Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng và đánh giá các tiêu chí phát triển con người tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.94 KB, 15 trang )

Thực trạng và đánh giá các tiêu chí phát triển con
người tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay
2.1 Đánh giá các tiêu chí cấu thành HDI
2.1.1 Tiêu chí thu nhập
-Mức độ thu nhập:
GDP bình quân đầu người trên cơ sở cân bằng sức mua (PPP USD) và GDP bình
quân đầu người thực tế (USD) từ năm 1990-2009
Năm
GDP bình quân đầu
người
(PPP USD)
GDP bình quân đầu
người
thực tế (USD)
1990 1.000
105
1993 1.100
-
1994 1.250
-
1995 1.010
288
1996 1.040
-
1997 1.208
-
1998 1.236
-
1999 1.630
-
2000 1.689


391
2001 1.860
413
2002 1.996
440
2003 2.070
492
2004 2.300
552
2005 2.490
636
2006 2.745
723
2007 3.071
835
2008 3.331 1.024
2009 3445 1.060
Gần 20 năm phát triển (1990-2008) tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN liên tục giữ ở mức
cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2008 là 7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế
cao, trong khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình quân
trên đầu người mỗi năm một tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của VN chỉ khoảng
trên 100 USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008,
GDP trên đầu người đạt 1.024 USD/người, với mức thu nhập này, VN lần đầu tiên thoát ra
khỏi nhóm nước nghèo (nhóm nước có thu nhập thấp nhất: GDP/người dưới 935 USD).
GDP trên đầu người năm 2009 đạt 1.060 USD, Việt Nam phấn đấu GDP trên đầu người
năm 2010 đạt 1.200 USD.
-Các thành tựu đạt được:
Theo tính toán từ các số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP bình quân đầu người tính bằng
USD, nếu năm 1995 nước ta mới đạt 288 USD, đứng thứ 10 khu vực, thứ 44 châu Á, thứ
177 thế giới, tức là còn là một trong hơn 20 nước có mức GDP bình quân đầu người thấp

nhất thế giới, thì đến năm 2003 đã đạt 492 USD, tương ứng đứng thứ 7, thứ 39, thứ 142.
Đến nay, với con số hơn 1.000 USD/người, năm 2008 đã đánh dấu mốc phát triển của nền
kinh tế VN chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập trung
bình dưới với GDP bình quân đầu người khoảng từ 936 đến 3.705 USD.
Ngày 14/4/2010, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố đánh giá của Nhóm đánh giá độc
lập (IEG) của WB, trong đó cho rằng những thành tựu phát triển của Việt Nam trong nhiều
năm qua là "rất ấn tượng". Năm 2009, Việt Nam đã chuyển từ nước nghèo sang nước có
thu nhập trung bình. IEG cho rằng với tốc độ tăng trưởng trung bình 7,2%/năm trong thập
kỷ trước khi xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009, khoảng 35 triệu người Việt
Nam đã thoát nghèo.
-Những vấn đề còn tồn tại
Mặc dù, năm 2008 là năm đánh dấu Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước nghèo nhưng theo
xếp hạng của Ngân hàng thế giới tháng 10/2008 thì Việt Nam đứng hạng 170 về thu nhập
bình quân đầu người tính theo tỷ giá VNĐ/USD, và đứng thứ 156 về thu nhập bình quân
tính đầu người theo phương pháp sức mua tương đương (PPP) trong tổng số 207 nước,
vùng lãnh thổ. Quy mô GDP, qui mô xuất khẩu chiếm tỷ trọng tương ứng là 0,34% và
0,3% so với tổng giá trị nền kinh tế và xuất khẩu của toàn thế giới. Các chỉ số xếp hạng về
môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, tham nhũng và chỉ số phát triển giáo dục của
Việt Nam đều có vị trí xếp hạng thấp trong các nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, do bị ảnh
hưởng bởi lạm phát nên GDP trên đầu người tính theo sức mua tương đương ở Việt Nam
còn cao hơn nhiều so với thực tế. Lạm phát đã làm giảm sức mua của người nghèo và làm
tăng bất bình đẳng về thu nhập.
Số liệu về mức chêch lệch năm 1993 phản ánh phân bố thu nhập theo vùng là di sản từ
nhiều năm nay. Tính lịch sử này có lẽ do phân bố tài nguyên thiên nhiên phục vụ nông
nghiệp không đồng đều, và do nông nghiệp vẫn là nguồn thu nhập chính của các vùng cho
đến nay. Hiện tượng đô thị hóa gia tăng, đặc biệt với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội,
Hải Phòng và Đà Nẵng cũng rất đáng lưu tâm.
CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA CÁC VÙNG:
Phân bố thu nhập đầu người theo vùng – 1993
Vùng Thu nhập đầu người

(1000 đồng)
Số dân thành thị
(100000 người)
Số dân nông thôn
(100000 người)
Tỉ số thu nhập đầu
người nông thôn so
với thành thị
1 1258 1576,5 10532,8 0,16
2 1811 2385,6 11429,2 0,15
3 1215 936,2 8580,7 0,17
4 1444 1704,9 5669,8 0,32
5 1364 671,5 2232,0 0,43
6 4524 4008,1 4684,8 0,18
7 1818 2364,5 13167,1 0,36
Cả
nước
1949 13647,3 56296,4 0,20
Vùng 1 : Trung du Bắc bộ
Vùng 2 : Đồng bằng sông Hồng (gồm những thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định...)
Vùng 3 : Khu bốn cũ
Vùng 4 : Duyên hải miền Trung
Vùng 5 : Tây Nguyên
Vùng 6 : Đông Nam bộ (gồm TP Hồ chí Minh, Gia Định, Biên Hòa, Vũng Tàu...)
Vùng 7 : Đồng bằng sông Cửu Long
CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA THÀNH THỊ - NÔNG THÔN
Sự chêch lệch thu nhập thành thị và nông thôn cũng là một sự kiện thường thấy ở những
nước nông nghiệp. Từ những thập niên vừa qua, giá quốc tế những mặt hàng nhóm một
(nông, lâm sản, nguyên liệu thô, sơ chế) giảm đi so với giá những mặt hàng công nghiệp.
Vì công nghiệp thường có địa bàn hoạt động trong thành thị và vùng lân cận, mức thu nhập

của dân thành thị tăng lên so với dân ở nông thôn. Ngoài ra, những tiến bộ kỹ thuật trong
nông nghiệp và công nghiệp chế biến khiến mức cầu lao động nông nghiệp giảm, lượng
cung lao động vượt cầu, gây thêm tác động tiêu cực trên mức thu nhập của người dân ở
nông thôn. Ngày nay, với sự phát triển của khâu dịch vụ cũng chủ yếu là ở thành thị, sự
chêch lệch thu nhập này lại càng tăng thêm.
Thu nhập ở thành thị và nông thôn của các vùng - 1993
Vùng Tổng thu nhập

(tỉ đồng)
Thu nhập đầu
người nông
thôn
(nghìn đồng)
Tổng thu nhập
nông thôn
(tỉ đồng)
Thu nhập đầu
người thành thị

(nghìn đồng)
Tổng thu
nhập thành
thị
(tỉ đồng)
1 15233533 747,25 7870700 4670,35 7363807
2 25008100 915,0 10452777 6100,00 14552160
3 11563155 820,8 7043039 4828,04 4519973
4 10649066 968,3 5490261 3025,8 5158989
5 3960374 1044,0 2330208 2427,8 1630268
6 39327132 1459,2 6836060 8106,4 32491261

7 28236450 1430,1 18830126 3972,5 9392976
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học vừa công bố tại Hội nghị cập nhật nghèo do Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức cuối tháng 3 năm 2007: khoảng cách giữa các nhóm
người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất đang bị nới rộng một cách liên tục và đáng kể.
Cụ thể là: năm 1993, chi cho tiêu dùng bình quân đầu người của gia đình giàu nhất cao gấp
5 lần so với gia đình nghèo nhất thì tỷ lệ này tăng lên 6,3 lần vào năm 2004. Do vậy, tỷ lệ
chi tiêu bình quân đầu người của nhóm giàu nhất trong tổng chi tiêu dùng xã hội tăng từ
41,8% lên 44,7%, trong khi đó nhóm nghèo nhất lại giảm từ 8,4% xuống còn 7,1% ở cùng
thời kỳ. Mặc dù đời sống của người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm, nhưng chỉ số bất
bình đẳng về thu nhập (Gini) ở Việt Nam còn cao, và tăng qua các năm (năm 2004 Gini là
0,423, năm 2006 hệ số này là 0,425). Hệ số Gini cao thể hiện phân hóa thu nhập, phân hóa
giàu nghèo cao giữa các tầng lớp dân cư.
-Kết luận:
Khi thu nhập tăng, mức sống của dân cư được đảm bảo các mặt về thể lực, trí lực và tinh
thần được quan tâm tích cực và ngược lại, khi thu nhập giảm mức độ chi tiêu của dân cư sẽ
giảm tác động tiêu cực đến chất lượng dân số. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân
phối thu nhập đang có xu hướng gia tăng, người giàu càng giàu thêm, các khu đô thị thành
phố càng ngày càng phát triển trong khi người nghèo càng ngày càng khó thoát nghèo, và
những vùng sâu vùng sa và những vùng đặc biệt khó khăn vẫn chưa có khả năng phát triển,
do thiếu vốn, thiếu lao động do đó chất lượng dân số vẫn ở mức thấp. Thu nhập tăng và
phân phối thu nhập tiến đến sự hợp lí luôn luôn là cái hướng đến của toàn xã hội.
Chúng ta có thể thấy được rằng là thu nhập bình quân đầu người ở nước ta ngày càng gia
tăng, điều này được thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người cũng như tốc độ tăng trưởng
GDP, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm dần theo các năm và mức sống của đại bộ phận dân
cư được cải thiện rõ rệt. Để đạt được những thành quả đó thì chúng ta phải kể đến các
chính sách của Nhà nước, trong quá trình phát triển kinh tế có sự hài hòa giữa các vùng,
giữa các nền kinh tế được chú trọng phát triển cũng như là các chính sách hỗ trợ người
nghèo phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần phải chú trọng đến các chính sách phát triển toàn diện để tránh
rơi vào những cái “bẫy” thu nhập trung bình như các nước Đông Nam Á khác.

2.1.2 Tiêu chí tuổi thọ
- Mức tuổi thọ
Có cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe là một tiêu chí để đánh giá về sự phát triển của con
người. Và chỉ số tuổi thọ đã được chọn làm thước đo cho tiêu chí này. Chỉ số tuổi thọ được
tính như sau:
Chỉ số tuổi thọ trung bình T =
Tuổ i thọ trung bình−25
85−25
(Với quy ước: 85 là giá trị cực đại và 25 là giá trị cực tiểu của tuổi thọ)
Gần 20 năm nay từ 1990, UNDP (chương trình phát triển của Liên hiệp quốc) đều đặn
công bố các Báo cáo phát triển con người HDR (Human Development Report). Các báo
cáo HDR từ năm 1990 đến năm 2007 đã thống kê rằng:
Tuổi thọ bình quân trung bình của Việt Nam :
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tuổi
thọ
bình
quân
trung
bình
62,7 63,4 66,0 66,4 67,4 67,8 67,8 68,2 68,6 69,0 70,5 70,8 73,7
- Việt Nam trong so sánh với một số nước ASEAN và châu Á
Nước Tuổi thọ T Ghí chú
Singapore 79,4 0,907 > VN
Hàn Quốc 77,9 0,882 > VN
Brunây 76,7 0,862 > VN
Malayxia 73,7 0,812 = VN
Thái Lan 71,5 0,776 < VN
Trung Quốc 72,5 0,792 < VN
Philippin 71 0,767 < VN

Việt Nam 73,7 0,812
Inđônêxia 69,7 0,745 < VN
Ấn Độ 63,7 0,645 < VN
Mianma 60,8 0,596 < VN
Ở bảng này, Việt Nam hơn được Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Ấn Độ,
Mianma.
- Những thành tựu đạt được :
Trong các chỉ số phát triển cấu tạo nên HDI, Việt Nam có chỉ số tuổi thọ tương đối có sự
lạc quan. Tính ra trong 13 năm, từ năm 1993 đến năm 2005, ta đã nâng tuổi thọ bình quân
lên 11 tuổi. Việt Nam cũng có thứ hạng cao về tuổi thọ trên thế giới (T = 0,812, tuổi thọ
bình quân 73,7, xếp thứ 56/177 nước). Theo số liệu mới mà chương trình phát triển Liên

×