Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

TIỂU LUẬN: BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.71 KB, 107 trang )








TIỂU LUẬN:

BẢO Đ
ẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ
SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
















Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Để có được
công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, cần phải xác định và thực


hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp như Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra. Để phát huy vai trò động lực của công bằng xã hội, theo tác giả,
cần khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện công bằng xã hội hiện đang
còn tồn tại. Công tác lý luận cần hướng vào việc nghiên cứu và giải quyết nhiệm
vụ đó.
Mở đầu
Sự phát triển của một quốc gia không chỉ thể hiện ở sự phát triển về kinh tế, mà
còn thể hiện ở sự phát triển về xã hội. Sự phát triển về kinh tế và sự phát triển về
mặt xã hội có liên quan mật thiết với nhau. Công bằng xã hội là một nội dung
quan trọng trong sự phát triển về mặt xã hội. Trong một xã hội có tình trạng bất
công bằng, người bị đối xử bất công sẽ không thể phát huy hết tính tích cực của
mình; hơn nữa, họ luôn đấu tranh đòi công bằng, cuộc đấu tranh này không tránh
khỏi gây bất ổn định xã hội. Vì vậy, nếu quốc gia nào chỉ chú trọng phát triển về
kinh tế mà không chú trọng bảo đảm công bằng xã hội, thì sự phát triển về kinh tế
của quốc gia đó sẽ không bền vững.
1. Quan điểm coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển
xã hội ở Việt Nam
Công bằng xã hội luôn được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam coi vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong thời kỳ phong kiến và thuộc
địa, tình trạng bất công bằng rất nghiêm trọng. Nhờ giương cao ngọn cờ công
bằng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ phong kiến và thuộc địa, xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện ngay hàng loạt chính sách nhằm xoá bỏ


tình trạng bất công do xã hội trước để lại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân. Giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác trước đây, trước thời kỳ
đổi mới, Việt Nam cũng chủ trương quốc hữu hoá và tập thể hoá các tư liệu sản
xuất chủ yếu với hy vọng vừa có tăng trưởng kinh tế, vừa có công bằng xã hội.

Vào những năm đầu của thời kỳ này, thành tựu trong việc xoá bỏ bất công bằng xã
hội là rất to lớn. Đặc biệt, nhờ chính sách cải cách ruộng đất nên ước mơ “người
cày có ruộng” của hàng triệu nông dân đã trở thành hiện thực. Tuy nhiên, sau một
thời gian không lâu, sản xuất lại trở nên trì trệ, do đó đời sống nhân dân thấp kém
và đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của tình
hình sản xuất trở nên trì trệ là gì? Chắc chắn nó có nguyên nhân ở chỗ người lao
động không hoàn toàn phấn khởi để phát huy hết tính tích cực của mình. Nhưng vì
sao người lao động lại không hoàn toàn phấn khởi để phát huy hết tính tích cực
của mình? Đó là vì lợi ích chính đáng của họ chưa được đảm bảo, hay nói cách
khác, vì vẫn còn sự bất công bằng xã hội. Sự bất công của chế độ thực dân và
phong kiến được xoá bỏ thì bất công mới lại nảy sinh, đó là sự phân phối bình
quân, cào bằng.
Từ năm 1986, nhờ thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đã thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội và có được sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt: kinh
tế phát triển với tốc độ cao, xã hội ổn định, đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện hơn. Sở dĩ chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường đem lại sự phát triển vượt bậc như vậy là vì chủ
trương đó đã góp phần khắc phục sự bất công của chính sách phân phối bình quân,
cào bằng.
Xoá bỏ sự bất công của chính sách phân phối bình quân, cào bằng đương nhiên sẽ
làm cho khoảng cách giàu nghèo tăng hơn. Do đồng nhất sự bình đẳng với sự
công bằng, một số người cho rằng sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo là biểu
hiện của tình trạng bất công gia tăng. Cũng theo quan niệm của họ, hai mục tiêu
công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế không thể đồng thời đạt được; muốn có
tăng trưởng kinh tế thì phải chấp nhận sự bất công bằng xã hội và trong điều


kiện hiện nay, cần phải ưu tiên cho sự tăng trưởng kinh tế(1).
Khác với quan niệm trên đây, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, để đạt được

mục tiêu tăng trưởng kinh tế không nhất thiết phải hy sinh mục tiêu công bằng xã
hội. Công bằng xã hội không phải là nhân tố kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế; trái
lại, nó là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Bởi vì, nếu có công bằng xã
hội thì lợi ích chính đáng của mỗi người được bảo đảm, mỗi người được hưởng
tương xứng với cống hiến của mình; điều đó sẽ kích thích mọi người ra sức cống
hiến cho xã hội một cách tự nguyện nhất, từ đó kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, chúng ta không những có thể mà còn cần phải
thực hiện công bằng xã hội. Về điều này, Văn kiện Đại hội X của Đảng viết:
“Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục… giải
quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”(2). Quan điểm này
phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh cho rằng, “Không sợ thiếu, chỉ sợ không
công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”(3).
Trong điều kiện kinh tế thị trường, công bằng xã hội có thể và cần được bảo đảm.
Khi thừa nhận như vậy thì cần chú ý hai điểm sau đây. Thứ nhất, công bằng xã hội
không đồng nhất với bình đẳng xã hội, công bằng không phải là cào bằng; do đó,
không phải càng thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là càng công bằng, cũng không
phải càng gia tăng khoảng cách giàu nghèo là càng gia tăng sự bất công bằng. Sự
đồng nhất công bằng xã hội với bình đẳng xã hội đã từng là cơ sở lý luận của chủ
nghĩa bình quân, đồng thời là cơ sở lý luận của quan niệm sai lầm cho rằng không
thể đồng thời đạt được hai mục tiêu công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Thứ
hai, để có được công bằng xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường thì
cần phải xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp. Về nguyên tắc
phân phối phù hợp này, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng
thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh
doanh và thông qua phúc lợi xã hội"(4). Tiếp tục tinh thần đó, Văn kiện Đại hội



đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…, giải quyết
tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”(5).
Quan điểm trên thể hiện sự thay đổi quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam so với thời kỳ trước đổi mới về nguyên tắc phân phối bảo đảm công
bằng xã hội. Vì sao? Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, Việt
Nam cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác quan niệm rằng, nguyên tắc phân
phối bảo đảm công bằng xã hội là nguyên tắc phân phối theo lao động (làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng). Nguyên tắc phân phối
theo lao động đòi hỏi giá trị của tổng sản phẩm xã hội được chia thành hai phần:
phần thứ nhất được dành để tái sản xuất, để giải quyết các vấn đề xã hội chung, để
đóng góp vào quỹ phúc lợi xã hội và từ đó, phân phối thông qua phúc lợi xã hội;
phần thứ hai sẽ được phân phối cho các cá nhân theo mức cống hiến bằng sức lao
động của họ cho xã hội (bao gồm cả cống hiến bằng sức lao động chân tay và
cống hiến bằng sức lao động trí óc, cống hiến của người lao động quản lý và
người lao động không tham gia quản lý, cống hiến trực tiếp và cống hiến gián tiếp
cho quá trình sản xuất của xã hội, cống hiến của tất cả những người làm việc trong
mọi lĩnh vực không thể thiếu của xã hội). Nguyên tắc phân phối theo lao động
không dành phần nào để phân phối theo nguồn vốn.
Từ khi chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thực hiện nguyên tắc phân phối “theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và
các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”. Với
việc thực hiện nguyên tắc phân phối đó, Việt Nam đã xoá bỏ đáng kể sự bất công
do phân phối bình quân. Việc xoá bỏ sự bất công này là một nguyên nhân đưa đến
những thành công ngoạn mục của Việt Nam về kinh tế và xã hội, được cộng đồng
thế giới thừa nhận. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục với tốc độ cao. Bên



cạnh đó, Việt Nam cũng đạt được nhiều tiến bộ về văn hoá và xã hội: đời sống của
đa số nhân dân được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh chóng, xã hội không có
sự phân cực gay gắt, giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều
hơn, trình độ dân trí được nâng lên, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân
dân đạt nhiều kết quả, tuổi thọ trung bình của dân số tăng từ 67,8 (năm 2000) lên
71,5 (năm 2005), chính trị và xã hội ổn định(6). So với thời kỳ trước đổi mới, Việt
Nam đã tiến được một bước dài trên con đường thực hiện và đi tới mục tiêu công
bằng xã hội.
2. Một số thiếu sót trong việc bảo đảm công bằng xã hội hiện nay
Bên cạnh những thành công đó, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề
xã hội nan giải, trong đó có vấn đề bảo đảm công bằng xã hội. Trong những năm
gần đây, nhiều người giàu lên nhanh chóng. Một số người giàu lên bằng sự kinh
doanh chính đáng, hợp pháp. Một số người khác giàu lên bằng việc lợi dụng sơ hở
của hệ thống pháp luật để làm ăn một cách phi pháp. Nếu trong thời kỳ bao cấp
tình trạng bất công bằng xã hội xuất hiện do sự phân phối cào bằng, thì ngày nay
nguyên nhân hàng đầu gây ra tình trạng bất công là sự làm giàu bất hợp pháp, đặc
biệt là tham nhũng(7). Tham nhũng đang là quốc nạn ở Việt Nam, là mầm mống
gây ra sự bất ổn định xã hội, là một nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Cơ chế thị trường không phải là nguyên nhân gây ra tham nhũng. Nếu có một hệ
thống pháp luật phù hợp và sự thực thi pháp luật nghiêm minh thì tham nhũng
không thể tồn tại trong cơ chế thị trường. Như vậy, để xoá bỏ bất công thì phải
xoá bỏ sự làm giàu bất hợp pháp của một số người, nhưng muốn làm được điều đó
thì phải xây dựng được một hệ thống pháp luật phù hợp và phải thực thi pháp luật
một cách nghiêm minh.
Một nguyên nhân quan trọng khác gây ra tình trạng bất công bằng là sự bất hợp lý
trong phân phối của cải và cơ hội phát triển. Vì sự bất hợp lý đó mà có tình trạng
một số người có thu nhập cao hơn nhiều so với một số người khác mặc dù họ cùng
làm một công việc và với cường độ như nhau. Một số người giàu lên rất nhanh

nhờ lợi dụng được sự bất hợp lý trong chính sách của Nhà nước. Một số người vẫn
phải sống trong cảnh quá nghèo khổ trong khi thu nhập bình quân một người một


năm ở Việt Nam đã đạt khoảng 1000 USD(8). Trong số những người nghèo, nhiều
người không đáng phải chịu cảnh nghèo vì nguyên nhân gây ra sự nghèo là khách
quan chứ không phải do họ lười biếng.
Trong thời kỳ trước đổi mới, Việt Nam có một hệ thống giáo dục và y tế không
mất tiền, vì được nhà nước bao cấp. Còn hiện nay? Bên cạnh các cơ sở giáo dục
và y tế công lập, còn có các cơ sở giáo dục và y tế tư nhân. Các cơ sở giáo dục và
y tế tư nhân thì hoạt động theo cơ chế thị trường: người bỏ vốn ra kinh doanh có
mục đích thu lợi nhuận từ nguồn học phí của người học và viện phí của người
bệnh. Đó là điều bình thường. Các cơ sở giáo dục và y tế công lập, ngoài kinh phí
do nhà nước cấp, còn thu thêm học phí và viện phí. Điều này dẫn đến tình trạng là
chỉ những người có tiền đóng học phí và viện phí mới được hưởng dịch vụ giáo
dục và chữa bệnh từ các cơ sở giáo dục và y tế công lập. Các cơ sở giáo dục và y
tế công lập là tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Mọi người đều có quyền được hưởng
một phần dịch vụ giáo dục và y tế từ các cơ sở giáo dục và y tế này. Nhưng trên
thực tế, nhiều người có nhu cầu học tập hoặc chữa bệnh đã không được hưởng
quyền lợi từ các cơ sở giáo dục và y tế công lập do không có tiền đóng học phí và
viện phí. Đây là một biểu hiện của tình trạng bất công còn tồn tại ở Việt Nam.
Nhận diện sự bất công hợp pháp thường phức tạp hơn nhận diện sự bất công phi
pháp. Trong thời kỳ trước đổi mới, khi thực hiện sự phân phối bình quân để xoá
bỏ khoảng cách giàu nghèo giữa các bộ phận dân cư, chúng ta tưởng rằng như thế
là xoá bỏ được bất công nhưng thực ra lại là tạo ra sự bất công. Còn trong thời kỳ
đổi mới, tuy đã xoá bỏ sự phân phối bình quân, nhưng trên thực tế chúng ta vẫn
chưa thực hiện được sự công bằng vì sự bất hợp pháp và sự bất hợp lý trong phân
phối của cải và cơ hội phát triển. Khắc phục sự bất công này trước hết là trách
nhiệm của nhà nước.
Chúng ta không thể xoá bỏ kinh tế thị trường vì điều đó triệt tiêu động lực của sự

tăng trưởng kinh tế. Chúng ta cũng không thể để cho kinh tế thị trường hoạt động
tự phát mà không có sự điều tiết của nhà nước. Nhưng, điều tiết như thế nào để có
sự hợp lý trong phân phối của cải và cơ hội phát triển cho mọi người? Về vấn đề
này, Văn kiện Đại hội X của Đảng đã viết: “Lý luận chưa giải đáp được một số


vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và chất lượng
phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập
tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”(9). Do lý luận chưa giải
đáp được vấn đề nói trên, nên chúng ta vẫn chưa có những chính sách hợp lý để
khắc phục hoàn toàn sự bất công bằng đang tồn tại.
Kết luận
So với thời kỳ bao cấp, Việt Nam về cơ bản đã khắc phục được sự bất công do
phân phối bình quân. Tuy nhiên, tình trạng bất công ở Việt Nam hiện nay vẫn còn
khá nhức nhối. Để bảo đảm công bằng xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và còn thiếu thốn như hiện nay, điều quan trọng đầu tiên là cần phải xoá bỏ
được tình trạng nghèo khổ của một bộ phận dân cư do những nguyên nhân khách
quan. Nếu không làm được điều này thì đất nước ta sẽ chưa thể có sự phát triển
bền vững.r
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội
Việt Nam.
(1) Chẳng hạn, có ý kiến cho rằng, nước ta hiện nay có sự bóc lột hợp pháp và sự
bóc lột bất hợp pháp, loại bóc lột hợp pháp thì không thể xoá bỏ được trong điều
kiện hiện nay. Bóc lột là bất công. Vì vậy, theo ý kiến này thì trong điều kiện hiện
nay, chúng ta chưa thể xoá bỏ được sự bất công.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.77-78
(3) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.185.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.77-78.
(6) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ


X. Sđd., tr.57-59.
(7) Hiện chưa có công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu nào về thực trạng
tham nhũng ở Việt Nam. Tuy nhiên, một số tổ chức cũng đã có đánh giá bước đầu
về tình hình tham nhũng ở Việt Nam. Chẳng hạn, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (có
trụ sở ở Đức) từ năm 1995 đã khảo sát, cho điểm và xếp hạng tham nhũng của các
quốc gia. Năm 2004 Việt Nam được 2,6 điểm trên 10 và xếp hạng 102 trong 146
nước được đánh giá. Đứng đầu danh sách này là Phần Lan với 9,7 điểm. Đứng
cuối danh sách này là Haiti với 1,5 điểm. Không có nước nào đạt điểm tuyệt đối
(điểm 10). Nguồn: Vietnamnet ngày 5/12/2004.
(8) Khoảng cách giàu nghèo gia tăng giữa các bộ phận dân cư và tỷ lệ nghèo phần
nào nói lên tình trạng bất công của xã hội. Nếu xét theo nhóm dân cư, khoảng
cách giàu nghèo giữa nhóm có thu nhập thấp nhất và cao nhất ở Việt Nam đang
ngày một cách biệt. Khoảng cách này năm 1996 là 7,31 lần; năm 2001 - 2002 là
8,10 lần, năm 2003-2004 là 8,34 lần, còn bộ ba con số này giữa vùng Đông Nam
Bộ giàu nhất và vùng Tây Bắc Bộ nghèo nhất là 2,18 lần; 3,15 lần và 3,14 lần. Ở
thời điểm hiện nay, cùng với việc gia nhập WTO và động thái của thị trường thế
giới sắp tới, khoảng cách giàu nghèo có thể còn tiếp tục nới rộng ra nhanh hơn
nữa. Theo tiêu chí giai đoạn 2006 - 2010, hộ có thu nhập dưới 230.000
đồng/người/tháng ở thành thị và 200.000 đồng/tháng ở nông thôn là thuộc hộ
nghèo. Ở thời điểm cuối năm 2007, cả nước còn 14,8% hộ nghèo. Xu thế giảm
nghèo tuy rõ rệt ở tất cả các vùng, các đối tượng, song tỷ lệ nghèo và tốc độ giảm
nghèo có sự khác nhau khá rõ giữa các vùng miền. Đến cuối năm 2006, cả nước
còn 58 huyện có tỷ lệ nghèo trên 50%. Trong đó có 27 huyện có tỷ lệ hộ nghèo

trên 60%, 10 huyện trên 70% và 1 huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 80%. Nguồn:
Báo: Người lao động, ngày 13-1-2008.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Sđd., tr.69.





DIỄN VĂN C
ỦA CHỦ TỊCH VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM CHÀO
MỪNG HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ
“TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”
GS.TS.Đỗ Hoài Nam, Uỷ viên Trung ương Đảng,

Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Kính thưa: GS.Sayer, Tổng Giám đốc MISEREOR
Kính thưa các quý vị đại biểu
Kính thưa các học giả Việt Nam và quốc tế thân mến!
Trước hết, xin cho phép tôi được thay mặt Viện Khoa học xã hội Việt Nam nhiệt liệt
chào mừng các quý vị đại biểu, các học giả của các nước đến tham dự Hội thảo khoa
học quốc tế tổ chức tại Quận Đồ Sơn, Thành phố Hải Phòng với chủ đề “Trách
nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường” - một chủ đề có ý nghĩa lý luận quan
trọng và giá trị thực tiễn đặc biệt to lớn. Có thể khẳng định rằng, trong bối cảnh hiện
nay, vấn đề trách nhiệm xã hội là một trong những mối quan tâm hàng đầu không chỉ
của những nhà hoạt động chính trị, những nhà khoa học, mà của toàn nhân loại, của
tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Kính thưa các quý vị đại biểu
Kính thưa các học giả!
Cách đây hơn 1 năm, tại Hà Nội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã phối hợp với

MISEREOR lần đầu tiên đồng tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về chủ đề “Công
bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội” với sự tham dự của đông đảo các
học giả trong nước và quốc tế. Để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển quan hệ hợp tác trên
lĩnh vực khoa học nhằm trao đổi các kết quả nghiên cứu cũng như chia sẻ những
kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn của mỗi bên, hôm nay, chúng ta lại cùng tổ
chức một diễn đàn khoa học mới đề cập tới một vấn đề cụ thể, mang tính chuyên sâu
hơn, có tính thực tiễn hơn - đó là trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường.
Như chúng ta đã biết, sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, đã làm cho sức mạnh của
con người được nhân lên gấp bội. Biết bao phát minh, thành tựu to lớn của khoa học
công nghệ trong thế kỷ XX đã thể hiện năng lực sáng tạo phi thường của con người,


giúp con người biến những điều trước đây là không thể trở thành cái có thể, biến ước
mơ thành hiện thực. Phải thừa nhận rằng, khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang
là công cụ đắc lực để con người xây dựng một cuộc sống ngày càng giàu có, tiến bộ
và văn minh hơn. Song, cũng có một thực tế không thể phủ nhận được là, đi ngược
lại với xu thế phát triển tích cực của nhân loại, vẫn có những toan tính lợi dụng
những tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ cho mục tiêu phi nhân tính và trái với
lợi ích chung. Chẳng hạn, thay vì sử dụng với mục đích phát triển và hoà bình, năng
lượng hạt nhân đang bị lạm dụng trong cuộc chạy đua vũ trang giữa các cường quốc,
biến thành công cụ “răn đe” nước khác. Tương lai của thế giới, của loài người sẽ ra sao
nếu chiến tranh hạt nhân - cuộc chiến mang tính huỷ diệt xảy ra? Đây chỉ là một trong
số rất nhiều vấn đề buộc chúng ta phải suy nghĩ một cách nghiêm túc.
Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang ngày càng lan rộng với
quy mô, tính chất và cường độ ngày càng lớn. Chúng ta đã nhận thấy từ quá trình đó
cả những cơ hội lẫn thách thức, cả những thuận lợi lẫn khó khăn đối với sự tồn tại,
phát triển của tất cả các quốc gia, dân tộc trên toàn cầu. Đứng trước làn sóng này, số
phận của các quốc gia dân tộc, đặc biệt là các nước nghèo và chậm phát triển sẽ như

thế nào?
Hiện nay, nền kinh tế thị trường đang được phát triển ở hầu hết các quốc gia và vùng
lãnh thổ trên khắp các châu lục. Kinh tế thị trường với các quy luật của nó đang có
những tác động đa chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đến sự phát triển của các quốc gia
và đời sống của con người. Ngoài những ưu điểm, như tạo nên sự năng động cao và
tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, cũng không thể không thấy rằng, dường như kinh
tế thị trường đang làm cho quan hệ giữa con người với con người, không chỉ ngoài
xã hội mà cả trong gia đình, ngày càng trở lên lạnh lùng hơn. Sức mạnh của đồng
tiền trong điều kiện kinh tế thị trường đang làm tha hoá con người, xói mòn những
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, làm thực dụng hoá những mối quan hệ vốn
mang tính nhân bản, nhân văn trong đời sống xã hội. Có thể nói, chưa bao giờ tính
hai mặt của kinh tế thị trường lại bộc lộ rõ rệt đến như vậy. Đó thực sự là những
tiếng chuông cảnh tỉnh nếu con nguời không muốn thương mại hoá cuộc sống, không
muốn làm cho mọi mối quan hệ trở nên xơ cứng và thực dụng.
Phải chăng, sự bất bình đẳng giữa các quốc gia, giữa con người với con người, nguy


cơ khủng hoảng sinh thái toàn cầu, nạn khủng bố, nghèo đói và bệnh tật cùng với sự
xuống cấp trong đời sống tinh thần của con người, tựu trung lại là sự hiện diện và
có xu hướng lan rộng của các phản giá trị trên phạm vi toàn cầu đang phản ánh một
thực tế là trách nhiệm xã hội của các cá nhân và cộng đồng còn bị coi nhẹ, chưa được
đề cao và phát huy? Rõ ràng, trong bối cảnh mới với hàng loạt vấn đề phức tạp đặt ra
như vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta phải đặc biệt coi trọng và suy nghĩ một cách
nghiêm túc về sự phát triển trong tương lai, tìm ra những lời giải tối ưu cho sự phát
triển bền vững, tiến bộ và văn minh của các cá nhân, các cộng đồng và toàn nhân
loại. Nói một cách khái quát, chúng ta phải cùng nghiền ngẫm sâu sắc hơn nữa về
vấn đề trách nhiệm xã hội, biến trách nhiệm xã hội từ nhận thức trở thành hành động
phổ biến của mọi chủ thể. Sự vô trách nhiệm, dù là của một cá nhân hay của một
cộng đồng và ở bất kỳ phương diện nào - từ chính trị đến kinh tế, từ văn hoá đến đạo
đức, sẽ đưa lại những hậu quả nghiêm trọng. Nếu các chủ thể thiếu ý thức và hành

động mang tính trách nhiệm cao thì rất có thể những hệ giá trị, những thành quả phát
triển tốt đẹp mà nhân loại đã đạt được sẽ bị đảo ngược, sẽ không thể có một thế giới
phát triển vì con người, cho con người.
Trách nhiệm xã hội là ý thức của mọi chủ thể về nghĩa vụ, bổn phận của mình đối
với xã hội, với cộng đồng và với người khác; được biểu hiện qua nhận thức và hành
động cụ thể trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự
nhiên. Về thực chất, trách nhiệm xã hội được hình thành từ quyền và nghĩa vụ của cá
nhân đối với xã hội cũng như của xã hội đối với cá nhân. Cơ sở của trách nhiệm
chính là lợi ích. Do vậy, việc coi trọng và giải quyết một cách thoả đáng, hợp lý quan
hệ lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế giữa các chủ thể (cá nhân, cộng đồng và xã hội)
không chỉ tạo nên động lực thúc đẩy các chủ thể trong quá trình thực hiện lợi ích của
mình, mà còn làm tăng sự quan tâm của họ tới lợi ích của người khác, của xã hội,
nghĩa là gia tăng trách nhiệm xã hội của các chủ thể. Nói cách khác, trách nhiệm xã
hội được coi là chìa khoá của sự phát triển xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Trách nhiệm phản ánh mối quan hệ qua lại giữa cá nhân với cộng đồng (nhóm, tập
thể) và xã hội. Mỗi cá nhân, bên cạnh những quyền được thừa nhận và bảo đảm bằng
pháp luật, còn phải có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội; ngược lại, cộng đồng
và xã hội cũng phải có trách nhiệm đối với các thành viên của mình. Chỉ có như vậy


mới tạo nên sự đồng thuận, phát triển hài hoà và bền vững của xã hội với tư cách một
chỉnh thể thống nhất. Sự phát triển trách nhiệm của con người không chỉ là một tiêu
chí quan trọng thể hiện trình độ phát triển của xã hội, mà hơn thế, còn là nền tảng, là
cơ sở và động lực của sự phát triển xã hội.
Vấn đề đặt ra không chỉ là nhận diện trách nhiệm xã hội và luận giải thấu đáo các nội
dung đa dạng của nó, mà quan trọng hơn là, từ những nghiên cứu lý luận và tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn của mỗi nước, cần phải làm thế nào để phát huy được trách
nhiệm xã hội, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế? Đó cũng chính là mục tiêu cơ bản nhất mà cuộc Hội thảo của chúng ta hôm
nay hướng đến.

Kính thưa các quý vị đại biểu
Kính thưa các học giả!
Hôm nay, tại diễn đàn khoa học này, tôi rất vinh dự được thay mặt Viện Khoa học xã
hội Việt Nam phát biểu chào mừng các quý vị và khai mạc Hội thảo quốc tế của
chúng ta. Với tinh thần khoa học, đoàn kết và hợp tác vì sự phát triển chung, chúng
ta hy vọng sẽ nhận được những ý kiến tâm huyết và đầy chất trí tuệ của các nhà khoa
học trong nước và quốc tế. Chúng tôi tin tưởng rằng, tại Hội thảo này, các quý vị đại
biểu và các học giả sẽ có những nghiên cứu sáng tạo trong việc nhận diện, định vị và
lý giải những vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường với tư cách một vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng hàng đầu của thế
giới đương đại trong những năm đầu thế kỷ XXI nhằm góp vào việc xây dựng một thế
giới ngày càng phát triển, tiến bộ và mang đậm tính nhân văn vì mục tiêu là phát triển
con người. Tôi mong rằng, tất cả chúng ta hãy thể hiện trách nhiệm xã hội của mình
đối với sự phát triển của quốc gia, của khu vực và toàn cầu vừa với tư cách công dân,
vừa với tư cách nhà khoa học.
Chúc Hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn!


TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM: M
ỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CẤP BÁCH


PHẠM VĂN ĐỨC(*)
Bài viết tập trung phân tích nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vai trò
của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp và một số vấn đề đặt ra
trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo tác
giả, việc các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội không chỉ giúp bản thân
doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của

xã hội. Trên cơ sở làm rõ những lợi ích to lớn từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp và đánh giá khái quát tình hình thực thi trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp.
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, sự thành công trong việc đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế đang đặt ra cho đất nước nhiều vấn đề về môi trường và
xã hội bức xúc. Chính những vấn đề đó đang đòi hỏi các chủ thể kinh tế, trong đó có
cả các doanh nghiệp, phải có trách nhiệm để góp phần giải quyết, nếu không bản
thân sự phát triển kinh tế sẽ không bền vững và sẽ phải trả giả quá đắt về môi trường
và những vấn đề xã hội.
Trên thực tế, không phải đến bây giờ, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
mới được đặt ra; mà trái lại, ngay trong thời bao cấp, người ta cũng đã nói nhiều về
trách nhiệm xã hội của các xí nghiệp đối với nhà nước và người lao động, cũng như
đối với cộng đồng nói chung. Nhưng, trong những năm gần đây, trách nhiệm xã hội
được hiểu một cách rộng rãi hơn, không chỉ từ phương diện đạo đức, mà cả từ
phương diện pháp lý. Những tác hại về môi trường do một số doanh nghiệp gây ra
trong thời gian qua không những bị dư luận lên án về phương diện đạo đức, mà quan
trọng hơn là cần phải được xử lý nghiêm khắc về phương diện pháp lý. Do đó, không
phải ngẫu nhiên, trong những năm gần đây, trên sách báo và nhiều diễn đàn ở Việt
Nam, thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệpđã và đang được sử dụng ngày
càng phổ biến. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ và được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Trong
bài viết này, chúng tôi muốn tập trung làm rõ nội dung trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp, vai trò của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và một số vấn


đề thực tiễn đang được đặt ra ở Việt Nam hiện nay.

1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: một số vấn đề lý luận
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện cách đây

hơn 50 năm, khi H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm
xã hội của doanh nhân” (Social Responsibilities of the Businessmen) (1953) nhằm
mục đích tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các
quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại
do các doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một
số người xác định “trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một
mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash,
Sethi, 1975: 58 - 64). Một số người khác hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối
với các tổ chức tại một thời điểm nhất định” (Archie. B Carroll, 1979), v.v
Hiện đang tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp. Những người ủng hộ quan điểm thứ nhất cho rằng, doanh nghiệp không có
trách nhiệm gì đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao động
của doanh nghiệp, còn nhà nước phải có trách nhiệm với xã hội; doanh nghiệp đã có
trách nhiệm thông qua việc nộp thuế cho nhà nước. Trái lại, những người khác lại có
quan điểm cho rằng, với tư cách là một trong những chủ thể của nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp đã sử dụng các nguồn lực của xã hội, khai thác các nguồn
lực tự nhiên và trong quá trình đó, họ gây ra những tổn hại không tốt đối với môi
trường tự nhiên. Vì vậy, ngoài việc đóng thuế, doanh nghiệp còn có trách nhiệm xã
hội đối với môi trường, cộng đồng, người lao động, v.v
Còn ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa
của Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp. Theo đó, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate
Social Responsibility - CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát
triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời
sống của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã


hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”(1).

Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những
chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao
động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố,
các mặt, như: 1. Bảo vệ môi trường; 2. Đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3. Thực hiện
tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; 4. Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng;
5. Quan hệ tốt với người lao động; và 6. Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao
đông trong doanh nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên
ngoài của doanh nghiệp, còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của
doanh nghiệp. Tất nhiên, sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách nhiệm bên
trong chỉ có ý nghĩa tương đối và không thể nói trách nhiệm nào quan trọng hơn trách
nhiệm nào.
Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát triển bền vững,
mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói chung.
Như chúng ta đều biết, ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến
lược và được đề ra từ những năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với thời gian, khái niệm
phát triển bền vững đã có sự thay đổi về nội hàm và ngày càng được bổ sung thêm
những nội dung mới.
Xét về nguồn gốc, thuật ngữ phát triển bền vững ra đời từ những năm 70 của thế kỷ
XX và bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu về môi trường và phát triển
quốc tế nhờ sự ra đời của công trình Chiến lược bảo tồn thế giới(1980)(2). Sau đó, tư
tưởng về phát triển bền vững được trình bày trong một loạt công trình, như Tương
lai chung của chúng ta (1987), Chăm lo cho trái đất (1991)(3) Khi nói về sự phát
triển bền vững, người ta thường sử dụng hai định nghĩa đã được nêu ra trong các
cuốn sách nói trên. Trong cuốn Tương lai chung của chúng ta, phát triển bền vững
được hiểu là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai; còn trong cuốn Chăm lo cho trái
đất, phát triển bền vững được xác định là việc nâng cao chất lượng đời sống con



người khi đang tồn tại trong khuôn khổ bảo đảm các hệ sinh thái. Nhìn chung, cả hai
định nghĩa đó đều quy phát triển bền vững về việc sử dụng một cách hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi truờng sao cho thế hệ hôm nay vẫn phát triển được
mà không làm ảnh hưởng đến tương lai của các thế hệ sau.
Như vậy, nếu xét theo nguồn gốc của thuật ngữ, phát triển bền vững là một sự phát
triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa có thể thỏa mãn được nhu
cầu của thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu
và môi trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự phát triển bền vững là
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo
đảm sự công bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo
vệ môi trường.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài nội dung trên đây, khái niệm phát triển bền vững còn
được bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Việt Nam đang chủ trương xây dựng chiến
lược phát triển bền vững phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Nội
dung cơ bản của chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam bao gồm:
Một là, phát triển nhanh phải đi đôi với tính bền vững. Điều đó phải được kết hợp ở
cả tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả tầm ngắn hạn lẫn dài hạn.
Hai là, tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
Ba là, trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi
trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
Bốn là, phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con
người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện
đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo.
Năm là, phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát
triển.
Sáu là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, coi
đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững(4).



Có thể nói, đây là những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển bền vững của
Việt Nam. Chiến lược đó đã thể hiện khá rõ sự kết hợp giữa quan điểm truyền thống,
kinh điển và quan điểm mới, riêng của Việt Nam.
Trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam, chúng ta có thể nhận
thấy rằng:
Thứ nhất, yếu tố ổn định chính trị - xã hội được xem là tiền đề, điều kiện để phát
triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, chiến lược phát triển nhanh, bền vững tập trung nâng cao chất lượng phát
triển, kết hợp giữa phát triển kinh tế với việc phát triển toàn diện con người, thực
hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng
bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.
Thứ ba, chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam đã đề cập một cách khá toàn
diện các khía cạnh khác nhau của sự phát triển, trong đó nổi lên việc giải quyết hài
hòa các mối quan hệ, như hài hòa giữa phát triển nhanh và bền vững, giữa tăng
trưởng về số lượng và nâng cao chất lượng, giữa phát triển theo chiều rộng và phát
triển theo chiều sâu; hài hòa giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi trường, v.v Hài hòa là một
trong những nội dung quan trọng của chiến lược phát triển bền vững.
Thứ tư, vấn đề trọng tâm, mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển bền vững chính
là vấn đề dân sinh. Điều đó được thể hiện trong nội dung của chiến lược mà chúng
tôi vừa trình bày. Chiến lược phát triển nhanh và bền vững đã chú trọng đến chất
lượng của sự tăng trưởng kinh tế, những mục tiêu của sự tăng trưởng hướng tới sự
phát triển toàn diện của con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội,
tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong
từng bước phát triển. Rõ ràng, mục tiêu của sự tăng trưởng như vậy là nhằm giải
quyết ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh, bảo đảm cho mọi người dân có cuộc sống

ấm no và hạnh phúc. Trên thực tế, chiến lược phát triển nhanh, bền vững là phương
thức hữu hiệu bảo đảm cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,


với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Rõ ràng là, với mục tiêu của phát triển bền vững như vậy, việc thực hiện trách nhiệm
của doanh nghiệp góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển bền vững của Việt
Nam.
Mặt khác, khi tiếp cận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chúng ta cần tiếp cận cả
trên phương diện đạo đứclẫn phương diện pháp lý. Chúng ta không nên chỉ hiểu
trách nhiệm của doanh nghiệp ở khía cạnh đạo đức của chủ doanh nghiệp, ở công tác
từ thiện của doanh nghiệp, mà cần hiểu cả ở khía cạnh pháp lý, tức thực thi trách
nhiệm xã hội là một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Việc kết hợp cả hai
phương diện đạo đức và pháp lý là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nâng
cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: một số vấn đề thực tiễn của Việt Nam
Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trách nhiệm xã
hội không còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội
của mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử
(Code of Conduct hay gọi tắt là CoC). Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những
người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ
trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với
quyền của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp
không thực hiện trách nhiệm xã hội có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường
quốc tế.
Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm xã
hội thì lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích
mà doanh nghiệp thu được khi thực hiện trách nhiệm xã hội bao gồm giảm chi phí,
tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng
suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới. Chúng ta có thể dẫn ra đây một số

ví dụ về lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Thứ nhất, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng suất. Một
doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt các thiết bị


mới. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất bao bì lớn của Ba Lan đã tiết kiệm được
12 triệu đô la Mỹ trong vòng 5 năm nhờ việc lắp đặt thiết bị mới, nhờ đó làm giảm
7% lượng nước sử dụng, 70% lượng chất thải nước và 87% chất thải khí(5).
Chi phí sản xuất và năng suất lao động phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống quản lý nhân
sự. Một hệ thống quản lý nhân sự hiệu quả cũng giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí
và tăng năng suất lao động đáng kể. Chế độ lương, thưởng hợp lý, môi trường lao
động sạch sẽ và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục đều
góp phần giảm tỷ lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, do đó giảm chi phí tuyển dụng và đào
tạo nhân viên mới. Tất cả cái đó góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao
động.
Thứ hai, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Mỗi doanh nghiệp
đều đứng trên địa bàn nhất định. Do đó, việc đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa
phương có thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và đáng tin cậy
hơn và nhờ đó tăng doanh thu. Chẳng hạn, Công ty Hindustan Lever, một chi nhánh
của tập đoàn Unilever tại Ấn Độ, vào đầu những năm 70 chỉ hoạt động được với
50% công suất do thiếu nguồn cung ứng sữa bò từ địa phương và do vậy, đã bị lỗ
trầm trọng. Để giải quyết vấn đề này, công ty đã thiết lập một chương trình tổng thể
giúp nông dân tăng sản lượng sữa bò. Chương trình này bao gồm đào tạo nông dân
cách chăn nuôi, cải thiện cơ sở hạ tầng cơ bản và thành lập một ủy ban điều phối
những nhà cung cấp địa phương. Nhờ đó, số lượng làng cung cấp sữa bò đã tăng từ 6
tới hơn 400, giúp cho công ty hoạt động hết công suất và đã trở thành một trong
những chi nhánh kinh doanh lãi nhất tập đoàn(6).
Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín
của công ty. Trách nhiệm xã hội có thể giúp doanh nghiệp tăng giá trị thương hiệu và
uy tín đáng kể. Đến lượt nó, uy tín giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, hấp dẫn các

đối tác, nhà đầu tư và người lao động. Trên thế giới, những công ty khổng lồ đang
chi một khoản tiền rất lớn để trở thành hình mẫu kinh doanh lý tưởng. Chẳng hạn,
hãng điện tử dân dụng Best Buy đã có chương trình tái chế sản phẩm; hãng cà phê
nổi tiếng Starbucks đã và đang bắt tay vào các hoạt động cộng đồng; hãng nước
khoáng nổi tiếng của Pháp Evian phân phối sản phẩm của mình trong những chai


nước thân thiện với môi trường. Những tập đoàn đa quốc gia như The Body Shop
(tập đoàn của Anh chuyên sản xuất các sản phẩm dưỡng da và tóc) và IKEA (tập
đoàn kinh doanh đồ dùng nội thất của Thụy Điển) là những ví dụ điển hình. Cả hai
công ty này đều nổi tiếng không chỉ vì các sản phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý
của mình, mà còn nổi tiếng là các doanh nghiệp có trách nhiệm đối với môi trường
và xã hội(7).
Thứ tư, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. Nguồn
lao động giỏi, có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm của
doanh nghiệp. Có một thực tế là, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực được
đào tạo có chất lượng cao không nhiều. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là
làm thế nào thu hút, giữ chân họ và phát huy hết khả năng của họ trong hoạt động
quản lý, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, việc thu hút và giữ được
nhân viên có chuyên môn tốt là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp. Trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường, những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và
công bằng, tạo cho nhân viên cơ hội đào tạo, có chế độ bảo hiểm y tế và môi trường
làm việc sạch sẽ có khả năng thu hút và giữ được nguồn nhân lực có chất lượng
cao.
Tất cả những điều nói trên là cơ sở để luận chứng cho sự cần thiết phải thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, đồng thời là những kinh nghiệm bổ
ích, có giá trị tham khảo cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là vấn
đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Bằng chứng
là, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động

Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may
trao giải thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền
vững” nhằm tôn vinh các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã
nhận thấy rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những
yêu cầu không thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của


doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp
khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản
xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến
hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực
hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, doanh thu của các doanh
nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8
triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%. Bên cạnh hiệu
quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo được sự
gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được lực lượng
lao động có chuyên môn cao(8).
Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội
trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt
Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký thực hiện trách nhiệm
xã hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng
đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua ở Việt Nam, nhiều
doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội của mình.
Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo cáo tài chính, không
bảo đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô
nhiễm môi trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư của các Công ty

Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, công ty Hyundai
Vinashin (Khánh Hòa), các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con
người, như nước tương có chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol,
thực phẩm chứa hàn the, sữa có chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi
phạm các quy định pháp luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao
động cho người lao động cũng không còn là hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây
bức xúc cho xã hội.
Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng và những giải
pháp để khắc phục tình trạng đó.


Hiện đang có những ý kiến khác nhau về nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện
trách nhiệm xã hội của nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số người cho rằng,
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được luật hóa ở tất cả các
doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu, do yêu cầu của
khách hàng nên buộc phải thực hiện trách nhiệm xã hội, còn đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ, do khó khăn về tài chính và thiếu ràng buộc về pháp lý nên nhiều doanh
nghiệp chỉ hiểu trách nhiệm xã hội là “các khoản đóng góp từ thiện”. Một số người
khác cho rằng, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí cho doanh
nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích trước
mắt, do đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ không muốn thực hiện trách nhiệm xã hội.
Nói tóm lại, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam còn
tương đối khó khăn. Sở dĩ như vậy trước hết là do sự hiểu biết chưa đầy đủ của
doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội; trách nhiệm xã hội doanh nghiệp chỉ đơn thuần
được hiểu là các khoản đóng góp từ thiện. Thứ hai, việc thực hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp cũng gây ra những khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp do
thiếu nguồn vốn và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội. Điều
này đặc biệt khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó hầu hết các
doanh nghiệp ở Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nói một cách toàn diện hơn, theo nghiên cứu năm 2002 của Ngân hàng thế giới tại

Việt Nam, những rào cản và thách thức lớn nhất cho việc thực hiện trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp bao gồm:
1. Nhận thức về trách nhiệm xã hội trong và giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn có
sự khác nhau khá lớn.
2. Năng suất lao động bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng bộ nhiều bộ quy tắc ứng
xử (CoC).
3. Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
4. Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy tắc ứng xử của khách đặt hàng gây
nhầm lẫn cho doanh nghiệp, chẳng hạn như vấn đề làm thêm hay hoạt động của công


đoàn.
5. Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên thực
tế đang cản trở lợi ích thị trường tiềm năng mang lại cho doanh nghiệp.
6. Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước khiến cho việc áp dụng bộ quy tắc
ứng xử không đem lại hiệu quả mong muốn, ví dụ như mức lương, phúc lợi và các
điều kiện tuyển dụng(9).
Những nguyên nhân được liệt kê ra trên đây có thể quy lại thành ba nguyên nhân
chính, đó là nguyên nhân về nhận thức,nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân pháp lý.
Do đó, để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, cần bám sát những nguyên nhân
nói trên để đề ra những giải pháp phù hợp. Cụ thể là:
Thứ nhất, cần tuyên truyền, giáo dục cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là các
chủ doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, phải làm cho họ hiểu
rằng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không phải chỉ bó gọn trong công tác từ
thiện. Công tác tuyên truyền, giáo dục rất quan trọng, bởi tất cả những hành vi của
con người đều thông qua ý thức của con người, đều do ý thức của họ điều khiển. Do
đó, vấn đề đặt ra là, phải làm sao cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trở thành động cơ bên trong của các chủ doanh nghiệp. Việc thực hiện trách
nhiệm xã hội trước hết cần được xem là một hành vi đạo đức và được điều khiển

bằng động cơ đạo đức. Đây chính là giải pháp bên trong đạo đức.
Thứ hai, cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực
thi trách nhiệm xã hội một cách đầy đủ và nghiêm túc. Điều này liên quan đến trách
nhiệm của nhà nước trong việc tạo môi trường và khung pháp lý cho doanh nghiệp
hoạt động. Khung pháp lý chính là biện pháp có hiệu lực nhất đối với việc thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; đồng thời, là giải pháp hỗ trợ đắc lực cho giải
pháp về đạo đức, làm cho các động cơ đạo đức thường xuyên được củng cố và ngày
càng có hiệu lực trên thực tế. Cái khó khăn cho Việt Nam và các nước đang phát
triển nói chung là trong bối cảnh cần phải thu hút đầu tư nước ngoài, nếu đặt nặng
các mục tiêu về môi trường và xã hội thì các doanh nghiệp khó có thể thu hút đầu tư
nước ngoài. Nhưng, nếu không đặt mạnh vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp thì những hậu quả về môi trường và xã hội sẽ không thể bù đắp được bằng


các kết quả của sự tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu phát triển bền vững, do vậy, cũng
không thể thực hiện được.
Kết luận
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là vấn đề tương đối mới mẻ với Việt Nam.
Song, trong những năm gần đây, trước thảm họa về môi trường và những hậu quả
tiêu cực về xã hội do các doanh nghiệp gây ra, vấn đề trách nhiệm xã hội được đặt ra
một cách cấp bách. Ở Việt Nam, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững. Để thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam, thì việc tuyên truyền, giáo dục
trách nhiệm xã hội và việc hoàn thiện hành lang pháp lý để thực hiện nó là việc làm
cấp thiết.r
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Tổng biên tập Tạp chí Triết học,
Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Trích theo: ThS.Nguyễn Thị Thu Trang. Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp.
Xem: http//www. Doanhnhan360.com/PortletBlank.aspx/44D1988963164E.

(2) Xem: IUCN. World conservation strategy: Living resource conservation for
sustainable development. IUCN, Gland, Switzeland, 1980.
(3) Xem: World Commission on Environment and Development. Our common future.
Oxford University Press, Oxford and New York, 1987; IUCN/UNEP/WWF. Caring
for the earth: A strategy for sustainable living. IUCN, Gland, Switzeland, 1991.
4) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.178 - 179.
(5) Xem:
(6) Xem:
(7) Xem:
(8) Xem:
(9) Xem:www.doanhnhan360.com/PortletBlank.aspx/44D1988963164E

×