toán
Việt Nam với tên giao dịch là ASC, sau đó đổi tên thành Công ty dịch vụ tư vấn tài
chính, kế toán, kiểm toán AASC (14/9/1993). Cho đến nay số lượng công ty kiểm
toán đã tăng lên đáng kể và loại hình công ty cũng đa dạng hơn (Công ty TNHH,
CP, 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, …). Vào cuối năm 2008, số lượng
các công ty đăng ký hành nghề kiểm toán tại Việt Nam là 136 công ty, nhưng sau


-8-


quý II/2009, đã lên tới con số 175, năm 2012 lên gần 300 cty, trong đó có 4 công ty
100% vốn nước ngoài và 2 công ty liên doanh. Cùng với sự phát triển của kiểm toán
độc lập, kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo NĐ số 70/CP ngày
11/7/1994 của chính phủ và đến ngày 13/8/2003 được thay thế bằng NĐ số
93/2003/NĐ-CP. Đồng thời kiểm toán nội bộ đã được thành lập ở các DN có quy
mô lớn ở Việt Nam.
1.4 Các loại kiểm toán
1.4.1 Phân loại kiểm toán theo chức năng
Căn cứ theo chức năng kiểm toán, có thể chia công việc kiểm toán thành 3
loại là kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ
1.4.1.1 Kiểm toán Báo cáo tài chính
Kiểm toán Báo cáo tài chính là sự kiểm tra và trình bày ý kiến nhận xét về
những Báo cáo tài chính của một đơn vị.
Kiểm toán Báo cáo tài chính lấy các Chuẩn mực kế toán, kiểm toán hay chế
độ kế toán hiện hành làm thước đo chủ yếu. Các Báo cáo tài chính được kiểm toán
phổ biến nhất là Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh Báo cáo tài chính.
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, hiện nay việc kiểm toán Báo cáo tài
chính do các kiểm toán viên độc lập của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thực
hiện. Kết quả kiểm toán để phục vụ cho đơn vị được kiểm toán, Nhà nước và người
thứ ba, trong đó chủ yếu là cho các nhà đầu tư, ngân hàng, người bán...
Tuy nhiên, chủ thể tiến hành kiểm toán Báo cáo tài chính có thể khác nhau
tuỳ theo từng trường hợp. Thông thường, các đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước
cấp thì báo cáo tài chính sẽ do cơ quan kiểm toán Nhà nước thực hiện. Các trường
hợp còn lại, do nhiều phía khác nhau quan tâm đến báo cáo tài chính nên chủ thể
kiểm toán thích hợp là kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp trên,

nếu mục đích kiểm toán chỉ nhằm phục vụ cho các nhà quản lý của đơn vị được
kiểm toán thì việc kiểm toán báo cáo tài chính có thể do kiểm toán nội bộ của đơn
vị thực hiện.

-9-


Như vậy, kiểm toán Báo cáo tài chính có thể do kiểm toán viên độc lập, kiểm
toán viên Nhà nước hoặc kiểm toán nội bộ tiến hành.
1.4.1.2 Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm xem xét và đánh giá về hiệu lực
và hiệu quả của quá trình hoạt động của một đơn vị được kiểm toán, trên cơ sở đó
đề xuất các ý kiến cải tiến với nhà quản trị để nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả của
đơn vị được kiểm toán. Hiệu lực được hiểu là khả năng hoàn thành các nhiệm vụ và
mục tiêu đề ra của đơn vị. Hiệu quả được hiểu là kết quả đạt được cao nhất với chi
phí bỏ ra thấp nhất.
Kiểm toán hoạt động được tiến hành trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó
không thể xác định rõ được chuẩn mực chung nào cho kiểm toán hoạt động. Kiểm
toán viên có thể đánh giá hiệu quả của một phương án kinh doanh, một dây chuyền
công nghệ, một quyết định mua sắm mới tài sản cố định, một cơ cấu tổ chức...
Trong kiểm toán hoạt động việc xem xét, đánh giá không bị giới hạn trong phạm vi
của công tác kiểm toán. Kiểm toán hoạt động cũng có thể tiến hành xem xét và đánh
giá về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị được kiểm toán, đánh giá về hoạt
động của các máy vi tính, về phương pháp sản xuất, tiếp thị và bất kỳ lĩnh vực nào
khác mà kiểm toán viên có thể tiến hành.
Kiểm toán hoạt động thường do kiểm toán nội bộ tiến hành, nhưng cũng có
thể do kiểm toán viên Nhà nước hay kiểm toán viên độc lập tiến hành. Kết quả kiểm
toán hoạt động chủ yếu để phục vụ cho lợi ích của đơn vị được kiểm toán.
1.4.1.3 Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là việc kiểm tra nhằm đánh giá mức độ chấp hành luật

pháp, các chính sách, chế độ tài chính kế toán của đơn vị được kiểm toán. Ví dụ như
kiểm toán của cơ quan thuế đối với chấp hành các luật thuế của doanh nghiệp; kiểm
toán của các cơ quan chức năng của Nhà nước về việc chấp hành luật lao động, về
chế độ tiền lương tối thiểu, về bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp tư nhân hay
kiểm toán của cơ quan Nhà nước đối các đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước;

- 10 -


kiểm toán của ngân hàng về việc chấp hành điều khoản tín dụng đối các đơn vị sử
dụng vốn vay ngân hàng.
Chuẩn mực dùng để đánh giá là những văn bản có liên quan, ví dụ như Luật
thuế, các văn bản pháp quy, các nội quy, các hợp đồng...
Kiểm toán tuân thủ có thể được tiến hành bởi các kiểm toán viên nội bộ,
kiểm toán viên Nhà nước hoặc kiểm toán viên độc lập.
Báo cáo kết quả kiểm toán tuân thủ được sử dụng để phục vụ cho các cấp
thẩm quyền có liên quan.
1.4.2 Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán
Theo chủ thể kiểm toán, người ta chia kiểm toán thành 3 loại: Kiểm toán nhà
nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ.
1.4.2.1 Kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán Nhà nước là công việc kiểm toán do cơ quan chuyên trách của
Nhà nước tiến hành nhằm thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận và đánh giá về
tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các
cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn
thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp.
Phạm vi thực hiện của kiểm toán Nhà nước là kiểm toán các báo cáo quyết
toán hoặc Báo cáo tài chính; là kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động đối với
các cơ quan, đơn vị và tổ chức nói trên.
Về mô hình tổ chức, tùy theo đặc điểm và điều kiện của mỗi nước, cơ quan

kiểm toán Nhà nước có thể trực thuộc Chính phủ, Quốc hội hoặc độc lập.
Ở Việt Nam hiện nay kiểm toán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Chính phủ với
nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số
liệu kế toán, Báo cáo tài chính của cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các
chương trình, dự án, công trình đầu tư của Nhà nước và thông qua hoạt động kiểm
toán góp ý kiến với các đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai phạm để chấn
chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị hoặc kiến nghị với cấp có thẩm
quyền xử lý những sai phạm chế độ tài chính.

- 11 -


1.4.2.2 Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập là công việc kiểm toán được các kiểm toán viên độc lập
của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp độc lập hoàn toàn với người cung cấp
thông tin lẫn người sử dụng thông tin, tiến hành theo yêu cầu của khách hàng (như
các doanh nghiệp, các cơ quan... ). Hoạt động kiểm toán độc lập nhằm mục đích xác
minh tính đúng đắn, trung thực và hợp lý của các số liệu, tài liệu kế toán, các Báo
cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán đồng thời trên cơ sở đó, trình bày các ý
kiến hoặc đưa ra những kết luận đánh giá về việc tuân thủ pháp luật, chính sách, chế
độ tài chính kế toán và hiệu quả hoạt động của đơn vị được kiểm toán.
Phạm vi thực hiện kiểm toán độc lập chủ yếu là kiểm toán Báo cáo tài chính.
Tuy nhiên theo yêu cầu của khách hàng, kiểm toán độc lập còn có thể thực hiện
kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và nhất là thực hiện các dịch vụ tư vấn tài
chính kế toán khác
Kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay hoạt động theo quy chế về kiểm toán
độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành theo Nghị định số 105/2004/NĐ-CP
ngày 30-03-2004 của Chính phủ.
1.4.2.3 Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là công việc thường xuyên của một tổ chức, do tổ chức đó

tự tổ chức thực hiện nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh
tế, tài chính; về sự an toàn tài sản; về sự chấp hành pháp luật, chính sách chế độ của
Nhà nước, cũng như những quyết định, nghị quyết của tổ chức cấp trên, của Hội
đồng quản trị, của thủ trưởng đơn vị, của Ban giám đốc với hoạt động của tổ chức,
phục vụ chủ yếu cho tổ chức đó.
Phạm vi thực hiện của kiểm toán nội bộ là kiểm toán các Báo cáo tài chính,
báo cáo kế toán quản trị; kiểm toán sự tuân thủ và kiểm toán hoạt động của đơn vị.
Với chức năng kiểm tra, xác nhận, đánh giá hay trình bày ý kiến, kiểm toán nội
bộ có nhiệm vụ kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát
nội bộ; kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính
trong Báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị; kiểm tra sự tuân thủ các nguyên
tắc hoạt động, nguyên tắc quản lý kinh doanh, nhất là sự tuân thủ pháp luật, chính
- 12 -


sách, chế độ tài chính kế toán, quyết định, nghị quyết, quy chế của cấp trên, của hội
đồng quản trị, của thủ trưởng, giám đốc đơn vị; phát hiện những sơ hở, yếu kém, sai
phạm trong quản lý, trong bảo vệ và sử dụng tài sản của tổ chức, đồng thời đề xuất
các kiến nghị và giải pháp xử lý nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý, điều
hành hoạt động, điều hành kinh doanh của đơn vị.
Để có thể hoạt động một cách hữu hiệu, bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ
chức độc lập với các bộ phận khác trong một đơn vị, nhưng vì bộ phận này bao gồm
những thành viên là những nhân viên của đơn vị. Vì vậy, các báo cáo của kiểm toán
nội bộ được chủ doanh nghiệp rất tin tưởng nhưng ít có giá trị pháp lý với bên
ngoài.
1.5 Chuẩn mực kiểm toán
Chuẩn mực kiểm toán, hiểu theo nghĩa chung nhất là qui phạm pháp lý, là
thước đo (khuôn mẫu chuẩn mực) giống nhau cho những khách thể và chủ thể kiểm
toán khác nhau và được sử dụng để điều tiết các hành vi của kiểm toán viên và các
bên hữu quan theo hướng chủ đạo và mục tiêu xác định.

1.5.1 Chuẩn mực kiểm toán quốc tế
Để hướng dẫn, chỉ đạo cho việc soạn thảo và ban hành những chuẩn mực cụ
thể, Liên đoàn kế toán quốc tế (International federation of Accountants – IFAC) đã
soạn thảo và công bố các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế (International Auditing
guidelines – IAGS). Cho đến nay đã có 29 IAGS.
Mỗi văn bản chỉ đạo nói trên có thể là những hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể
(IAG 5, IAG7 ) hoặc hướng dẫn một chuyên mục cụ thể (IAG 4,6,8..) hoặc khái
quát những nguyên tắc theo một hệ thống xác định (IAG 3,13,19)....

- 13 -


1.5.2 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
Chuẩn mực kiểm toán là những quy định về các nguyên tắc cơ bản, các thủ
tục cần thiết bao gồm cả những giải thích, những hướng dẫn thể thức áp dụng các
nguyên tắc cơ bản, các thủ tục cần thiết mà kiểm toán viên độc lập và công ty kiểm
toán độc lập phải tuân thủ trong quá trình kiểm toán.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam: Từ thực tiễn của công tác thực hành kiểm
toán độc lập của mỗi nước; trên cơ sở của việc nghiên cứu các chuẩn mực kiểm toán
quốc tế; học tập kinh nghiệm của các nước trong khuôn khổ của luật pháp hiện
hành, phù hợp với yêu cầu quản lý, yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kế toán
kiểm toán của mỗi nước, đa số các quốc gia thường xây dựng riêng một hệ thống
chuẩn mực kiểm toán quốc gia và thường do các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp về kế
toán, kiểm toán của quốc gia đó biên soạn, phát hành và công bố sử dụng.
Ở Việt Nam, từ năm 1999 đến năm 2005, Bộ tài chính đã chủ trì biên soạn,
phát hành và công bố 7 đợt với 37 Chuẩn mực.
Các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam là những quy định làm mức thước, là cơ
sở cho kiểm toán viên độc lập và công ty kiểm toán độc lập kiểm tra, đánh giá các
thông tin tài chính và các thông tin khác một cách trung thực, khoa học, khách quan.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đồng thời cũng là cơ sở cho việc chỉ đạo, giám sát,

kiểm tra và đánh giá chất lượng dịch vụ kiểm toán, là cơ sở cho việc đào tạo, huấn
luyện thi tuyển kiểm toán viên tại Việt Nam.
Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã ban hành và công bố theo các
Quyết định và Thông tư số:
120/1999/QĐ-BTC ngày 27/09/1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
219/2000/QĐ-BTC ngày 29/12/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
143/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
28/2003/QĐ-BTC ngày 14/03/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
195/2003/QĐ-BTC ngày 28/11/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
03/2005/QĐ-BTC ngày 18/01/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
101/2005/QĐ-BTC ngày 29/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;

- 14 -


TT 214/2012/ TT – BTC ngày 06/12/2012 của Bộ Tài Chính
TT 67/2015/TT-BTC ngày 08/5/2015 của Bộ Tài Chính
Các chuẩn mực được ban hành và công bố theo các quyết định, thông tư nói trên có
thể sắp xếp, tổng hợp theo trình tự các nhóm có mã số quy định từ nhỏ đến lớn như
sau:
Chuẩn mực số

Tên chuẩn mực

Chuẩn mực

Kiểm soát chất lượng doanh nghiệp thực hiện kiểm toán,

kiểm soát chất


soát xét Báo cáo tài chính, dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ

lượng số 1
200

Ngày ban hành
18-01-2005
08-5-2015

liên quan khác (VSQC1)
Mục tiêu và các nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán Báo
cáo tài chính

27-09-1999

Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm
200

toán khi thực hiện kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán Việt

06-12-2012

Nam
Hợp đồng kiểm toán

27-09-1999

210
06-12-2012
Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán


14-03-2003

220
06-12-2012
Tài liệu, Hồ sơ kiểm toán

27-09-1999

230
06-12-2012

240

- Gian lận và sai sót

21-12-2001

- Trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến gian lận

06-12-2012

trong quá trình kiểm toán Báo cáo tài chính
250
260

Xem xét tính tuân thủ pháp luật và các quy định trong kiểm

29-12-2000


toán Báo cáo tài chính

06-12-2012

- Trao đổi các vấn đề quan trọng phát sinh khi kiểm toán với

29-12-2005

- 15 -


ban lãnh đạo đơn vị được kiểm toán
- Trao đổi các vấn đề với Ban quản trị đơn vị được kiểm

06-12-2012

toán
265

Trao đổi về những khiếm khuyết trong kiểm soát nội bộ với
Ban quản trị và Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán

06-12-2012

- Lập kế hoạch kiểm toán

21-12-2001

- Lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính


06-12-2012

Hiểu biết về tình hình kinh doanh

29-12-2000

300
310
315

Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua
hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn vị

06-12-2012

- Tính trọng yếu trong kiểm toán

14-03-2003

- Mức trọng yếu trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán

06-12-2012

- Thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro

29-12-2005

- Biện pháp xử lý của kiểm toán viên đối với rủi ro đã đánh

06-12-2012


320

330

giá
400

Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ

21-12-2001

401

Thực hiện kiểm toán trong môi trường tin học

28-11-2003

Các yếu tố cần xem xét khi kiểm toán đơn vị có sử dụng

29-12-2000

dịch vụ bên ngoài

06-12-2012

Đánh giá các sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán

06-12-2012


Bằng chứng kiểm toán

29-12-2000

402
450
500

06-12-2012
501
505

Bằng chứng kiểm toán bổ sung đối với các khoản mục và sự

14-03-2003

kiện đặt biệt

06-12-2012

Thông tin xác nhận từ bên ngoài

29-12-2005

- 16 -


06-12-2012
Kiểm toán năm đầu tiên – Số dư năm tài chính


29-12-2000

510
06-12-2012
- Quy trình phân tích

29-12-2000

- Thủ tục phân tích

06-12-2012

- Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác

21-12-2001

- Lấy mẫu kiểm toán

06-12-2012

- Kiểm toán các ước tính kế toán

21-12-2001

- Kiểm toán các ước tính kế toán (bao gồm ước tính kế toán

06-12-2012

520


530

540

về giá trị hợp lý và các thuyết minh liên quan)
545

Kiểm toán việc xác định và trình bày giá trị hợp lý

29-12-2005

Các bên liên quan

28-11-2003

550
06-12-2012
560

Các sự kiện phát sinh sau ngày khóa sổ lập Báo cáo tài

14-03-2003

chính

06-12-2012

Hoạt động liên tục

28-11-2003


570
06-12-2012
- Giải trình của giám đốc

29-12-2000

- Giải trình bằng văn bản

06-12-2012

- Sử dụng tư liệu của kiểm toán viên khác

14-03-2003

- Lưu ý khi kiểm toán Báo cáo tài chính tập đoàn (kể cả

06-12-2012

580

600

công việc của kiểm toán viên đơn vị thành viên)
- Sử dụng tư liệu của kiểm toán viên nội bộ

21-12-2001

- Sử dụng công việc của kiểm toán viên nội bộ


06-12-2012

Sử dụng tư liệu của chuyên gia

18-01-2005

610
620

- 17 -


06-12-2012

700

- Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính

27-09-1999

- Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán về Báo

06-12-2012

cáo tài chính
705
706

710


Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần

06-12-2012

Đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” và “Vấn đề khác” trong báo

06-12-2012

cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính
- Thông tin có tính so sánh

18-01-2005

- Thông tin so sánh - Dữ liệu tương ứng và Báo cáo tài chính

06-12-2012

so sánh
720

800

Những thông tin khác trong tài liệu có Báo cáo tài chính đã

18-01-2005

kiểm toán

06-12-2012


- Báo cáo kiểm toán về những công việc kiểm toán đặc biệt

28-11-2003

- Lưu ý khi kiểm toán Báo cáo tài chính được lập theo
khuôn khổ về lập và trình bày Báo cáo tài chính cho mục

06-12-2012

đích đặc biệt
Lưu ý khi kiểm toán Báo cáo tài chính riêng lẻ và khi kiểm
805

06-12-2012

toán các yếu tố, tài khoản hoặc khoản mục cụ thể của Báo
cáo tài chính

810

Dịch vụ báo cáo về Báo cáo tài chính tóm tắt

06-12-2012

910

Công tác soát xét Báo cáo tài chính

28-11-2003


Kiểm toán thông tin tài chính trên cơ sở các thủ tục thỏa

28-11-2003

920
930
1000

thuận trước
Dịch vụ tổng hợp thông tin tài chính

18-01-2005

Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành

18-01-2005
08/5/2015

- 18 -


1.6 Kiểm toán viên
1.6.1 Tiêu chuẩn
Tại hầu hết các quốc gia thông thường đều đòi hỏi một kiểm toán viên phải
có một trình độ chuyên môn và một phẩm chất đạo đức nhất định, và muốn hành
nghề kiểm toán thì các ứng viên phải đạt các tiêu chuẩn sau:
- Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp
hành pháp luật.
- Được đào tạo về kế toán ở một trình độ nhất định.
- Đã có kinh nghiệm thực tiễn về kiểm toán.

- Trúng tuyển một kỳ thi quốc gia về các kiến thức kế toán, kiểm toán và luật
kinh doanh.
1.6.2 Trách nhiệm của kiểm toán viên
- Chấp hành các nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập;
- Trong quá trình thực hiện dịch vụ, kiểm toán viên không được can thiệp vào
công việc của đơn vị đang được kiểm toán;
- Ký báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về hoạt động nghề nghiệp của
mình;
- Từ chối làm kiểm toán cho khách hàng nếu xét thấy không đủ năng lực
chuyên môn, không đủ điều kiện.
- Thường xuyên trao dồi kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp.
Thực hiện chương trình cập nhật kiến thức hàng năm theo quy định của Bộ Tài
chính.
1.6.3 Quyền hạn của kiểm toán viên
- Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ
- Được thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính và các dịch vụ của doanh nghiệp
kiểm toán.
- Yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp đầy đủ, kịp thời, tài liệu kế toán và
các tài liệu, thông tin khác có liên quan đến hợp đồng dịch vụ.

- 19 -


- Kiểm tra, xác nhận các thông tin kinh tế, tài chính có liên quan đến đơn vị
được kiểm toán ở trong và ngoài đơn vị. Đề nghị các đơn vị, cá nhân có thẩm quyền
giám định về mặt chuyên môn hoặc làm tư vấn khi cần thiết.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm kiểm toán? Kiểm toán có những chức năng nào?
2. Ý nghĩa của kiểm toán đối với doanh nghiệp và nền kinh tế?
3. Nội dung phân loại kiểm toán theo đối tượng cụ thể của kiểm toán và chủ

thể kiểm toán.
4. Chuẩn mực kiểm toán là gì? Hiện nay, có bao nhiêu chuẩn mực trong hệ
thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
5. Trình bày tiêu chuẩn kiểm toán viên, kiểm toán viên có những quyền lợi và
trách nhiệm gì?

TỰ HỌC
1. Phân loại kiểm toán theo tính chất pháp lý thì kiểm toán phân thành 2 loại,
kiểm toán tự nguyện và kiểm toán bắt buộc. Hãy liên hệ thực tế những khách thể
nào chịu sự kiểm toán toán bắt buộc.
2. Hiện nay kiểm toán nhà nước sẽ thực hiện kiểm tra đối với những khách thể
nào?

- 20 -


Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN SỬ
DỤNG TRONG KIỂM TOÁN
Quá trình thực hiện kiểm toán là quá trình kiểm toán thực hiện các chức năng
của mình, kiểm toán sẽ kiểm tra cái gì thì đó là đối tượng kiểm toán. Khi thực hiện
hiện kiểm toán thực chất kiểm toán viên sẽ thực hiện công việc dựa vào cơ sở nào
và cần xem xét vấn đề gì. Vì vậy, chương này cung cấp cho người học những nội
dung sau: Đối tượng kiểm toán, chứng từ kiểm toán, cơ sở dẫn liệu, mục tiêu và
bằng chứng kiểm toán. Thế nào là gian lận và sai sót, tính trọng yếu và rủi ro trong
kiểm toán, khái niệm về hoạt động liên tục và hệ thống kiểm soát nội bộ trong
doanh nghiệp. Chương này có vai trò quan trọng vì nó chứa đựng các thuật ngữ liên
quan đến kiểm toán như: rủi ro, trọng yếu, cơ sở dẫn liệu, hoạt động liên tục, bằng
chứng kiểm toán… Những khái niệm này sẽ xuất hiện một cách thường xuyên trong
một cuộc kiểm toán.
2.1 Đối tượng kiểm toán

2.1.1 Thực trạng hoạt động tài chính là đối tượng chung của kiểm toán
Từ lịch sử hình thành của kiểm toán, chúng ta có thể thấy kiểm toán từ chỗ là
hoạt động được tách ra từ kế toán đã dần dần phát triển và trở thành một khoa học
độc lập. Với tư cách là một môn khoa học độc lập, kiểm toán cũng có đối tượng
nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu riêng của nó.
Trước đây, ở những năm 30 của thế kỷ XX đối tượng kiểm toán là các tài
liệu kế toán. Tuy nhiên, với mọi người quan tâm, các con số và tài liệu khác của kế
tóan không có ý nghĩa nếu như không gắn với thực trạng của tài sản hay rộng hơn là
thực trạng tài chính. Do tính phức tạp của quan hệ tài chính và giới hạn của trình độ
và phương tiện xử lý thông tin, kế toán không thể thu thập được tất cả lượng thông
tin tài chính phát ra... Để xác minh và phán định về tình hình tài chính, kiểm toán
không giới hạn đối tượng ở tài liệu kế toán mà còn mở rộng ra thực trạng của hoạt
động tài chính kể cả phần đã được phản ánh trong tài liệu kế toán và phần chưa
được phản ánh trong tài liệu này.

- 21 -


2.1.2 Tài liệu kế toán là đối tượng cụ thể của kiểm toán
Trong bất kỳ cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính nào, kiểm toán viên cũng đều
dựa vào tài liệu kế toán của doanh nghiệp để thực hiện thu thập các bằng chứng
kiểm toán, tài liệu kế toán của doạnh nghiệp bao gồm: Báo cáo tài chính, hệ thống
chứng từ, sổ sách kế toán,..
2.1.3 Thực trạng tài sản, nghiệp vụ tài chính là đối tượng cụ thể của kiểm toán
Trong một đơn vị kinh doanh hay sự nghiệp, tài sản đều biểu hiện dưới hình
thái vật chất khác nhau với yêu cầu về quy cách, phẩm chất, bảo quản, bảo dưỡng...
khác nhau, lại được lưu trữ trên nhiều kho, bãi khác nhau với những người quản lý
khác nhau. Mối liên hệ giữa những người quản lý với nhau cũng như giữa người
quản lý với người sở hữu tài sản được thực hiện theo những xu hướng và phương
thức khác nhau song có xu hướng ngày càng tăng dần sự khác biệt giữa người sở

hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản. Mặt khác, khi sản xuất phát triển, quy
mô tài sản cũng tăng lên, quy mô kinh doanh mở rộng, các mối liên kết kinh tế ngày
càng đa dạng, phức tạp. Cộng vào đó là sự phong phú thêm của khái niệm truyền
thống về tài sản, đặc biệt là sự xuất hiện của các tài sản vô hình, các quan hệ vay –
mượn, thuê – mua, các hậu quả của rủi ro dẫn đến những thu nhập hoặc tổn thất bất
thường về tài sản, sự thâm nhập của các quan hệ thị trường, giá cả, tỷ giá mở ra
trong phạm vi quốc tế... Tất cả những yếu tố này dẫn đến khả năng cách biệt giữa
tài sản với sự phản ảnh của nó trong thông tin kế toán... Thực tế đó đã thúc đẩy sự
ra đời của kiểm toán cùng tính tất yếu phải đặt thực trạng của tài sản vào đối tượng
kiểm toán.
Tài sản trong kinh doanh cũng như trong mọi lĩnh vực hoạt động khác đều
thường xuyên vận động. Quá trình vận động này được cấu thành bởi các nghiệp vụ
cụ thể. Các nghiệp vụ cụ thể này có thể quy về các nghiệp vụ cơ bản như xuất,
nhập, tồn kho hoặc mua bán sản xuất (hoặc dịch vụ). Tuy nhiên, do đặc tính của
từng loại tài sản cũng như mối quan hệ kinh tế của mỗi loại tài sản... cũng khác
nhau; sự đa dạng về chủng loại nghiệp vụ cũng như đặc tính của tài sản chứa đựng
nghiệp vụ đòi hỏi phải chia công tác kiểm toán các nghiệp vụ này thành những phần
hành kiểm toán khác nhau. Khác với phần hành kế toán, phần hành về kiểm toán

- 22 -


được phân chia trước hết trên cơ sở đầu mối của các mối quan hệ tài chính và sau
nữa là vị trí và đặc điểm của từng loại nghiệp vụ. Trên cơ sở đó cần chia đối tượng
kiểm toán ra từng phần hành cơ bản, với kiểm toán nghiệp vụ các phần hành cơ bản
gồm:
- Các nghiệp vụ về tiền mặt (thu, chi và tồn quỹ)
- Các nghiệp vụ về thanh toán (không phân biệt vay, nợ, phải thu, phải trả)
- Các nghiệp vụ về tài sản cố định (đầu tư, xây dựng, mua sắm)
- Các nghiệp vụ về hàng hóa (bảo quản, sử dụng)

- Các nghiệp vụ về kinh doanh (mua, bán, sản xuất hoặc dịch vụ hoặc các
nghiệp vụ mang tính sự nghiệp, xã hội... đối với các đơn vị phi kinh doanh)
- Các nghiệp vụ về tài chính (tạo vốn, phân phối kết quả kinh doanh)
Tùy theo đặc điểm của mỗi đơn vị về quy mô, về phương hướng hoạt động, về
tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý và tùy theo loại hình cũng như yêu cầu kiểm
toán cụ thể, có thể lược bỏ, tách riêng hay sát nhập các loại nghiệp vụ cơ bản trên để
có được những phần hành kiểm toán phù hợp với đơn vị cụ thể và mục tiêu kiểm
toán. Tuy nhiên trong bất cứ điều kiện nào, các nghiệp vụ tài chính vẫn là đối tượng
kiểm toán.
2.1.4 Hiệu quả, hiệu năng là đối tượng cụ thể của kiểm toán
Ngày nay, kiểm toán không còn giới hạn là kiểm toán Báo cáo tài chính,
trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, ngoài lĩnh vực tài chính kế toán, kiểm toán
còn quan tâm tới các lĩnh vực khác của quản lý như hiệu quả sử dụng nguồn lực và
hiệu năng của các chương trình, mục tiêu, dự án, các hoạt động hay là hiệu năng và
hiệu quả hoạt động của một bộ phận hay một dây chuyền công nghệ trong doanh
nghiệp đều là đối tượng kiểm toán.
2.2 Chứng từ kiểm toán, cơ sở dẫn liệu và bằng chứng kiểm toán
2.2.1 Chứng từ kiểm toán
Chứng từ kiểm toán là nguồn tư liệu sẵn có cung cấp cho kiểm toán viên
trong quá trình kiểm toán Báo cáo tài chính.
Chứng từ kiểm toán bao gồm: Tài liệu kế toán và tài liệu khác.
- 23 -


2.2.2 Cơ sở dẫn liệu
Cơ sở dẫn liệu trong kiểm toán tài chính là những hướng dẫn mà kiểm toán
viên dựa vào để thu thập bằng chứng làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến của mình về
Báo cáo tài chính được kiểm toán.
Những cơ sở dẫn liệu mà kiểm toán viên dựa vào khi thực hiện kiểm toán tài
chính được xác định tùy theo phương pháp kiểm toán Báo cáo tài chính được kiểm

toán viên sử dụng.
Chúng ta biết rằng trách nhiệm lập Báo cáo tài chính sao cho trung thực, hợp
lý là thuộc về nhà quản lý doanh nghiệp. Vì vậy, những số liệu trên Báo cáo tài
chính thể hiện những xác nhận của nhà quản lý về tính trung thực, hợp lý của thông
tin. Những xác nhận này lại có liên quan đến những yêu cầu mà hệ thống kế toán
đáng tin cậy phải đảm bảo, đó là: chỉ được ghi chép những nghiệp vụ có thật và hợp
pháp; phải ghi đầy đủ các nghiệp vụ phát sinh,… tài sản phải được đánh giá đúng
theo nguyên tắc, chuẩn mực; việc ghi chép, tính toán, chuyển sổ phải chính xác,
việc trình bày và khai báo trên Báo cáo tài chính phải đúng theo yêu cầu của chuẩn
mực kế toán.
Nếu trách nhiệm của nhà quản lý là lập Báo cáo tài chính sao cho trung thực
và hợp lý thì trách nhiệm của kiểm toán viên là xác minh về tính trung thực và hợp
lý này. Vì vậy, kiểm toán viên sẽ dựa vào những điều xác nhận của nhà quản lý để
thu thập bằng chứng kiểm toán. Nói cách khác, những bằng chứng này là cơ sở dữ
liệu của kiểm toán viên.
Như vậy, cơ sở dẫn liệu của kiểm toán viên trong kiểm toán Báo cáo tài
chính là những giải trình của các nhà quản lý để chứng minh về các dữ liệu được
trình bày trên các Báo cáo tài chính.
Các xác nhận của nhà quản lý về Báo cáo tài chính bao gồm:
- Xác nhận về “sự tồn tại và phát sinh”:
Nhà quản lý có trách nhiệm xác nhận là các tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở
hữu trên Bảng cân đối kế toán là thật sự tồn tại và các khoản doanh thu, chi phí
trong báo cáo kết quả kinh doanh thực tế đã phát sinh trong năm kế toán.
- Xác nhận “sự đầy đủ”:
- 24 -


Những xác nhận này nêu rõ là các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và các tài sản,
nguồn vốn hiện có đều được đưa vào sổ sách và Báo cáo tài chính.
- Xác nhận về “quyền sở hữu và nghĩa vụ”:

Nhà quản lý có trách nhiệm xác nhận là các tài sản phản ánh trên bảng cân đối
kế toán đều thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và các khoản nợ phải trả, vốn chủ
sở hữu thực sự là nghĩa vụ của doanh nghiệp vào ngày lập bảng cân đối kế toán.
- Xác nhận “sự đánh giá và phân bổ”:
Nhà quản lý có trách nhiệm xác nhận là mọi tài sản, công nợ, doanh thu và chi
phí đã được đánh giá và phân bổ đúng theo những chuẩn mực kế toán hiện hành.
- Xác nhận về “sự trình bày và khai báo”:
Nhà quản lý xác nhận là các chỉ tiêu được trình bày, phân loại và khai báo trên
các Báo cáo tài chính đã tuân thủ theo đúng chuẩn mực kế toán hiện hành.
2.2.3 Bằng chứng kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu
thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán
viên hình thành ý kiến của mình. Bằng chứng kiểm toán bao gồm các tài liệu, chứng
từ, sổ kế toán, Báo cáo tài chính và các tài liệu, thông tin từ những nguồn khác.
Chuẩn mực kiểm toán đã chỉ rõ kiểm toán viên phải thu thập đủ các bằng
chứng kiểm toán “có đủ hiệu lực” để làm căn cứ hợp lý cho việc đưa ra ý kiến kiểm
toán. Như vậy, trong mọi trường hợp, bằng chứng kiểm toán phải đảm bảo hai yêu
cầu cơ bản đó là đầy đủ và có hiệu lực.
- Yêu cầu về tính đầy đủ: Tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán là ám chỉ
về số lượng bằng chứng cần thu thập phải đủ để đưa ra kết luận kiểm toán. Tất
nhiên, yêu cầu đầy đủ không đặt ra một số lượng cụ thể mà đòi hỏi sự xét đoán nghề
nghiệp của kiểm toán viên trong mối quan hệ với các nhân tố quyết định số lượng
bằng chứng kiểm toán. Các nhân tố đó bao gồm:
+ Tính trọng yếu: Số lượng bằng chứng kiểm toán sẽ phải nhiều lên khi kiểm
toán các khoản mục có tính trọng yếu cao.

- 25 -



×