Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 175 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN MINH HOÀN

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả

Bùi Thị Phương Thùy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về thực hiện
công bằng xã hội với việc phát triển con người
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng thực hiện công
bằng xã hội với việc phát triển con người
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát huy vai trò của
thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người
1.4. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu liên quan và định hướng nghiên
cứu của luận án
Chương 2: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

2.1. Công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội
2.2. Phát triển con người
2.3. Vai trò của thực hiện công bằng xã hội đối với phát triển con người
Chương 3: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ


3.1. Những thành tựu của thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay
3.2. Những hạn chế trong thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển
con người ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
để thực hiện tốt công bằng xã hội, phát triển con người
4.2. Hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội
trong việc thực hiện công bằng xã hội đối với phát triển con người
4.3. Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị trong việc thực hiện công bằng xã
hội, phát triển con người
4.4. Nâng cao nhận thức của người dân trong việc thực hiện công bằng xã hội
cho phát triển con người
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
1
5
5
17
23
26

29
29
47
61
74
74
93

116
116
120
134
144
149
151
153
165


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BHYT : Bảo hiểm y tế
CBXH : Công bằng xã hội
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
PTCN : Phát triển con người
TLSX : Tư liệu sản xuất
UNDP : Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử loài người là lịch sử các nền văn minh, văn hoá gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển con người (PTCN). Khái niệm PTCN đã được sử
dụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một thuật ngữ thông dụng. Hơn
150 năm trước, khi khẳng định tiến trình lịch sử của loài người là sự thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã nói tới sự phát triển toàn diện
con người là thước đo chung cho sự phát triển kinh tế xã hội. Phấn đấu vì sự
nghiệp PTCN đã trở thành mục tiêu chung của các Đảng Cộng sản trong quá
trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng như trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Vấn đề ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế
- xã hội và PTCN thường được nhiều quốc gia ưu tiên hàng đầu khi hoạch định
chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế, không phải quốc gia nào cũng
làm được điều này. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra những cơ hội to
lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, nhưng cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã hội. Trên thế giới, người ta
cũng đã đề cập nhiều đến sự phát triển không đồng đều giữa kinh tế và xã hội,
giữa các vùng, khu vực, sự gia tăng của nạn nghèo khổ trong nhiều dân tộc, quốc
gia, sự xa cách giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân v.v.. Một điều có thể
khẳng định là, sự chênh lệch lớn giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền
đã làm mất cơ hội phát triển của nhiều nhóm người, nhiều cộng đồng và chính
điều này là nguyên nhân sâu xa của những vấn đề xã hội và sẽ làm tăng thêm
gánh nặng của quốc gia, cộng đồng trong tương lai. Do đó, PTCN bền vững luôn
đi liền với công bằng xã hội (CBXH).
Ở Việt Nam, xuyên suốt lịch sử, con người luôn hiện ra như một giá trị nhân
văn cao cả nhất. PTCN toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt trong mọi chính sách
của Đảng và Nhà nước ta. Để có thể PTCN toàn diện, mọi chủ trương, chính sách của



2
Đảng và Nhà nước ta đều hướng tới chăm lo đến tất cả các mặt liên quan đến đời
sống con người: Từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần; từ vấn đề kinh tế đến
vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ sở công bằng, bình đẳng:
Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con
người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội, giữa đời sống vật chất và đời tinh thần, giữa đáp ứng các nhu
cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và
cộng đồng xã hội [35, tr.13].
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta không những đề
ra nội dung, phương thức thực hiện CBXH hội trên các mặt của đời sống xã hội,
mà còn chỉ ra những điều kiện để thực hiện CBXH: “thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các
chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống
hiến và hưởng thụ" [42, tr.101].
Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những
kết quả khả quan góp phần quan trọng vào CBXH Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, sự chênh lệch về PTCN giữa các địa
phương, dân tộc, tầng lớp xã hội, vấn đề đói nghèo, việc làm, v.v.. đang là một thách
thức cho PTCN bền vững ở nước ta hiện nay. Để đạt được sự PTCN bền vững cần
phải có sự phân bổ công bằng các giá trị do tăng trưởng mang lại, tạo cơ hội cho
nhóm người thiệt thòi vươn lên. Muốn vậy, Nhà nước phải có những chính sách xã
hội phù hợp, phải tạo dựng được bộ máy và các nguyên tắc làm việc minh bạch, làm
công cụ để quản lý, tổ chức việc thực hiện CBXH. Cùng với đó, sự tham gia của
người dân vào việc ban hành các quyết định và giám sát việc thực thi các quyết định
đó là một đảm bảo cho chính sách PTCN được thực thi vì lợi ích người dân, hướng
vào nhu cầu của người dân.

Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết trên đây, đồng thời, xét trên phương
diện lý luận cũng như thực tiễn, đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu vấn đề thực hiện CBXH với việc PTCN dưới góc độ triết


3
học. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện công bằng xã hội với việc phát
triển con người ở Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của
thực hiện CBXH đối với việc PTCN, luận án phân tích thực trạng và đề xuất một
số giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt CBXH nhằm PTCN ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về CBXH, thực hiện CBXH, PTCN
và vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN.
- Phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu
và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam từ đổi mới
đến nay.
- Đề xuất các giải pháp giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực
hiện CBXH với việc PTCN ở nước ta hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở
Việt Nam dưới góc độ triết học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cở sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH; đồng thời,
luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học
trong và ngoài nước có liên quan.


4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử lôgic, so sánh, phân tích - tổng hợp v.v.. để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã tiếp cận khái niệm CBXH, thực hiện CBXH dưới góc độ
PTCN, chỉ ra và làm rõ những nội dung của thực hiện CBXH với việc PTCN.
- Luận án đã đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu
và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH vì mục
tiêu PTCN ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
Luận án có giá trị tham khảo đối với việc nghiên cứu lý luận về CBXH,
thực hiện CBXH và PTCN ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập triết học và các ngành khoa học
xã hội nhân văn.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể giúp người làm công tác quản lý xã
hội xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo thực hiện CBXH, PTCN.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công
bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
4 chương, 13 tiết.



5
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN
CHUNG VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI

1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về
công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội
* Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, vấn đề CBXH được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Nhìn
chung, các công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài luận án chủ yếu tập
trung luận giải cơ sở lý thuyết của CBXH. Mặc dù, xuất phát từ những quan điểm,
lập trường triết học khác nhau, song tất cả đều cho rằng, công bằng là một trong
những phẩm hạnh của con người và CBXH là một trong những cái đích mà con
người phải phấn đấu vươn tới bên cạnh những cái đích khác như tự do, dân chủ.
Ngày nay, trên thế giới, người ta coi CBXH là một trong những đối tượng nghiên cứu
của triết học chính trị, triết học xã hội liên quan đến các vấn đề quản lý và phát triển
xã hội. Tác giả luận án chỉ điểm qua một số công trình cơ bản nhất có liên quan đến
đề tài luận án.
Trước hết, phải kể đến tác phẩm mang tính nền tảng về vấn đề này trong lịch
sử triết học đó là Bàn về khế ước xã hội [129] của J.J Rousseau. Tư tưởng xuyên suốt
trong tác phẩm là tự do, bình đẳng và sự cảm thông sâu sắc với thân phận con người.
Theo J.J Rousseau, nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng trong xã hội do chế độ
tư hữu và những lầm lạc của con người. Ông phê phán mạnh mẽ những người cam
chịu, không dám đấu tranh, từ bỏ tự do của mình, bởi “Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ
phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người” [126, tr.59].

J.J Rousseau đưa ra biện pháp để thiết lập tự do, bình đẳng giữa người với người đó
là nhà nước phải được tổ chức cai trị bằng một khế ước xã hội, trong đó, mọi thành
viên kết hợp với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng một động cơ
chung, một ý chí chung. Tư tưởng tiến bộ của J.J Rousseau đã góp phần đánh thức
tinh thần đấu tranh vì tự do, bình đẳng của con người trong cách mạng tư sản Pháp
1789, đồng thời chứa đựng những luận điểm mà nhiều tác giả sau này bàn về CBXH
đã tham khảo.


6
Tư tưởng về CBXH của J.J Rousseau đã được nhà triết học Mỹ J.Rawls
tiếp nối và phát triển trong tác phẩm A theory of Justice [165]. J.Rawls đã đưa ra
một quan niệm mới về CBXH: công lý như là công bằng và coi đây là khái niệm
trung tâm trong cuốn sách. Theo ông, công bằng chỉ có được khi con người tự
nguyện cùng tham dự vào hợp tác xã hội để làm sao cho mỗi cá nhân giành được
lợi ích nhiều hơn so với khi họ sống đơn lẻ. Vì thế, nếu thể chế của một xã hội là
căn cứ để xác định được một nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ phù
hợp với lợi ích của mỗi cá nhân thì thể chế xã hội ấy là công bằng. Ông cho rằng,
công bằng hay không công bằng trong một thể chế xã hội không phải khác nhau
về xuất phát điểm của mỗi cá nhân mà chủ yếu ở chỗ, khi tham gia vào hợp tác
xã hội, cho dù có sự bất bình đẳng do những khác biệt bẩm sinh và địa vị xã hội
nhưng có sự chấp nhận mang tính tự nguyện trong cơ chế hoạt động hợp tác xã
hội chung thì đó vẫn là công bằng. Quan niệm của J.Rawls về CBXH đã thể hiện
những cố gắng của ông trong việc đưa ra một cách nhìn mới về CBXH.
Cũng với mục đích tìm ra các nguyên tắc để thực hiện CBXH, David
Miller với cuốn sách Principles of social justice [161], cho rằng, CBXH là một
phạm trù lịch sử, nội dung và các nguyên tắc cơ bản của nó phải gắn liền với các
điều kiện khác nhau của các cộng đồng xã hội khác nhau. Tác giả đã đưa ra ba
thành phần chính trong hệ thống các nguyên tắc của CBXH cần phải được thực
hiện và đảm bảo, đó là: công lao, nhu cầu và sự bình đẳng của con người. Cuốn

sách làm rõ những cơ sở, điều kiện cũng như những khó khăn, thách thức nhằm
thực hiện những nguyên tắc của CBXH trong thời đại ngày nay.
Nếu J.Rawls tìm kiếm sự công bằng hoàn hảo thông qua việc xây dựng
các định chế hoàn hảo thì A.Sen với cuốn sách The idea of justice [160] tiếp
cận công bằng dựa trên bản thân cuộc sống, trên hiện thực hóa xã hội và tìm
cách giảm bớt những bất công. A.Sen cho rằng, phải kiểm nghiệm lâu dài
những tình trạng xã hội phát sinh trong thực tế để có thể so sánh những gì đã
xảy ra rồi tìm những tiêu chuẩn công bằng, thay vì đề ra một lý thuyết chung.
Theo A.Sen, điều quan trọng trong việc đạt đến công bằng là làm thế nào để
xóa bỏ mọi chướng ngại cho cá nhân trong việc thực hiện tự do để mưu cầu
hạnh phúc. Nỗ lực tối đa của cá nhân trong thể hiện tự do là chủ yếu, nhưng
môi trường xã hội phù hợp cũng góp phần cho sự thành đạt. Cuốn sách của
A.Sen giúp chúng ta hiểu đúng các vấn đề về công bằng, dân chủ trong mỗi
quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới.


7
Cũng liên quan đến đề tài luận án phải kể đến cuốn sách Social work and
social policy: advancing the principles of economic and social justice [162] của
các tác giả Ira C.Colby, Catherine, Karen M.Sowers. Các giả đã coi công tác xã
hội và chính sách phúc lợi xã hội toàn cầu như một nội dung chủ yếu để thực thi
CBXH hiện nay, còn nhà nước như một công cụ quản lý và điều tiết chủ yếu
nhằm giải quyết những mâu thuẫn, xung đột xã hội để thực thi công bằng và bình
đẳng. Hiện nay, xã hội châu Á đang đứng trước những thách thức cơ bản trong
việc thực thi CBXH: sự cọ sát giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại trong
việc tìm kiếm những giải pháp thực thi CBXH trong nền kinh tế thị trường, tính
thiếu đồng bộ trong thể chế chính trị, pháp lý và hệ thống chính sách xã hội...
Cuốn sách cũng đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện CBXH.
Trên cơ sở khái quát lại các các tư tưởng về CBXH trong lịch sử, Báo cáo
phát triển thế giới 2006: Công bằng và phát triển [117] của Ngân hàng Thế giới

tập trung vào một số vấn đề như: Bất bình đẳng trong từng nước và giữa các
nước; ý nghĩa quan trọng của công bằng; mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
như là không gian cho bình đẳng. Công bằng được hiểu là công bằng trong các
cơ hội. Báo cáo nhấn mạnh, cơ hội đồng đều tức là sự thành đạt của một người
phải do các nỗ lực, chọn lựa và tài năng của người ấy, chứ không do những hoàn
cảnh có sẵn trước đó như chủng tộc, giới tính, nhóm xã hội, gốc gác gia đình và
sinh quán của họ.
Bên cạnh đó còn có các tác phẩm tiêu biểu khác liên quan đến vấn đề
CBXH như: Justice and the politics of difference [163] của Iric Masion Young;
A Metastructural Reinterpretation of the Rawlsian Theory: From Rawls to
Machiavelli [164] của Jacques Bidet; bài “Distributive Justice” [166], v.v..
Trong khuôn khổ đề tài luận án, những nghiên cứu nêu ra ở đây không thể
bao quát hết các công trình nghiên cứu về chủ đề này trên thế giới. Vấn CBXH
và thực hiện CBXH được các tác giả nghiên cứu và luận giải chủ yếu dưới góc
độ kinh tế, chính trị, liên quan đến nhiều vấn đề: tự do, bình đẳng, dân chủ, đoàn
kết v.v.. Về cơ bản, các nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải cơ sở xã hội, cơ
sở nhận thức của con người về CBXH; những vấn đề đặt ra trong quá trình thực
hiện CBXH trong thời đại ngày nay. Đồng thời, cũng tùy thuộc vào bối cảnh xã
hội của mỗi quốc gia mà các nghiên cứu này gợi ý những phương án thực thi
CBXH cụ thể. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu phục vụ tác giả luận án
trong công tác nghiên cứu và tìm kiếm những giải pháp thực hiện CBXH.


8
* Các công trình nghiên cứu trong nước
Về khái niệm công bằng xã hội
Xung quanh khái niệm CBXH, có các công trình tiêu biểu: Hiện đại hóa
xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội [60]; Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Công bằng xã
hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội [49]; Những vấn đề lý luận cơ bản về
công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay [147]; Công bằng xã hội

trong tiến bộ xã hội [71]; Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý” của nhà
triết học Mỹ John Rawls [121] v.v;.., các bài báo, tạp chí: “Tư tưởng của C.Mác
về công bằng và bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội” [135]; “Về vấn đề bình đẳng
và công bằng xã hội” [154]; “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng xã hội
với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người” [69], “Về khái niệm “công
bằng xã hội” [112], v.v.. Các công trình đã cho chúng ta thấy được những quan
niệm khác nhau về CBXH trong lịch sử triết học Đông và phương Tây cũng như
các quan niệm hiện đại về CBXH, đặc trưng, bản chất và nội dung của CBXH.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, CBXH là sự ngang bằng nhau giữa
người và người trong xã hội không phải về mọi phương diện mà chủ yếu về
phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo nguyên tắc: cống hiến lao động
ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau [112, tr.8].
Công bằng xã hội ngoài nội dung phân phối theo lao động như đã đề cập ở
trên, trong cuốn sách Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều
kiện nước ta hiện nay [147], các tác giả bổ sung thêm nội dung phân phối thông qua
phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và phải phản ánh bản sắc văn hóa của một dân tộc.
Theo đó, CBXH
Là một khái niệm khoa học có tính chất tổng hòa các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa... dùng để chỉ sự
ngang bằng giữa người và người theo nguyên tắc phân phối lợi ích phù
hợp giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi, thưởng và
phạt… đồng thời còn thông qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội (cả về
vật chất và tinh thần), CBXH “vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính đạo
lý, phản ánh bản sắc văn hóa của một dân tộc; là động lực của sự tiến bộ
xã hội [147, tr.349].
Tiếp cận CBXH trên cơ sở nhấn mạnh hệ giá trị, tác giả Bùi Đại Dũng và
Phạm Thu Phương [28] cho rằng, CBXH là tình trạng mà mọi quyền lợi, nghĩa
vụ của các thành viên xã hội có và được thực hiện phù hợp với các giá trị xã hội



9
để khuyến khích tối đa khả năng đóng góp và hạn chế tối thiểu khả năng gây hại
của mỗi cá nhân cho xã hội trong lâu dài.
Đa phần các nhà khoa học đều khẳng định, CBXH là phạm trù lịch sử,
mang tính giai cấp, có thể được xem xét ở nhiều phương diện: kinh tế, chính trị,
pháp quyền, đạo đức v.v... trong đó kinh tế là phương diện cơ bản nhất. Các tác
giả cũng phân biệt rất rõ hai khái niệm CBXH và bình đẳng xã hội.
Về khái niệm thực hiện công bằng xã hội
Có nhiều công trình nghiên cứu về thực hiện CBXH, tuy nhiên, phần lớn
các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc thực hiện
CBXH, còn vấn đề lý luận thực hiện CBXH gần như chưa có công trình nào đề
cập đến.
Trong cuốn sách Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong
điều kiện nước ta hiện nay [147], các tác giả đã đưa ra những nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản trong việc nhận thức và thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay:
Nguyên tắc khách quan, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc toàn diện. Tiền đề để
thực hiện CBXH là sự tiếp cận bình đẳng của mọi người với các điều kiện và
nguồn lợi phát triển, và phụ thuộc vào trách nhiệm xã hội của quản lý Nhà nước
trong việc điều hòa lợi ích xã hội theo hướng công bằng. Các tác giả cũng chỉ ra
hai nội dung cơ bản của việc thực hiện CBXH: Phân phối công bằng và bình đẳng
về cơ hội.
Nghiên cứu thực hiện CBXH trong nền kinh tế thị trường, các tác giả của
cuốn sách Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội [60] đã chỉ ra rằng,
trong giới hạn của kinh tế thị trường đã bao hàm việc thực hiện CBXH, tuy nhiên, nó
không thể thực hiện triệt để, rộng khắp và toàn diện. Thực hiện CBXH theo tác giả
phải được thực hiện bằng nhiều hình thức phân phối, ngoài việc phân phối theo cống
hiến cần phân phối công bằng các nguồn lực phát triển cho các vùng, miền, ngành,
nghề; thực hiện công bằng trong việc phân phối các thành quả của sự phát triển xã
hội trên các phương diện như giáo dục, y tế, hạ tầng cơ sở, v.v.. nhằm đảm bảo cho
mọi người có được cơ hội và điều kiện sống, lao động bình đẳng. Các tác giả cho

rằng, việc thực hiện CBXH phải được tiến hành ngay trong mỗi bước phát triển,
song song với tăng trưởng kinh tế. Ở đây, Nhà nước đóng vai trò điều tiết thu nhập,
đảm bảo thực hiện CBXH.
Đi sâu vào khía cạnh kinh tế, trong cuốn sách Thực hiện công bằng xã hội
đối với các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay [78], các tác giả đã phân


10
tích, làm rõ nội dung của thực hiện CBXH đối với các thành phần kinh tế bao
gồm hai nội dung chủ yếu: Bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội phát
triển và bình đẳng trong phân chia lợi ích giữa các thành phần kinh tế. Thực chất
của thực hiện CBXH đối với các thành phần kinh tế là thực hiện hài hòa lợi ích
giữa các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng thông qua
hệ thống các chính sách và các cơ chế, hiện thực hóa các chính sách kinh tế - xã
hội với các nội dung chính là đảm bảo sự bình đẳng về quyền tiếp cận các nguồn
lực, quyền tham gia vào hoạt động kinh tế và quyền được chia sẻ (được phân
phối công bằng) các thành quả của phát triển giữa các thành phần kinh tế, từ đó
tạo động lực cho phát triển, góp phần ổn định xã hội. Ở đây, Nhà nước và thể
chế với tư cách là những nhân tố đảm bảo cho thực hiện CBXH đối với các
thành phần kinh tế.
Bàn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH có thể kể
đến các công trình: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á
và Việt Nam [88]; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp [115]; các bài viết: “Tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội trong trong xu thế hội nhập hiện nay” [89]; “Thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
[110], “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” [111],... Các tác giả đã đã nêu bật mối quan hệ khăng
khít, hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH, coi đó là những mục tiêu
không thể tách rời của sự phát triển bền vững xã hội ngày nay.

Có thể thấy, các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về
công CBXH và thực hiện CBXH phong phú, được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều thống nhất ở quan điểm
coi CBXH là một giá trị định hướng con người sinh sống và phát triển, thực
hiện CBXH là mục tiêu của các nhà nước dân chủ và tiến bộ. Thực hiện CBXH
được thể hiện tập trung ở hai nội dung chính là đảm bảo công bằng trong phân
phối và công bằng về cơ hội. Nhìn chung, ở nước ta hiện nay, các công trình
chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ thực hiện CBXH trong phân phối. Những công
trình trên sẽ là cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi tiếp thu, bổ sung và phát
trển trong nghiên cứu của mình.


11
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về phát
triển con người và thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người
Quan điểm PTCN từ lâu đã được biết đến như là một quan điểm triết học
cơ bản, đặc biệt là trong triết học Mác và tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh.
Đây cũng là nội dung xuyên suốt các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Xung
quanh vấn đề PTCN ở nước ta hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, sau
đây là một số các công trình tiêu biểu.
Cuốn sách Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác
và Ph.Ăngghen [125] đã tập trung nghiên cứu để tiếp tục làm sáng tỏ cơ sở lý
luận đối với PTCN ở Việt Nam. Phần thứ nhất của cuốn sách đã trình bày một
cách có hệ thống những luận điểm về con người và PTCN của C.Mác và
Ph.Ăngghen: Con người là gì, bản chất con người, vấn đề giải phóng con người,
đặc biệt những tư tưởng về con người tự nhiên, con người cá nhân, con người cá
thể, những tư tưởng ở thời “Mác trẻ” - giai đoạn mà lâu nay ta ít khai thác.
Tương ứng với các luận điểm đó là các trích dẫn tư tưởng của các ông đã đưa
độc giả đi từ bao quát đến cụ thể để có thể nắm bắt vấn đề tốt hơn cũng như hiểu
sâu hơn tư tưởng của các nhà kinh điển về vấn đề này. Phần thứ hai gồm bài viết

của các tác giả khai thác di sản kinh điển theo cách nhìn từ thời đại ngày nay, ý
nghĩa thế giới quan và phương pháp luận đối với nhận thức và PTCN. Cuốn sách
là tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận
phục vụ nghiên cứu vấn đề PTCN.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng về PTCN của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về PTCN là hệ thống những
quan điểm sâu sắc, đã trở thành cơ sở lý luận đối với việc nghiên cứu con
người ở Việt Nam trong những năm qua. Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người Việt Nam toàn diện [20], đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận,
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về PTCN toàn diện. PTCN
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải tập trung phát triển tất cả các bộ
phận cấu thành nên chỉnh thể đó: Thể lực, trí tuệ, năng lực thẩm mỹ, đạo đức.
Tác giả cũng trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của nhân tố kinh tế,
chính trị, văn hóa trong quá trình hình thành và PTCN, con đường hình thành
và PTCN toàn diện. Theo tác giả, ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta đang được đẩy mạnh, những biến chuyển trên thế giới ngày càng
nhanh chóng và phức tạp, những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng


12
nhiều, đòi hỏi con người phải sáng suốt, linh hoạt, có bản lĩnh để vượt qua thì
việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về PTCN toàn
diện trở thành nhiệm vụ cấp bách trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Ở Việt Nam, quan điểm PTCN được nghiên cứu một cách có hệ thống trong
các công trình của tác giả Phạm Minh Hạc, chủ nhiệm của ba chương trình quốc gia
“Con người - mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội” (1991 - 1995); “Phát
triển văn hóa, xây dựng con người toàn diện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” (1996 - 200); “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2001-2005). Tác giả cũng đã xuất bản nhiều cuốn

sách liên quan đến PTCN, trong đó phải kể đến ba cuốn sách: Phát triển giáo dục,
phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội [55], Nghiên cứu con người
và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa [56], Về phát triển toàn
diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [57]. Theo tác giả, phát triển
toàn diện con người là “khắc phục tình trạng tha hóa, phát triển toàn diện, hài hòa,
cân đối trí lực và thể lực, đức và tài, phát triển cá tính và sự phong phú của con
người, phát triển một cách tự do, đầy đủ và làm chủ, thích ứng với sự di động chức
năng xã hội của con người” [57, tr.33]. Tác giả khẳng định vai trò của CBXH đối
với việc PTCN. CBXH tạo ra động lực mạnh mẽ cho hoạt động của con người. Giải
quyết vấn đề phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo chính là thực hiện CBXH vì
mục tiêu PTCN.
Cùng chủ đề này chúng ta còn phải kể đến các công trình nghiên cứu Về
vấn đề xây dựng con người mới [24]; Tư tưởng triết học về con người [137]; Tư
tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện [31]; các bài viết của tác giả Đặng Hữu Toàn: “Phát triển vì con người trong
quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu
phát triển con người ở nước ta hiện nay” [140]; “Phát triển con người Việt Nam
toàn diện với tư cách là mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước” [141]; “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc” [142]; “Phát triển con người - thước đo
nhân văn của tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới
ở Việt Nam” [143] đã cung cấp cho tác giả luận án cơ sở lý luận quan trọng cho
việc nghiên cứu con người và PTCN.


13
Ngoài những công trình nghiên cứu PTCN theo quan điểm mácxít trong
những năm gần đây xuất hiện cách tiếp cận mới theo phương pháp lượng hóa
PTCN, trong đó phải kể đến: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001 - Đổi
mới và sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam [153]; Báo cáo phát triển con

người Việt Nam 1999 - 2004: Những thay đổi và xu hướng chủ yếu [155]; Phát
triển con người Việt Nam năm 2011 [149]; Báo cáo Phát triển con người Việt
Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm - Tăng trưởng vì mọi người [150]. Báo cáo
Phát triển con người Việt Nam năm 2011 đã xem xét những thách thức mà nhiều
người Việt Nam đang phải đối mặt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Báo cáo cho thấy, gia tăng bất bình đẳng về kinh tế đi kèm với sự chênh lệch dai
dẳng trong các chỉ tiêu về giáo dục và y tế cơ bản như thế nào. Báo cáo kết luận,
nếu Việt Nam muốn tiếp tục đạt được mức PTCN cao hơn thì việc đảm bảo tiếp
cận toàn dân và công bằng đối với dịch vụ y tế và giáo dục là vô cùng cần thiết.
Còn Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2015 đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của an sinh xã hội trong việc thúc đẩy tính công bằng, hiệu quả và sức
chống chịu, đồng thời đưa ra đánh giá cơ bản về hệ thống này của Việt Nam.
Hướng đến tương lai, Báo cáo tập trung khuyến nghị các chính sách thiết thực để
mở rộng việc làm có năng suất, cải thiện hiệu quả và nâng cao tính công bằng
của hệ thống giáo dục và y tế cũng như gia tăng diện bao phủ của hệ thống an sinh
xã hội. Các phân tích trong Báo cáo cung cấp một cơ hội để cân nhắc xem làm thế
nào xây dựng được một mô hình phát triển công bằng và toàn diện, có thể mở rộng
các lựa chọn và tạo ra cơ hội cho mọi người.
Bên cạnh báo cáo phát triển con người cấp quốc gia, nhiều tỉnh thành ở
nước ta trong thời gian vừa qua cũng đã triển khai thực hiện nghiên cứu và tính
toán chỉ số PTCN cấp địa phương, một số đã được xuất bản thành sách: Con
người và phát triển con người ở Hòa Bình - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
[158]; Phát triển con người vùng Tây Bắc nước ta [119]. Cũng có một số công
trình đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác nhau về PTCN (chính trị, y tế,
giáo dục, văn hóa, chính sách xóa đói, giảm nghèo), từ đó đề ra những giải pháp
cụ thể nhằm phục vụ các yêu cầu về phát triển con người: Dân chủ và phát triển
con người [118]; Dân chủ tham gia với phát triển con người [139]; Chỉ số tuổi
thọ trong HDI, một số vấn đề thực tiễn Việt Nam [11]; Thực trạng phát triển con
người Việt Nam về sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ [83]; Chỉ số phát triển kinh tế
trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu [13], Chỉ số phát triển



14
giáo dục trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu [15] v.v... Các
công trình đã cho thấy vai trò của kinh tế, chính trị, xã hội đối với PTCN, chỉ ra
những vấn đề cần quan tâm trong việc mở rộng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục,
văn hóa cho người nghèo ở Việt Nam. Mở rộng cơ hội tiếp cận ở đây cũng chính
là góp phần thực hiện CBXH, PTCN.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTCN rất
phong phú, đa dạng, tiếp cận dưới nhiều góc độ. PTCN bị quy định bởi nhiều
yếu tố trong đó có CBXH. Các nghiên cứu bước đầu đã chỉ ra được vai trò của
việc thực hiện CBXH đối với việc PTCN.
Đi sâu hơn vào vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN gần như
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến. Theo chúng tôi được biết duy
nhất có bài viết của tác giả Phạm Thành Nghị “Công bằng xã hội và phát triển
con người bền vững” [49] đề cập trực tiếp đến mối quan hệ giữa CBXH và
PTCN. Vai trò của CBXH đối với PTCN được thể hiện qua các nội dung: thứ
nhất, tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cho phát triển năng lực thông qua các chính
sách xã hội và chính sách kinh tế và các chương trình hướng tới sự hoàn thiện
con người; thứ hai, sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận các nguồn lực do tăng trưởng
mang lại, tạo điều kiện để PTCN bền vững, liên quan đến xây dựng và thực thi
các chính sách kinh tế và chính sách xã hội; thứ ba, thông qua tăng cường sự
bình đẳng về cơ hội tham gia; thứ tư: sự bình đẳng giữa các thế hệ. Tác giả
khẳng định, bình đẳng tiếp cận và bình đẳng về cơ hội là các yếu tố cơ bản nhất
tạo điều kiện cho PTCN bền vững. Đây là những gợi mở quan trọng để tác giả
luận án có thể tiếp thu.
Nhìn chung, vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN chủ yếu được đề
cập gián tiếp thông qua vai trò của thực hiện CBXH với tiến bộ xã hội, với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Con người với tư cách vừa là chủ thể,
vừa là mục tiêu của sự phát triển triển, do đó, phát triển kinh tế - xã hội cũng

chính là để PTCN.
Bàn về vai trò của thực hiện CBXH với tiến bộ xã hội, tác giả Nguyễn
Minh Hoàn [71] cho rằng, vai trò của CBXH thể hiện ở 2 nội dung chính: là
động lực của sự phát triển xã hội và là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội.
Theo tác giả, động lực thúc đẩy con người hoạt động là lợi ích của chủ thể hoạt
động. CBXH cũng là một nguyên tắc phân chia lợi ích, làm cho các thành viên
tham gia vào quan hệ lợi ích không thấy bị thiệt thòi, hơn nữa còn kích thích họ


15
hoạt động một cách tích cực hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Với tư cách là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội, qua các hình thái kinh
tế - xã hội đã có trong lịch sử, có thể thấy rõ mức bất công trong phân phối sản
phẩm của lao động đã giảm dần và mức công bằng tăng dần.
Tác giả Võ Thị Hoa và Nguyền Hồng Sơn [66] thông qua việc phân tích vai
trò của thực hiện CBXH với tư cách là động lực thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã chỉ ra vai trò của
việc thực hiện CBXH với việc PTCN. Thực hiện CBXH trong kinh tế hướng tới đảm
bảo lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân, tạo một không gian kinh tế lành
mạnh, bình đẳng mà ở đó các chủ thể kinh tế được phát huy năng lực của mình, làm
giàu cho cá nhân và xã hội. Dưới góc độ chính trị, thực hiện CBXH tạo điều kiện cho
người lao động thực sự là chủ và làm chủ. Dưới góc độ văn hóa, xã hội, thực hiện
CBXH đảm bảo cho các thành viên trong xã hội có quyền bình đẳng trong sáng tạo
và hưởng thụ những giá trị văn hóa - tinh thần, khắc phục tình trạng phân hóa giàu
nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đảm bảo cho mọi tầng
lớp xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, y tế.... Thực hiện CBXH
đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và khẳng
định mình, tạo sự đồng thận, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Hà [53], CBXH là một nội dung quan trọng
trong sự phát triển về mặt xã hội. Trong một xã hội có tình trạng bất công bằng,

người bị đối xử bất công sẽ không thể phát huy hết tính tích cực của mình, hơn
nữa, họ luôn đấu tranh đòi công bằng, cuộc đấu tranh này không tránh khỏi bất
ổn xã hội. CBXH luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam coi vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển xã hội. Để có được CBXH trong điều kiện kinh tế
thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp
mà Đảng ta đã đề ra. Để phát huy vai trò động lực của CBXH, theo tác giả, cần
khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện CBXH hiện đang còn tồn tại.
Tiếp cận dưới góc độ vai trò của thực hiện CBXH đối với các thành phần
kinh tế, các tác giả cuốn sách Thực hiện công bằng đối với các thành phần kinh
tế ở Việt Nam hiện nay [78] cho rằng, công bằng trong phân phối các nguồn lực
xã hội sẽ thúc đẩy phát triển và làm lành mạnh hóa môi trường sản xuất kinh
doanh. Phân phối công bằng tạo ra môi trường tương tác hài hòa giữa các chủ
thể, tạo cho các chủ thể cơ hội phát triển ngang nhau và hưởng thụ sòng phẳng


16
theo năng lực trên thị trường. Điều này giúp hạn chế sự lạm dụng đặc quyền, đặc
lợi, lạm dụng nguồn lực phát triển cho xã hội. Trên bình diện vĩ mô, CBXH đối
với các thành phần kinh tế là động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững. CBXH
đối với các thành phần kinh tế góp phần vào sự ổn định xã hội ở chỗ: cốt lõi của
nó là thực hiện hài hòa lợi ích giữa các nhóm xã hội, từ đó tạo điều kiện giải
quyết các mâu thuẫn xã hội một cách hợp lý, thỏa đáng thông qua phân phối lợi
ích một cách công bằng.
Tiếp cận dưới góc độ phân phối, các tác giả của cuốn sách “Phân phối
bình đẳng các nguồn lực kinh tế: Tiếp cận lý luận và thực tiễn ở một số quốc
gia” [132] cho rằng, việc phân phối bình đẳng các nguồn lực xã hội sẽ khuyến
khích sự sáng tạo của các chủ thể kinh tế, làm lành mạnh hóa môi trường sản
xuất kinh doanh, thúc đẩy xã hội phát triển. Phân phối bình đẳng còn bao hàm
việc tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho mọi chủ thể xã hội, đặc biệt là nhóm
người dễ bị tổ thương. Theo các tác giả, sự phân phối không bình đẳng các

nguồn lực phát triển chính là khởi nguồn cho những căng thẳng, xung đột và
bất ổn trong xã hội, biểu hiện rõ nhất qua “nhóm lợi ích”.
Cũng theo hướng tiếp cận này, tác giả Bùi Đại Dũng cho rằng, việc phân
phối thu nhập quá bất công khiến nhóm cực giàu thì giàu mãi lên và nhóm nghèo
khổ càng bị bần cùng hóa. Bất công xã hội gây ra nhiều biến động xã hội ghê gớm
mà hậu quả là những tổn thất khủng khiếp cho phát triển bền vững [27, tr.52]. Do
đó, để phát triển bền vững về mặt xã hội cần kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ và CBXH, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề PTCN và thực hiện
CBXH với việc PTCN. Có thể thấy, PTCN không chỉ đơn thuần là sự phát triển
tự thân mà còn chịu tác động của nhiều nhân tố, đặc biệt là các nhân tố: kinh tế,
y tế, giáo dục, văn hóa. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá sự PTCN cần phải xem xét
tất cả các nhân tố tác động trong mối quan hệ tương tác với nhau. Dưới các góc
độ khác nhau, các công trình đều khẳng định sự cần thiết của việc PTCN cũng
như xây dựng các chính sách PTCN đúng đắn. Thực hiện công bằng trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội góp phần PTCN. Những công trình khoa học của các tác
giả có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận lẫn thực tiễn để tác giả luận án tiếp cận
và phát triển.


17
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Trực tiếp bàn đến thực trạng thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam
hiện nay theo chúng tôi được biết thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Phần
lớn các công trình nghiên cứu mới dừng lại ở việc phân tích thực trạng thực hiện
CBXH ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thông qua các công trình nghiên cứu

liên quan đến đề tài luận án ít nhiều có thể thấy được thực trạng thực hiện CBXH
với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay.
Với báo cáo “Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp” [49],
tác giả Đỗ Huy đã khái quát bốn thời kỳ thực hiện CBXH ở nước ta. 1) Thời kỳ
trước Cách mạng tháng Tám, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến,
tuyệt đại bộ phận nhân dân sống lầm than, cơ cực trong bất công của thân phận
người dân mất nước. Đây là thời kỳ mất công bằng toàn diện. 2) Thời kỳ sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thời kỳ hình thành những chuẩn mực
công bằng mới cho xã hội, người ta chỉ nghĩa đến cống hiến mà ít nghĩ đến
hưởng thụ; nghĩ đến lao động cho tổ quốc mà không nghĩ đến thu vén cá nhân.
3) Thời kỳ thực hiện cơ chế hành chính, quan liêu, bao cấp. Thời kỳ này đã tạo ra
được nhiều giá trị công bằng về y tế, giáo dục nhưng nó đã làm cho xã hội Việt
Nam phát triển chậm chạp và tạo ra sự mất công bằng ở lĩnh vực phân phối. 4)
Thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay. Đây là thời kỳ thực hiện CBXH theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN. Tác giả nhấn mạnh, những di hại của chiến
tranh gây nên khá nhiều bệnh tật cần được khắc phục. Vì thế, muốn có CBXH,
không thể phân phối theo cơ chế thị trường thông thường, mà Việt Nam đã thực
hiện phân phối theo lao động trên cơ sở kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Cơ chế thị trường định hướng XHCN tạo nên những chuẩn mực mới để thực
hiện CBXH. Các chuẩn mực này xuất phát từ đạo lý uống nước nhớ nguồn
truyền thống. Để thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, chúng ta thực hiện cơ chế
phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời Nhà nước Việt Nam đã đề ra rất
nhiều chính sách nhằm giúp đỡ những người tàn tật, già yếu, cô đơn, các gia
đình thương binh liệt sĩ, những dân tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, những gia
đình có công với cách mạng, các chính sách xóa đói, giảm nghèo. Tác giả cũng
chỉ ra những hạn chế, bất cập của việc thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay:
nhiều nghề lao động giản đơn lại có thu nhập lớn hơn nhiều lần lao động phức


18

tạp, nhiều người ở vùng sâu, vùng xa chưa được hưởng phúc lợi xã hội như ở các
thành phố; sự cách biệt về mức sống, chế độ giáo dục, chăm sóc y tế ở nông thôn
so với thành thị, chế độ lương của nhà nước còn bất hợp lý so với thu nhập ngoài
nhà nước, tệ tham nhũng hối lộ v.v.. Tất cả những vấn đề trên đã phá hoại sự ổn
định của xã hội. Báo cáo giúp tác giả luận án hình dung được quá trình thực hiện
CBXH ở nước ta từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay; đồng thời thấy rõ,
thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay còn nhiều vấn đề cần giải quyết.
Tác giả Lê Hữu Tầng đã phân tích một số vấn đề về thực hiện CBXH ở
Việt Nam hiện nay trong báo cáo “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung
quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” [49]. Trước hết là
vấn đề phân phối. Đối với nước ta, do đặc thù trải qua chiến tranh, nhiều người
hy sinh xương máu, tính mạng cho nền độc lập của nước nhà, do đó, tác giả đề
xuất, để thực hiện đầy đủ hơn CBXH cần mở rộng nguyên tắc phân phối theo lao
động và theo mức đóng góp vốn vào sản xuất kinh doanh hiện nay thành nguyên
tắc phân phối theo cống hiến (cả về lao động, nguồn vốn cùng mọi cống hiến
khác) cho xã hội nói chung chứ không phải chỉ cho sản xuất, mặc dù cống hiến
cho sản xuất vẫn là chủ yếu, đồng thời phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Nguyên tắc phân phối công bằng này đã có tác dụng cuốn hút mọi người hăng
hái góp công, góp của vào sự phát triển của đất nước nói chung và sự phát triển
của sản xuất kinh doanh nói riêng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ đó, tác giả
khẳng định, CBXH chính là động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, thực hiện nguyên tắc phân phối theo cống hiến lại dẫn đến hậu
quả là sự phân cực ngày càng tăng giữa giàu và nghèo trên phạm vi cả nước.
Theo tác giả, sự phân hóa giàu nghèo ở đây không phải là biểu hiện của sự vi
phạm CBXH mà chính là biểu hiện của việc CBXH đang được lập lại: Ai làm
tốt, làm giỏi, làm nhiều, đóng góp nhiều vốn liếng... thì được hưởng nhiều; còn
ai làm dở, làm kém, làm ít, đóng góp vốn liếng ít thì được hưởng ít. Song, điều
đó không có nghĩa chúng ta chấp nhận và để cho tình trạng bất bình đẳng xã hội
gia tăng mà phải tìm cách hạn chế bớt bất bình đẳng để tiến tới dần xóa bỏ nó.
Cùng đề cập tới vấn đề thực hiện CBXH trong phân phối, tác giả Nguyễn

Duy Quý trong báo cáo “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” [49] khẳng định, CBXH trong phân phối ở nước
ta hiện nay cơ bản theo nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào


19
sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Cùng quan điểm
với tác giả Lê Hữu Tầng, không nhất thiết phải giàu có mới thực hiện CBXH,
hơn thế nữa càng chưa giàu có, càng nghèo khó lại càng phải thực hiện CBXH,
nếu muốn tạo ra bầu không khí hoà thuận, tin yêu lẫn nhau, nếu muốn giữ gìn
cho xã hội ổn định. CBXH chính là động lực mạnh mẽ của tăng trưởng kinh tế.
Nhờ giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới
chính sách xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về PTCN:
liên tục dẫn đầu các nước đang phát triển về thành tích xóa đói, giảm nghèo; đã
tăng cường khả năng tiếp cận với giáo dục tiểu học, nước sạch và vệ sinh môi
trường; giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi v.v.. Kết quả là đã cải thiện đáng
kể cuộc sống của người dân. Người dân Việt Nam giờ đây có tuổi thọ dài hơn,
sức khỏe tốt hơn.
Cũng theo hướng tiếp cận trên, báo cáo “Công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [49]
của tác giả Phạm Xuân Nam đã phân tích việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và
CBXH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta qua hơn 20
năm đổi mới đã góp phần nâng cao chỉ số PTCN: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
đời sống của đại đa số nhân dân được cải thiện rõ rệt; cả nước đã đạt chuẩn quốc
gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học; công tác chăm sóc sức khỏe nhân
dân có tiến bộ, tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên. Bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, tác giả đã nêu ra một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình
thực hiện CBXH ở Việt Nam: Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển
với mức thu nhập thấp; khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa

thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi đang doãng ra; việc xóa đói giảm
nghèo trong những năm gần đây có xu hướng chậm lại, số hộ tái nghèo do thiên
tai dịch bệnh có xu hướng tăng; tỷ lệ lao động thất nghiệp thành thị và thiếu việc
ở nông thôn còn cao; hiện tượng làm giàu bất chính do tham nhũng, buôn lậu,
lừa đảo, đầu cơ vẫn chưa được ngăn chặn. Theo tác giả, vấn đề đặt ra là cần phải
làm gì và làm như thế nào để phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục
những yếu kém còn lại, tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện
CBXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Còn trong cuốn Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội ở Việt
Nam hiện nay [60], những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện CBXH ở nước ta
hiện nay được các tác giả phân tích khá chi tiết. Các tác giả khẳng định, việc


20
thực hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đạt được nhiều kết quả đáng
kể, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển, được hưởng thụ giáo
dục, y tế và sự phát triển xã hội như nhau. Song, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, việc thực hiện CBXH ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định.
Trong kinh tế, sự bất công bằng trong việc phân phối các điều kiện, cơ
hội sản xuất kinh doanh vẫn còn tồn tại. Việc phân phối nguồn vốn đầu tư giữa
các vùng, miền vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến khoảng cách về điều kiện kinh tế
- xã hội, mức sống và trình độ phát triển của dân cư giữa các vùng, miền đất
nước, đặc biệt là khu vực miền núi còn chậm được thu hẹp. Việc ưu tiên, ưu đãi
các điều kiện phát triển sản xuất như đầu tư, quyền sử dụng đất đai, chính sách
tín dụng, thuế, còn thiên về thành phần, chưa căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ,
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp chưa thực sự được hoạt động
trong một sân chơi hoàn toàn công bằng, bình đẳng. Ở nông thôn, sự hiện diện
của một bộ phận nông dân không có ruộng đất, phải đi làm thuê và trở thành lớp
người nghèo trong xã hội cũng là một vấn đề liên quan đến CBXH.
Trong lĩnh vực xã hội, sự bất công và bất bình đẳng xã hội thể hiện ở

sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm; sự phân hóa giàu nghèo, chênh
lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng tăng lên. Vấn đề nghèo
đói làm gia tăng chênh lệch về mức sống, khả năng và điều kiện tiếp cận các
cơ hội phát triển.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế vẫn còn các hiện tượng bất CBXH: tình
trạng thương mại hóa giáo dục và y tế; vấn đề viện phí, học phí... là những rào
cản để người nghèo có cơ hội tiếp cận bình đẳng với giáo dục, y tế.
Những vấn đề mà các tác giả nêu ra bước đầu mới dừng lại ở việc đưa ra
ý kiến, chưa có sự phân tích đi sâu, song là những gợi ý để tác giả luận án tiếp
tục đi sâu, làm rõ.
Chương 3 của cuốn sách Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội [71], tác giả
Nguyễn Minh Hoàn đã góp phần làm rõ một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện
CBXH ở nước ta hiện nay. Trước tiên, việc thực hiện CBXH ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, song lại
làm gia tăng phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng. Đây là hệ quả tất yếu của việc
thực hiện nguyên tắc phân phối đảm bảo CBXH trong thời kỳ quá độ của nước ta
đi lên CNXH. Đó là điều chúng ta không mong muốn vì nó hoàn toàn không phù
hợp với mục tiêu xây dựng CNXH. Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe nhân


×