Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người ở việt nam hiện nay (tTT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.41 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh HoànGS. TS
NGUYỄN VĂN BÍCH

Phản biện 1: ...................................................................
...................................................................

Phản biện 2: ...................................................................
...................................................................

Phản biện 3: ...................................................................
...................................................................

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi 17 giờ 00 ngày 08 tháng 11 năm 2

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Lịch sử loài người là lịch sử các nền văn minh, văn hoá gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển con người (PTCN). Khái niệm PTCN đã được sử
dụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một thuật ngữ thông dụng.
Hơn 150 năm trước, khi khẳng định tiến trình lịch sử của loài người là sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã nói tới sự phát
triển toàn diện con người là thước đo chung cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Phấn đấu vì sự nghiệp PTCN đã trở thành mục tiêu chung của các Đảng
Cộng sản trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng
như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Vấn đề ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh
tế - xã hội và PTCN thường được nhiều quốc gia ưu tiên hàng đầu khi hoạch
định các chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế không phải quốc gia
nào cũng làm được điều này. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra
những cơ hội to lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế,
nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã hội.
Trên thế giới, người ta cũng đã đề cập nhiều đến sự phát triển không đồng
đều giữa kinh tế và xã hội, giữa các vùng, khu vực, sự gia tăng của nạn
nghèo khổ trong nhiều dân tộc, quốc gia, sự xa cách giàu nghèo giữa các tầng

lớp nhân dân v.v.. Một điều có thể khẳng định là, sự chênh lệch lớn giữa các
tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền đã làm mất cơ hội phát triển của nhiều
nhóm người, nhiều cộng đồng và chính điều này là nguyên nhân sâu xa của
những vấn đề xã hội và sẽ làm tăng thêm gánh nặng của quốc gia, cộng đồng
trong tương lai. Do đó, PTCN bền vững luôn đi liền với CBXH.
Ở Việt Nam, xuyên suốt lịch sử, con người luôn hiện ra như một giá trị
nhân văn cao cả nhất. PTCN toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt trong mọi
chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Để có thể PTCN toàn diện, mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều hướng tới chăm lo đến tất
cả các mặt liên quan đến đời sống con người: từ đời sống vật chất đến đời
sống tinh thần; từ vấn đề kinh tế đến vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ
sở công bằng, bình đẳng. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta không những đề ra nội dung, phương thức thực hiện CBXH hội trên
các mặt của đời sống xã hội, mà còn chỉ ra những điều kiện để thực hiện
CBXH: thực hiện tiến bộ và CBXH ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế.
Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được
những kết quả khả quan góp phần quan trọng vào PTCN Việt Nam toàn diện,


2

đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, sự chênh
lệch về PTCN giữa các địa phương, dân tộc, tầng lớp xã hội, vấn đề đói
nghèo, việc làm, v.v.. đang là một thách thức cho PTCN bền vững ở nước ta
hiện nay. Để đạt được sự PTCN bền vững cần phải có sự phân bổ công bằng
giá trị do tăng trưởng mang lại, tạo cơ hội cho nhóm người thiệt thòi vươn
lên. Muốn vậy, Nhà nước phải có những chính sách xã hội phù hợp, phải tạo
dựng được bộ máy và các nguyên tắc làm việc minh bạch, làm công cụ để

quản lý, tổ chức việc thực hiện CBXH. Cùng với đó, sự tham gia của người
dân vào việc ban hành các quyết định và giám sát việc thực thi các quyết
định đó là một đảm bảo cho chính sách PTCN được thực thi vì lợi ích người
dân, hướng vào nhu cầu của người dân.
Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết trên đây, tác giả lựa chọn đề tài
“Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người ở Việt Nam hiện
nay” làm luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN

2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò
của thực hiện CBXH đối với việc PTCN, luận án phân tích thực trạng và đề
xuất một số giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt CBXH nhằm PTCN ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về CBXH, thực hiện CBXH,
PTCN và vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN.
- Phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành
tựu và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam từ đổi
mới đến nay.
- Đề xuất các giải pháp giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực
hiện CBXH với việc PTCN ở nước ta hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở
Việt Nam dưới góc độ triết học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở

Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Cở sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH,


3

CBXH; đồng thời, luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu có giá trị của các
công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử lôgic, so sánh, phân tích - tổng hợp v.v.. để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

- Luận án đã tiếp cận khái niệm CBXH, thực hiện CBXH dưới góc độ
PTCN, chỉ ra và làm rõ những nội dung của thực hiện CBXH với việc PTCN.
- Luận án đã đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những thành
tựu và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCNi ở Việt Nam hiện
nay. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH
vì mục tiêu PTCN ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN

Luận án có giá trị tham khảo đối với việc nghiên cứu lý luận về CBXH,
thực hiện CBXH và PTCN ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập triết học và các ngành khoa học xã
hội nhân văn.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể giúp người làm công tác quản lý
xã hội xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo thực hiện
CBXH, PTCN.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN
CHUNG VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI

1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về
công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội
Trên thế giới, vấn đề CBXH được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu,
trong đó phải kể đến các tác phẩm tiêu biểu: Bàn về khế ước xã hội của J.J
Rousseau, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2006; Principles of social
justic của David Miller, Principles of social just, Harvard University press
xuất bản năm 2009; The idea of justice của Amartya Sen, Harvard University
press, xuất bản năm 2009; Báo cáo phát triển thế giới 2006: Công bằng và
phát triển của Ngân hàng Thế, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, năm 2005


4

v.v.. Về cơ bản, các nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải cơ sở xã hội, cơ
sở nhận thức của con người về CBXH; những vấn đề đặt ra trong quá trình
thực hiện CBXH trong thời đại ngày nay. Đồng thời, cũng tùy thuộc vào bối
cảnh xã hội của mỗi quốc gia mà các nghiên cứu này gợi ý những phương án

thực thi CBXH cụ thể.
* Các công trình nghiên cứu trong nước
Xung quanh khái niệm CBXH, có các công trình tiêu biểu: Hiện đại hóa
xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội do tác giả Lương Việt Hải làm chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2008; Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Công bằng
xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội do các tác giả Phạm Văn Đức,
Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich Dornberg làm chủ biên, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, năm 2008; Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội
trong điều kiện nước ta hiện nay do Phạm Thị Ngọc Trầm chủ biên Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, năm 2009; Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội của tác
giả Nguyễn Minh Hoàn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2009 v.v.. Các
công trình đã cho chúng ta thấy được những quan niệm khác nhau về CBXH
trong lịch sử triết học Đông và phương Tây cũng như các quan niệm hiện đại về
CBXH, đặc trưng, bản chất và nội dung của CBXH.
Có nhiều công trình nghiên cứu về thực hiện CBXH, tuy nhiên, phần lớn các
công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc thực hiện CBXH,
còn vấn đề lý luận thực hiện CBXH gần như chưa có công trình nào đề cập đến.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về công CBXH
và thực hiện CBXH phong phú, được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều thống nhất ở quan điểm coi
CBXH là một giá trị định hướng con người sinh sống và phát triển, thực
hiện CBXH là mục tiêu của các nhà nước dân chủ và tiến bộ. Thực hiện
CBXH được thể hiện tập trung ở hai nội dung chính là đảm bảo công bằng
trong phân phối và công bằng về cơ hội.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về
phát triển con người và thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển
con người
Xung quanh vấn đề PTCN ở nước ta hiện nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu: cuốn sách Con người và phát triển con người trong quan niệm
của C.Mác và Ph.Ăngghen do Hồ Sĩ Quý làm chủ biên, Con người và phát

triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội năm 2003; Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
Việt Nam toàn diện của tác giả Nguyễn Hữu Công, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, năm 2010; tác giả Phạm Minh Hạc với ba cuốn sách tiêu
biểu: Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1996; Nghiên cứu con người và


5

nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2001, Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu PTCN theo quan điểm mácxít
trong những năm gần đây xuất hiện cách tiếp cận mới theo phương pháp lượng
hóa PTCN, trong đó phải kể đến: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001 Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam của Trung tâm Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001; Phát triển con
người Việt Nam năm 2011, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2011; Báo cáo
Phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm - Tăng trưởng vì
mọi người của UNDP, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2015.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTCN rất
phong phú, đa dạng, tiếp cận dưới nhiều góc độ. PTCN bị quy định bởi nhiều
yếu tố trong đó có CBXH. Các nghiên cứu bước đầu đã chỉ ra được vai trò
của việc thực hiện CBXH đối với việc PTCN.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC
TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI

Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng thực hiện CBXH
với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay phải kể đến cuốn sách Công bằng xã

hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội do các tác giả Phạm Văn Đức,
Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich Dornberg làm chủ biên với các báo
cáo: “Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp” - tác giả Đỗ
Huy; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công
bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” - tác giả Lê Hữu Tầng; “Công bằng xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - tác giả
Nguyễn Duy Quý; “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - tác giả Phạm Xuân Nam;
cuốn sách Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội do tác giả Lương
Việt Hải làm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2008; cuốn sách
Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta
hiện nay do Phạm Thị Ngọc Trầm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
năm 2009; Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội của tác giả Nguyễn Minh
Hoàn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2009; v.v..
Thông qua những phân tích của các nhà nghiên cứu có thể thấy, thực
hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu to
lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tăng trưởng và
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trình độ dân trí, sức khỏe của
người dân cũng được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại không
ít hiện tượng bất công, bất bình đẳng cản trở sự PTCN. Tuy nhiên, các công
trình mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá chung chung hoặc đi vào một khía


6

cạnh của thực trạng thực hiện CBXH tác động đến sự phát triển kinh tế, tiến
bộ xã hội. Chưa có công trình nào đi sâu phân tích thực trạng thực hiện
CBXH tác động đến việc PTCN Việt Nam hiện nay.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Để phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam
hiện nay cần đưa ra một hệ thống các giải pháp đồng bộ. Ở mức độ nhất định,
các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã đưa ra những giải
pháp cơ bản.
Những giải pháp mà các tác giả đưa ra rất phong phú mà tác giả luận án
có thể tiếp thu. Có thể khái quát lại thành những nhóm giải pháp chủ yếu: hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và thực thi đầy
đủ các chính sách xã hội, nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện
CBXH, tích cực phòng chống tham nhũng. Các tác giả tùy theo góc độ nghiên
cứu của mình tập trung nhấn mạnh vào một vài nhóm giải pháp hoặc mới chỉ
nêu tên các nhóm giải pháp. Điều này đòi hỏi tác giả luận án cần tiếp tục đi sâu
nghiên cứu và làm rõ.
1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

Các công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề PTCN và thực hiện CBXH có
thể nói là đa dạng. Những kết quả to lớn về mặt khoa học mà các công trình
nghiên cứu trên đã đạt được là những tài liệu tham khảo bổ ích cho những nghiên
cứu tiếp theo của chúng tôi. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về con
người và PTCN, vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN được các tác giả đề
cập đến rất ít, có thể nói là không đáng kể. Còn trong các công trình nghiên cứu về
CBXH và thực hiện CBXH, các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu dưới góc độ
kinh tế, tiến bộ xã hội, một số công trình đề cập đến thực hiện CBXH trong công
tác chăm sóc sức khỏe, trong giáo dục. Cho đến nay, theo chúng tôi được biết thì
chưa có công trình nghiên cứu nào thuộc chuyên ngành triết học nghiên cứu dưới
góc độ vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN. Đây là hướng nghiên cứu mới
đòi hỏi phải có sự đi sâu, tìm tòi, phân tích.
Trên cơ sở kế thừa kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước đó, duới góc

độ triết học, luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về CBXH, thực hiện
CBXH, PTCN, vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN.
Thứ hai, làm rõ thực trạng vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN ở
Việt Nam hiện nay. Tìm ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực
hiện CBXH đối với PTCN ở Việt Nam trong thời gian tới.


7

Chương 2
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
2.1. CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI

2.1.1. Quan điểm của triết học Mác về công bằng xã hội
Xem xét từng thời kỳ khác nhau trong lịch sử của xã hội loài người,
triết học Mác coi CBXH là một phạm trù có lịch sử và có tính giai cấp. Triết
học Mác đã chỉ ra, ai nắm quyền sở hữu TLSX chủ yếu của xã hội thì là
người quyết định việc phân phối sản phẩm, đồng thời là giai cấp thống trị xã
hội. Nhà nước tư bản tuyên bố công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật,
nhưng trên thực tế, giai cấp tư sản chi phối sản xuất, phân phối sản phẩm xã
hội thì cũng chi phối phối pháp luật và các quan hệ xã hội chủ yếu khác. Để
xây dựng một xã hội công bằng thực sự, phải làm cho mọi người bình đẳng
trong quan hệ sở hữu, tức phải làm cho mọi người phải ngang bằng về địa vị
trong quan hệ đối với TLSX. Đó chính là xuất phát điểm bình đẳng làm cơ sở
để thực hiện được công bằng thực sự trong xã hội. Trong CNXH, CBXH là
làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Mặc dù vậy, triết học Mác cũng đã
chỉ rõ rằng, trong điều kiện của CNXH, sự phân phối công bằng đó chẳng

những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một
tình trạng “bất bình đẳng” nhất định giữa các thành viên trong xã hội, tức vẫn
chưa có CBXH hoàn toàn. CBXH thật sự sẽ đạt được khi xã hội bước vào
giai đoạn cao - giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Nguyên tắc phân phối: “làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Lúc này, CBXH đồng nhất với bình
đẳng xã hội, còn bình đẳng ở đây đạt tới trình độ bình đẳng hoàn toàn, con
người được hoàn toàn giải phóng, được hoàn toàn tự do phát triển toàn diện
những năng lực bản chất của mình.
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công bằng xã hội
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội
Quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH rất phong phú, thể hiện trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị; văn hóa - xã hội... Để
thực hiện CBXH hội, theo Người, phải xử lý thật tốt mối quan hệ giữa chính
sách phát triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội, phải tính đến điều
kiện đặc thù của nước ta là nền kinh tế kém phát triển, phải trải qua những
cuộc chiến tranh kéo dài nên ngoài những vấn đề chung phải có trọng tâm,


8

chú ý đến các đối tượng chính sách, các vùng dân tộc miền núi, vùng căn cứ
cách mạng, coi trọng xóa đói giảm nghèo…, chú trọng đến lợi ích cá nhân.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH luôn gắn liền với vấn đề con
người. Mọi suy nghĩ và hành động của Người đều toát lên tư tưởng chủ đạo
coi con người là trung tâm của sự phát triển, mọi chính sách phát triển kinh tế
- xã hội của Đảng và Nhà nước đều phải vì con người, cho con người. Thực
hiện CBXH chính là giải quyết mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ,
giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thành viên trong xã hội; là việc tạo ra
điều kiện cho mỗi người có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển của xã

hội và hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, là đảm bảo quyền tự do
của mỗi người trong quan hệ gắn bó với cộng đồng. Tư tưởng của Người về
vấn đề này là một trong những đóng góp quan trọng cho sự phát triển lý luận
của CNXH nói chung, lý luận về CBXH nói riêng.
* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội
Quan điểm của Đảng ta về CBXH hội có thể khái quát ở những điểm
cơ bản sau: Một là, Đảng ta xác định CBXH là một trong những đặc trưng cơ
bản của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, là cơ sở cho sự PTCN; Hai
là, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với CBXH; Ba là, về nội dung của thực
hiện CBXH, thể hiện ở 2 nội dung chính: phân phối công bằng và tạo điều
kiện cho mọi người có cơ hội để phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình;
Bốn là, điều kiện để thực hiện CBXH: xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, cùng với đó tăng cường hiệu lực quản lý của nhà
nước trên các mặt giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, văn hóa...
2.1.3. Một số quan điểm hiện đại về công bằng xã hội
Trên thế giới ngày nay, công bằng hơn bao giờ hết đang trở nên là điều
kiện tối cần thiết để con người được tự do, hạnh phúc. Trong điều kiện đó,
nhiều lý thuyết mới về CBXH đã ra đời, phản ánh những biến đổi trong nhận
thức về CBXH. Theo J.Rawls, một thể chế xã hội được coi là công bằng khi
các cá nhân tự nguyện tham gia vào hợp tác xã hội cho dù có sự khác biệt
bẩm sinh và địa vị xã hội trong cơ chế hợp tác xã hội chung. Còn theo Iris M.
Young, muốn thực hiện CBXH thì phải phân phối công bằng, bên cạnh việc
phân chia mọi nguồn của cải vật chất, còn phải phân chia cả quyền tự chủ
cho mỗi cá nhân, thực hiện phân công lao động và văn hóa. UNDP cho rằng,
nội dung bao trùm của CBXH là công bằng về cơ hội phát triển.
Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu về CBXH, dưới các góc
độ triết học, kinh tế học, chính trị học, luật học… Tùy theo góc độ nghiên
cứu, các tác giả đưa ra quan niệm của mình về CBXH. Phổ biến hiện nay là



9

cách luận giải khi tập trung vào quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực
phân phối sản phẩm xã hội, tập trung ở nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống
hiến) ngang nhau thì sẽ được hưởng quyền lợi (hưởng thụ) ngang nhau.
2.1.4. Khái niệm công bằng xã hội, thực hiện công bằng xã hội
2.1.4.1. Khái niệm công bằng xã hội
Đứng trên lập trường duy vật của học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí
Minh về CBXH, đồng thời tiếp thu những giá trị trong quan niệm của các
nhà nghiên cứu đi trước và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới
góc độ tiếp cận vai trò CBXH đối với việc PTCN, theo chúng tôi, công bằng
xã hội là một giá trị nhằm định hướng cho sự phát triển con người được hình
thành trên cơ sở của bình đẳng giữa những con người về nghĩa vụ và quyền
lợi, về cống hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và
điều kiện phát triển… trên mọi phương diện của đời sống xã hội, phù hợp với
điều kiện hiện thực của xã hội.
Từ những phân tích ở trên CBXH gồm những đặc trưng sau:
Thứ nhất, CBXH là một giá trị nhằm xác lập mối quan hệ giữa người
với người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc tương
xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa phẩm
chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển.
Thứ hai, CBXH là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể.
Thứ ba, CBXH là một trường hợp riêng của bình đẳng xã hội.
Công bằng xã hội có 2 nội dung chính: công bằng trong phân phối và
công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển.
2.1.4.2. Khái niệm thực hiện công bằng xã hội
Thực hiện CBXH là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống
chính trị, các lực lượng, tổ chức xã hội và người dân theo chức năng, vị trí,
vai trò của mình làm cho những nội dung của công bằng xã hội trở thành
hiện thực trong đời sống xã hội.

Xét trong phạm vi một quốc gia, chủ thể thực hiện CBXH gồm: đảng
cầm quyền, nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các lực
lượng, tổ chức xã hội, người dân ở quốc gia đó. Ngoài ra, còn các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức hoạt động nhân đạo, từ thiện... hỗ trợ, tham gia thực
hiện CBXH. Tùy theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong xã
hội, từng tổ chức sẽ tiến hành các hoạt động cụ thể để các nội dung của
CBXH thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Việc thực hiện CBXH do nhiều nhân tố tác động, trong đó phụ thuộc
chặt chẽ vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất (thông qua trình độ


10

phát triển kinh tế), vào chế độ chính trị, vào các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc và tính chất của thời đại.
2.2. PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

2.2.1. Quan niệm của triết học Mác về phát triển con người
Triết học Mác ra đời thực sự là bước ngoặt cách mạng trong quan niệm
về con người, đặc biệt là những luận điểm về giải phóng và PTCN. Với luận
điểm coi con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử; con người là
động lực và cũng là mục đích của sự phát triển xã hội, con người đã bằng
hoạt động thực tiễn cách mạng của chính mình để phát triển bản thân mình
và thông qua đó làm cho xã hội phát triển. PTCN là giải phóng con người
khỏi mọi sự tha hóa, khỏi sự phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của
chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó, con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự
tự do và năng lực làm chủ xã hội của mình. Để con người được phát triển
toàn diện cần xây dựng một xã hội công bằng - xã hội xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng về giải phóng con người, về PTCN của các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta cơ sở phương pháp

luận trong việc xem xét, đánh giá các quan điểm hiện đại về PTCN, cũng như
xem xét, đánh giá các vấn đề thực tiễn của PTCN trong giai đoạn hiện nay.
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển con người
Lý luận của chủ nghĩa Mác về PTCN đã được Hồ Chí Minh tiếp thu,
vận dụng sáng tạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với quan niệm con
người là một thực thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố, sự kết hợp chặt chẽ
giữa nhiều yếu tố, các mặt, Hồ Chí Minh cho rằng, muốn PTCN thì phải xây
dựng và phát triển các bộ phận cấu thành nên chỉnh thể đó: thể lực, trí lực và
tâm lực. Theo Hồ Chí Minh, muốn PTCN toàn diện cả về thể lực, trí lực và
tâm lực, thì nhất thiết phải tạo lập được các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội vững chắc phù hợp. Hồ Chí Minh coi thực hiện CBXH là một động
lực rất quan trọng để PTCN. Chỉ sống trong một xã hội công bằng thực sự
con người mới có được cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh
đã chỉ ra nội dung thực hiện CBXH trên những lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội; cũng như cách thức để thực hiện CBXH.
Vận dụng đúng đắn và sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênnin, kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh về CBXH, suốt những năm lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, con người là vốn
quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao
nhất của chế độ ta. Con người được coi là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là


11

mục tiêu của sự phát triển và xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Tiếp thu những
yếu tố tích cực trong quan điểm về PTCN trên thế giới, đặc biệt là quan niệm
của Liên hợp quốc về bộ tiêu chí đánh giá sự PTCN, nội dung cụ thể của con
người Việt Nam phát triển toàn diện ngày càng được chỉ ra rõ ràng hơn cả về
mặt định tính và về mặt định lượng, cả mục tiêu chung cũng như các mục

tiêu cụ thể. Để có thể PTCN toàn diện, phải chăm lo đến tất cả các mặt liên
quan đến đời sống con người: từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần; từ
vấn đề kinh tế đến vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ sở công bằng,
bình đẳng và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng góp phần mở
rộng cơ hội và nâng cao điều kiện cho con người phát triển.
2.2.3. Quan điểm hiện đại về phát triển con người
Có thể nói, thuật ngữ “phát triển con người” chính thức được biết đến và
sử dụng rộng rãi kể từ năm 1990 khi Báo cáo đầu tiên về phát PTCN của
UNDP ra đời. Theo quan điểm của Chương trình này, PTCN có hai chiều cạnh
quan trọng là: mở rộng quyền tự do lựa chọn và nâng cao năng lực của con
người. Quan điểm của UNDP về PTCN đã được lượng hóa bằng các chỉ số HDI
với ba chỉ số quan trọng: thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ và giáo dục.
Đây là ba chỉ số đặc trưng cho các phương diện cơ bản của con người.
Từ toàn bộ quan điểm của triết học Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm hiện đại về PTCN có thể hiểu, phát triển con người là kết quả vận động
và phát triển xã hội bị quy định bởi tổng hòa các quan hệ xã hội, trong đó cốt
lõi là các quan hệ xã hội công bằng làm định hướng chung của các giá trị của
xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa của các xã hội cụ thể.
Trên cơ sở đó, hội tụ đầy đủ các điều kiện để con người trở thành chủ thể toàn
vẹn trong chỉnh thể phong phú của năng lực thể chất và năng lực tinh thần, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội hiện đại.
Như vậy, PTCN là sự gia tăng các giá trị trong con người trên cả ba
mặt: thể lực, trí lực và tâm lực. Sự PTCN không chỉ đơn thuần là sự phát
triển tự thân mà còn chịu tác động của nhiều nhân tố, có những nhân tố trực
tiếp, có những nhân tố tiếp, có những nhân tố bên trong, có những nhân tố
bên ngoài, có những nhân tố của quá khứ, cũng có nhân tố của thực tại.
Trong đó kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là những thành tố cơ bản tác động
trực tiếp đến sự PTCN. PTCN không phải chỉ là sự phát triển các mặt của cá
nhân con người, mà là sự phát triển các mặt đó ở những tầng lớp người, cộng
đồng người, những lứa tuổi, những giới tính người. Do đó, thực hiện CBXH

là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu để đảm bảo cho mọi người


12

dân của của quốc gia đó đều có cơ hội và điều kiện để phát triển, cũng như
được được hưởng thụ những thành quả của quá trình phát triển đất nước.
2.3. VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI

Thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay được hiểu là
những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống chính trị, các lực lượng, tổ
chức xã hội và người dân Việt Nam theo chức năng, vị trí, vai trò của mình
làm cho những nội dung của công bằng xã hội trở thành hiện thực trong đời
sống xã hội chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, từ
đó tạo động lực, cơ hội và điều kiện cho sự phát triển con người, đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội hiện đại. Cụ thể:
2.3.1. Thực hiện công bằng xã hội đảm bảo điều kiện kinh tế cho sự
phát triển con người
Thực chất của CBXH là giải quyết trên phương diện lợi ích. Thực hiện
CBXH đảm bảo sự thống nhất lợi ích giữa các thành viên trong xã hội theo
nguyên tắc phân phối lợi ích phù hợp giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến
và hưởng thụ, giữa thưởng và phạt... Thực hiện CBXH đảm bảo mỗi cố gắng,
mỗi đóng góp đều được đánh giá một cách thỏa đáng, đảm bảo sự hài hòa
giữa những lợi ích cá nhân và cộng đồng. Khi lợi ích của người lao động
được đảm bảo sẽ kích thích tính năng động, sáng tạo của họ. Có CBXH,
người lao động mới phát huy hết nhiệt tình và khả năng lao động, không
ngừng nâng cao năng suất lao động để tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có
chất lượng cao, thúc đẩy kinh tế phát triển. Kinh tế phát triển góp phần nâng
cao đời sống của người lao động (đời sống vật chất và lẫn đời sống tinh

thần). Mặt khác, để nâng cao năng suất, người lao động không ngừng suy
nghĩ, tìm tòi, tích cực học tập nâng cao tay nghề, kỹ năng. Thông quá đó, bản
thân người lao động cũng không ngừng phát triển. Do đó, để phát huy được
vai trò động lực của CBXH trước hết đòi hỏi phải đảm bảo thực hiện CBXH
trong phân phối.
Đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất (tư liệu sản xuất): đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, vốn, sự hỗ trợ từ chính sách..., thực hiện công bằng trong
phân phối có nghĩa cần căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội. Việc phân phối
công bằng kết quả sản xuất phụ thuộc vào quan hệ sản xuất. Xét trong điều
kiện thực tiễn nước ta hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN có 3 hình thức phân phối cơ bản: phân phối theo lao động, phân phối
theo mức đóng góp vốn và tài sản vào sản xuất, phân phối thông qua phúc lợi
xã hội và an sinh xã hội, trong đó, phân phối theo lao động vẫn luôn được
xác định là nguyên tắc phân phối chủ đạo.


13

2.3.2. Thực hiện công bằng xã hội tạo cơ hội và điều kiện cho sự
phát triển con người về thể lực, tâm lực và trí lực
Phát triển con người là sự gia tăng các giá trị trong con người trên các
mặt: thể lực, trí lực và tâm lực. Mỗi con người sinh ra đều có những khả
năng và năng lực nhất định, nhưng nó thường tồn tại dưới dạng tiềm năng.
PTCN có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người để con
người có thể làm việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất; là hướng
vào việc tạo ra cho con người có cơ hội tham gia mọi hoạt động của đời sống
xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội). Để biến điều đó thành hiện thực
cần phải có những điều kiện cần thiết về tự nhiên, xã hội, đặc biệt là các nhân
tố thuộc về xã hội. CBXH liên quan đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã
hội. Thực hiện CBXH tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội tiếp cận với các

điều kiện cần thiết cho sự phát triển của mình để có thể phát huy khả năng
vốn có của mình cống hiến cho xã hội và nhận được kết quả tương xứng với
những cống hiến ấy.
2.3.3. Thực hiện công bằng xã hội tạo môi trường chính trị - xã hội
ổn định cho sự phát triển con người
CBXH là nguyên tắc và đòi hỏi tối quan trọng trong việc xác lập mối
quan hệ giữa công dân với nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân
trong đời sống chính trị - xã hội cũng như các quyền tự do cơ bản của công
dân. Chỉ sống trong một xã hội công bằng con người mới bộc lộ hết được
chính mình, mới có thể tự do phát biểu ý kiến, tự do sáng tạo, tự do tham gia
thảo luận, quyết định những vấn đề chung của tập thể và có thể đảm bảo các
quyền và cơ hội phát triển của mỗi cá nhân trong tập thể, cộng đồng và xã
hội. Thông qua đó, với tư cách là chủ thể của mọi hành động, con người
không ngừng hoàn thiện và phát triển bản thân. Đồng thời, thực hiện CBXH
là đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, mọi công dân bình đẳng
trước pháp luật. Nhà nước phải tạo điều kiện để mọi công dân được tham gia
vào các công việc của nhà nước theo quy định của hiến pháp và pháp luật;
được kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền và các công
chức nhà nước theo quy định.... Với ý nghĩa đó, thực hiện CBXH tạo môi
trường để con người thoải mái cống hiến, tự do sáng tạo và phát triển.
Chương 3
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
3.1. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI
VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


14

3.1.1. Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực phân phối đảm bảo

điều kiện kinh tế cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay
3.1.1.1. Thực hiện công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất thúc
đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân
Trong bối cảnh nước ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng TLSX có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Bởi vì, nó đảm bảo cho mỗi người dân lao động chân
chính có những TLSX tối thiểu, làm chủ chúng, trên cơ sở đó tự tạo ra việc
làm và phát huy tốt mọi khả năng lao động của bản thân mình. Sự điều tiết
phân phối công bằng, hợp lý TLSX trong những năm qua đã góp phần thúc
đẩy sản xuất, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân đặc biệt
vùng nông thôn, miền núi. Nhân dân ở những vùng này được hưởng những
thành quả của quá trình phát triển kinh tế, kết cấu hạ tầng được nâng cấp và
xây dựng mới; thị trường hàng hóa được hình thành thay thế dần nền kinh tế
tự cung, tự cấp. Các dịch vụ xã hội thiết yếu như y tế, giáo dục, nước sạch,
vệ sinh môi trường đã được cải thiện, từng bước rút ngắn sự chênh lệch về
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân giữa các vùng, miền. Việc thực
hiện công bằng trong phân phối TLSX còn góp phần quan trọng trong việc
ổn định xã hội. Bởi nó tạo ra sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể kinh tế, các
nhóm xã hội, từ đó tạo dựng được lòng tin của các chủ thể kinh tế vào Nhà
nước và chế độ xã hội. Xã hội ổn định là cơ sở để PTCN.
3.1.1.2. Thực hiện công bằng trong phân phối sản phẩm đảm bảo lợi
ích vật chất cho người lao động, phát triển kinh tế
Ở nước ta hiện nay, các chính sách phân phối thường xuyên được cải
cách cho phù hợp với tính chất của nền kinh tế mới. Có thể kể một số thay
đổi quan trọng về chủ trương và chính sách phân phối như sau: chính sách
tiền lương luôn được điều chỉnh nhằm đảm bảo đúng nguyên tắc phân phối
theo lao động; chính sách thuế góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp
dân cư, đảm bảo công bằng xã hội; phân phối theo mức đóng góp vốn đã
khuyến khích được nhiều cá nhân và chủ thể sản xuất, kinh doanh bỏ vốn, tài
sản để tham gia đầu tư, mở rộng, phát triển sản xuất; phân phối qua an sinh

xã hội đã được hoàn chỉnh, dần góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời
sống của các tầng lớp dân cư.
Thực tiễn 30 năm đổi mới của nước ta cho thấy, chính việc thực hiện các
nguyên tắc phân phối ngày càng công bằng đã có tác động trực tiếp đến
PTCN. Thực hiện công bằng trong phân phối đảm bảo lợi ích của người lao
động. Khi lợi ích được đảm bảo sẽ kích thích tính tích cực lao động trong
mỗi người, không ngừng suy nghĩ tìm tòi, học tập để nâng cao năng suất lao


15

động, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo nên bước tăng trưởng
đáng kể của nền kinh tế. Thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta
trong những năm vừa qua là rất đáng tự hào. Nền kinh tế tăng trưởng khá
nhanh và liên tục trong nhiều năm. Những thành tựu đạt được trong tăng
trưởng và phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất để PTCN Việt Nam ngày càng
đáp ứng yêu cầu của đổi mới.
Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam không ngừng được cải
thiện. Cùng với việc thu nhập gia tăng, đời sống vật chất, tinh thần của người
dân được nâng cao. Với những kết quả thu được từ tăng trưởng kinh tế, ngân
sách đầu tư cho các lĩnh vực xã hội y tế, giáo dục, văn hóa cũng tăng lên góp
phần phát triển con người trên các mặt: thể lực, trí lực và tâm lực.
3.1.2. Thực hiện công bằng xã hội đảm bảo cho sự phát triển con
người về trí lực, thể lực và tâm lực
3.1.2.1. Thực hiện công bằng trong giáo dục góp phần phát triển trí
lực con người Việt Nam
Thực hiện CBXH trong giáo dục được Đảng ta đặc biệt coi trọng. Chủ
trương thực hiện công bằng trong giáo dục được quán triệt trong các văn kiện
của Đảng qua các kỳ Đại hội, trong Hiến pháp cũng như Luật Giáo dục.
Cùng với sự phát của triển của kinh tế trong những năm qua, chúng ta không

ngừng tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo. Nhờ vậy, quy
mô, hình thức giáo dục, đào tạo không ngừng được mở rộng, tạo cho mọi
người dân có cơ hội được học tập, nâng cao trình độ. Chúng ta đã xây dựng
được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các
cấp học, bậc học, trình độ đào tạo với các loại hình trường, lớp, từng bước
hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Trên cơ sở tạo sự bình đẳng về cơ
hội học tập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tạo nhiều cơ hội khác nhau
phù hợp cho mọi người dân đều được học tập, phát huy năng lực, sở trường
của mình. Cùng với đó, Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn,
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về
phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Đối với những người có năng khiếu
Nhà nước tạo điều kiện để họ phát triển tài năng.
Với những nội dung như trên, thực hiện CBXH trong giáo dục tạo cơ hội
và điều kiện cho sự PTCN về mặt trí lực. Trình độ dân trí của người Việt
Nam được nâng lên đáng kể, óc sáng tạo, kỹ năng ứng xử và chỉ số thông
minh cũng được nâng cao; trình độ của người lao động được nâng lên nhanh
chóng về cả số và chất lượng. Phản ánh những thành tựu phát triển trí lực của
con người Việt Nam theo chỉ số HDI, có thể thấy, chỉ số giáo dục trong HDI
của Việt Nam không ngừng tăng lên.
3.1.2.2. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe góp phần phát
triển thể lực con người Việt Nam


16

Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống cung ứng dịch vụ y tế khá
hoàn chỉnh với mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp giúp người dân dễ dàng tiếp cận
và thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe. Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ
em ngày càng được chú ý. Bảo hiểm y tế đang đóng vai trò tích cực giúp tăng
khả năng tiếp cận của người dân với các dịch vụ y tế. Thực hiện CBXH trong

lĩnh vực y tế ở nước ta thời gian qua đã đảm bảo cho mọi người dân có quyền
được chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, được tiếp cận với nguồn lực của xã hội đầu tư vào lĩnh vực y tế. Nhờ đó,
thể lực con người Việt Nam trong những năm gần đây đã được nâng cao.
3.1.2.3. Thực hiện công bằng trong văn hóa, thông tin góp phần phát
triển tâm lực con người Việt Nam
Trong những năm qua, truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về số
lượng, quy mô lẫn chất lượng. Nhờ đó, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa
các vùng miền được rút ngắn, cơ hội lựa chọn và tiếp cận thông tin của người
dân được mở rộng, góp phần nâng cao tri thức, ý thức chính trị, pháp luật,
tâm hồn con người cũng phong phú hơn. Công tác phát triển văn hóa ở địa
phương cũng được đầu tư nhiều hơn. Đảng và Nhà nước ta trong thời gian
qua dành nhiều sự quan tâm phát triển văn hóa cho các đối tượng miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo... Trong lĩnh vực sáng tác, các tài
năng văn hóa nghệ thuật được khuyến khích phát triển.
Những thay đổi trong đời sống văn hóa, tinh thần theo hướng ngày càng
tốt đẹp hơn hướng con người vào các giá trị, chuẩn mực chân, thiện, mỹ
trong đời sống hàng ngày để mỗi người sống tốt hơn, tin tưởng hơn, yêu
thương nhau hơn. Người dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào con đường đi lên CNXH; thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới của
Đảng đề ra là đúng đắn, theo kịp trào lưu của thời đại, phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân: tất cả vì sự phát triển toàn diện của con người.
Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện CBXH ở nước ta thời kỳ đổi
mới đã kích thích được tính tích cực, chủ động trong mỗi con người, đã mang
lại các cơ hội phát triển cho đông đảo quần chúng nhân dân, đã tạo ra như điều
kiện tốt nhất có thể để con người Việt Nam phát huy hết khả năng của mình và
phát triển toàn diện cho mọi cá nhân cả về thể lực, trí lực lẫn tâm lực. Điều này
được biểu hiện bằng sự cải thiện đáng kể trong chỉ số PTCN.
3.1.3. Thực hiện công bằng xã hội tạo môi trường chính trị - xã hội
ổn định cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay

Thực hiện CBXH đã tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho người dân
tham dự vào đời sống chính trị của đất nước. Người dân được tham gia vào
công việc chung của cộng đồng, họ được nói tiếng nói của mình, đề đạt
nguyện vọng của mình để đảm bảo lợi ích của mình. Những vấn đề về quyền
lợi của người dân được giải quyết tạo ra bầu không khí cởi mở, thẳng thắn,


17

có sự đồng thuận cao, góp phần nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng
và Nhà nước, ổn định xã hội. Đây là cơ sở, nền tảng cho sự thúc đẩy phát
triển kinh tế, mở ra cơ hội, nâng cao năng lực và tiếp cận với các nguồn lực
xã hội. Đồng thời, làm cho con người năng động hơn, phát huy được tính tích
cực, chủ động trong các hoạt động, nâng cao năng lực cá nhân.
3.1.4. Nguyên nhân của những thành tựu
Thứ nhất, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực
đổi mới trong tư duy lý luận về CBXH, thực hiện CBXH và PTCN.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã
đạt được những thành tựu cơ bản tạo tiền đề quan trọng đảm bảo thực hiện có
hiệu quả CBXH ở nước ta.
Thứ ba, truyền thống dân tộc là một trong những nhân tố có tác động
không nhỏ tới việc thực hiện CBXH.
3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐỐI
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Sự bất cập của thực hiện công bằng xã hội trong phân phối dẫn
đến cản trở sự phát triển con người
3.2.1.1. Sự bất cập của việc thực hiện công bằng xã hội trong phân phối
tư liệu sản xuất hạn chế việc phát huy vai trò chủ thể của người lao động
Nhiều năm qua chúng ta đã cố gắng ban hành và thực thi nhiều chính sách

nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phát huy
năng lực sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa đạt được hiệu
quả như mong đợi. Trong việc tiếp cận TLSX vẫn còn phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân hoạt động rất hiệu quả, đem lại
nhiều lợi ích cho đất nước lại bị phân biệt đối xử, chịu nhiều rào cản. Các doanh
nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được
hưởng nhiều ưu đãi về phương diện tiếp cận nguồn lực, nhưng hiệu quả và sự
đóng góp cho nền kinh tế lại rất hạn chế và đang trên đà đi xuống. Không công
bằng trong phân phối TLSX còn thể hiện ở chỗ, trong quá trình phân phối,
chúng ta chưa kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Nhân dân ở nhiều
nơi đã di dời nhường đất canh tác cho các dự án lớn nhưng họ vẫn chưa hoặc
chậm nhận được hưởng thành quả do dự án đó đem lại. Tình trạng ô nhiễm môi
trường ở các khu công nghiệp gây bức xúc cho người dân... Nếu chúng ta
không giải quyết tốt những vấn đề này sẽ gây ra những bất ổn trong xã hội: tệ
nạn xã hội gia tăng, người dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước, môi trường
tự nhiên ô nhiễm. Tất cả điều này đã và đang cản trở sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và PTCN Việt Nam nói riêng.
3.2.1.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng xã hội trong phân phối
thu nhập hạn chế việc phát triển con người Việt Nam hiện nay
Quá trình triển khai thực hiện công bằng trong phân phối ở nước ta trong
thời gian qua còn nhiều hạn chế, chưa giải quyết hài hòa vấn đề lợi ích, chưa trở


18

thành phương thức đem lại hiệu quả cao trong việc thực hiện CBXHs. Điều này
được phản ánh rõ nhất qua chính sách tiền lương. Tiền lương chưa phản ánh
đúng giá trị sức lao động, còn nhiều bất cập. Tình trạng không công bằng còn thể
hiện ở sự chênh lệch quá mức về thu nhập giữa các khu vực, các thành phần, các
ngành kinh tế; sự bất bình đẳng về thu nhập, mức sống giữa những người có

cùng trình độ, cùng năng lực làm việc, nhưng làm việc ở những thành phần kinh
tế khác nhau. Khi chúng ta thực hiện CBXH với các hình thức phân phối, sự
phân hóa trong thu nhập ngày càng gia tăng giữa các vùng, miền, giữa các nhóm
dân cư. Đi liền với sự phân hóa về thu nhập là sự phân hóa về cơ hội phát triển.
3.2.1.3. Những hiện tượng làm giàu bất chính dẫn đến bất công đang
cản trở sự phát triển con người Việt Nam
Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng
trầm trọng, trở nên phổ biến. Nó xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình
phân phối và bóp méo kết quả phân phối ở nước ta. Tham nhũng ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, thất thoát, lãng phí tài
sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng
cách giàu nghèo. Bên cạnh đó, tình trạng làm giàu bất chính thông qua các
hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, làm ăn phi pháp, trốn thuế... vẫn
còn tồn tại khá phổ biến làm gia tăng bất công xã hội.
Trên phương diện PTCN, tham nhũng, làm giàu bất chính xét đến cùng
là sự đánh đổi bằng việc đã lấy đi lợi ích, lấy mất cơ hội phát triển của người
lương thiện. Hơn nữa hệ quả của nó còn làm giảm niềm tin của người dân
vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, là nguy cơ làm suy thoái về chính
trị, tư tưởng, một trong những tác nhân của sự xuống cấp về đạo đức, văn
hóa và suy thoái về lối sống, cản trở sự PTCN bền vững.
3.2.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội cản trở sự phát
triển năng lực con người Việt Nam
3.2.2.1. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội trong giáo dục,
đào tạo làm hạn chế sự phát triển trí lực con người Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, những bất bình đẳng về cơ hội giáo dục đang cản trở sự
phát triển trí lực con người Việt Nam. Độ bao phủ của dịch vụ giáo dục giảm
dần từ tiểu học đến đại học. Điều này dẫn đến tỷ trọng lực lượng lao động đã
qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp. Sự hạn chế về giáo dục, đào tạo cũng là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ hội tìm việc làm có thu
nhập tốt. Sự chênh lệch về chất lượng giáo dục còn thể hiện ở sự chênh lệch lớn

về lao động được đào tạo giữa các vùng, các địa phương, giữa nông thôn và
thành thị. Khi người lao động được đào tạo, có kỹ năng, đáp ứng được yêu cầu
của quá trình đổi mới và hội nhập thì thu nhập của họ được nâng cao, là tiền đề
quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và PTCN nói riêng.


19

Bên cạnh đó, những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục đang diễn ra
hàng ngày, hàng giờ cản trở việc thực hiện công bằng trong giáo dục, đào tạo.
Đầu tư cho giáo dục, đào tạo còn dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm. Xu
thế thương mại hóa giáo dục, đào tạo và bằng cấp đang tiếp tục làm suy giảm
chất lượng giáo dục, đào tạo. Do những yếu kém, bất cập nên sự phát triển
của giáo dục còn chưa tương xứng với sự PTCN, chưa thực sự tạo cơ hội và
điều kiện cho sự phát triển trí lực của con người.
3.2.2.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội trong y tế làm
hạn chế sự phát triển thể lực con người Việt Nam
Thực hiện CBXH trong y tế ở nước ta mặc dù đạt được những tiến bộ
nhất định, góp phần nâng nâng cao thể lực con người Việt Nam. Tuy nhiên,
tình trạng bất công bằng trong y tế vẫn lớn thể hiện ở việc: phân bổ nguồn
lực và tài chính cho y tế còn nhiều bất hợp lý; bất bình đẳng về cơ hội tiếp
cận và sử dụng dịch vụ y tế; tỷ lệ chi tiền túi hộ gia đình cho y tế vẫn cao so
với thu nhập. Vấn đề công bằng trong y tế ở nước ta đang bị đánh giá khá
thấp. Theo đánh giá của tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2009, Việt Nam
được xếp thứ 183 trong tổng số 194 quốc gia về công bằng trong y tế. Tình
trạng bất công bằng về y tế ở nước ta biểu hiện rõ nhất ở sự bất công bằng
giữa các vùng miền, giữa các khu vực cư trú, giữa các nhóm tuổi, giữa nhóm
giàu và nhóm nghèo ... về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe.
Điều này đã dẫn đến sự khác biệt trong tình trạng sức khỏe người dân giữa
các nhóm kinh tế, xã hội, vùng miền, dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo

phát triển con người của thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây cho
thấy, chỉ số tuổi thọ ở nước ta đang có xu hướng tăng chậm do nhiều yếu tố,
trong đó có sự bất công bằng về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức
khỏe. Đây là thách thức rất lớn đối với việc PTCN khi Việt Nam đang nỗ lực
giảm bớt khoảng cách giữa các vùng và các nhóm thu nhập hướng tới mục
tiêu PTCN bền vững.
3.2.2.3. Công bằng về cơ hội trong tiếp cận thông tin, văn hóa còn
nhiều bất cập làm hạn chế sự phát triển tâm lực của con người Việt Nam
Hiện nay, việc tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành viên trong xã hội được
tiếp cận, hưởng thụ các giá trị văn hóa vẫn chưa thực sự đạt kết quả như mong
muốn. Sự phân hóa trong thu nhập giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân cư
đã kéo theo sự phân hóa trong đời sống văn hóa. Các nhóm xã hội có thu nhập,
trình độ học vấn khác nhau có nhu cầu hưởng thụ văn hóa, lối sống, định hướng
giá khác nhau, hình thành các nhóm văn hóa trung lưu, văn hóa người giàu, văn
hóa người nghèo. Sự phân hóa về văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến PTCN, khiến
cơ hội và điều kiện để nâng cao năng lực của con người rất khác nhau. Đời sống
văn hóa nghèo nàn, cơ hội tiếp cận thông tin hạn chế kéo theo sự nghèo nàn về
tâm hồn, trí tuệ. Do không có điều kiện tiếp cận thông tin, tri thức nên những


20

nhóm này thường khó vươn lên làm giàu. Đây cũng là nhóm dễ bị các phần tử
xấu, các phần tử phản động lôi kéo, kích động gây mất ổn định xã hội.
3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, những khó khăn, phức tạp của việc thực hiện công bằng xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, sự thiếu đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội,
cùng với những hạn chế trong việc triển khai, tổ chức thực hiện chính sách
đã gây khó khăn cho việc thực hiện công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển

con người.
Thứ ba, hạn chế về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
đã làm giảm vai trò của việc thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển
con người.
Thứ tư, hạn chế trong nhận thức về công bằng xã hội đã và đang làm
giảm vai trò của việc thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người.
Chương 4
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÔNG BẰNG XÃ HỘI,
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Ở nước ta hiện nay, thể chế kinh tế thị trường vẫn là một trong những
điểm nghẽn cản trở sự phát triển, làm gia tăng tình trạng phân hóa giàu
nghèo, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và hàng loạt các tiêu cực xã hội
nảy sinh như: tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại,
hàng giả, hàng kém chất lượng… gây ra tình trạng mất CBXH, cản trở sự
PTCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
cần phải thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục xóa bỏ triệt để hơn nữa cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp về tiếp cận các nguồn lực phát triển và thành quả phát triển.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chế độ sở hữu, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trên cơ sở tạo điều kiện và cơ hội phát
triển cho mỗi cá nhân
Thứ ba, phát triển đồng bộ các loại thị trường, hình thành đầy đủ các
yếu tố của kinh tế thị trường trên cơ sở tạo điều kiện và cơ hội cho mỗi cá
nhân phát triển



21
4.2. HOÀN THIỆN VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN TỐT CÁC CHÍNH SÁCH
KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ
HỘI CHO PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế đảm bảo thực hiện
công bằng xã hội cho phát triển con người
Các chính sách kinh tế của chúng ta được xây dựng sao cho phải vừa
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo CBXH. Trên cơ sở đặc điểm, vị trí
của từng vùng, miền, cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội một cách hợp lý, hiệu quả. Cần tăng cường các
biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích tư nhân và các thành
phần kinh tế khác tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng. Tiếp tục
cải cách chính sách thuế nhằm điều tiết thu nhập hợp lý. Thực hiện ưu đãi
hơn nữa về thuế với đầu tư, phát triển, với những vùng khó khăn. Cần tiếp
tục điều chỉnh, đổi mới chính sách phân phối thu nhập trên cơ sở nguyên tắc
phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, chú trọng phân phối
theo đóng góp về vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và
thông qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống chính xã hội đảm bảo thực hiện công
bằng xã hội cho phát triển con người
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần hoàn thiện các chính sách xã
hội. Cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch tổng
thể về tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển bền vững; ban
hành các chính sách khuyến khích xã hội hóa trong hoạt động giải quyết việc
làm cho người lao động; tăng quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm và sử dụng có
hiệu quả quỹ đó. Chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm mức tối thiểu về
một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Chính sách giáo dục, đào tạo
cần được xây dựng và hoàn thiện theo hướng: tạo điều kiện cho mọi người,

mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, học suốt đời; tạo cơ hội học tập
ngày càng tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ đào tạo cho mọi tầng lớp dân cư.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách y tế, chính sách văn hóa.
Thứ ba, tổ chức triển khai và thực hiện chính sách
Các cấp, các ngành cần tăng cường những biện pháp phổ biến chính
sách trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thường xuyên tổ chức tập
huấn cho cán bộ cấp dưới và cán bộ cấp cơ sở để thực hiện đúng chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mỗi bộ, mỗi ngành cần xây
dựng chương trình hành động, chương trình mang tính dài hạn và có các
chương trình kế hoạch ngắn hạn đi kèm. Đề cao trách nhiệm thực hiện của
các tổ chức, các nhân có trách nhiệm, có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh
nhằm tạo động lực cho toàn xã hội thực hiện mục tiêu chung của đất nước.
Tăng cường các cơ chế nhằm huy động nguồn lực và sức mạnh của các tổ
chức ngoài nhà nước, doanh nghiệp và người dân để cùng thực hiện các mục


22

tiêu chung: Xây dựng một xã hội công bằng, con người được phát triển toàn
diện. Có cơ chế theo dõi, giám sát việc thực hiện chính sách, tiếp thu ý kiến
phản hồi từ người dân và thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm. Cùng với
đó là trách nhiệm và việc làm của các doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng lao
động, các cơ quan chuyên trách.
4.3. NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG VIỆC
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Thứ nhất, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện công
bằng xã hội cho phát triển con người
Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội
trong việc thực hiện CBXH đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tổng kết thực tiễn,

phát triển lý luận, tạo khung lý luận cơ bản để tiếp tục thực hiện tốt công
bằng xã hội trong điều kiện và tình hình mới. Để có cơ sở phát triển lý luận
về công bằng, thì ngoài tổng kết thực tiễn, còn phải nghiên cứu bài học thực
hiện CBXH của những nước có điều kiện phát triển tương tự với Việt Nam.
Đồng thời, còn phải nghiên cứu những quan điểm về thực hiện công bằng
trên thế giới đang được ứng dụng vào đời sống xã hội hiện nay. Trên cơ sở
những chủ trương, quan điểm, đường lối về thực hiện CBXH, Đảng lãnh đạo
Nhà nước cụ thể hóa thành các thể chế, pháp luật, các chính sách về CBXH
và tổ chức thực hiện các chính sách đó trong hiện thực. Đảng phải nghiêm
túc phê và tự phê, đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả việc phòng chống suy
thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện
công bằng xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển con người
Để nâng hơn nữa vai trò của Nhà nước trong thực hiện CBXH ở nước
ta hiện nay, theo chúng tôi cần: hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở đảm
bảo cho việc thực hiện CBXH, PTCN; tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức, bộ
máy và phương thức hoạt động của Nhà nước làm cơ sở đảm bảo cho việc
thực hiện CBXH, PTCN; phát huy vai trò của Nhà nước đối với việc mở
rộng và phát huy dân chủ làm cơ sở đảm bảo thực hiện mục tiêu CBXH.
Thứ ba, phát huy vai trò của các tổ chức kinh tế - xã hội trong thực hiện
công bằng xã hội, phát triển con người.
Để đảm bảo thực hiện CBXH thì Đảng và Nhà nước giữ vai trò hết sức
quan trọng, đó chính là sự lãnh đạo, định hướng, quản lý và điều tiết. Tuy
nhiên, thực hiện CBXH còn phụ thuộc vào sự hợp tác phối kết hợp nhịp
nhàng của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, cá nhân và sự
đồng thuận của toàn xã hội. Các tổ chức thông qua các hình thức như: tài trợ,
đóng góp kinh phí để hỗ trợ cho các gia đình chính sách gặp khó khăn, bà mẹ
Việt Nam anh hùng, người già cả neo đơn không nơi nương tựa, trẻ mồ côi
cơ nhỡ, người lầm đường lạc lối... giúp họ có điều kiện hòa nhập cộng đồng
và có điều kiện phát triển kinh tế. Hỗ trợ các vùng đặc biệt khó khăn, thiên



23

tai lũ lụt… Đây là những việc làm tình nghĩa hết sức cao đẹp, vừa mang tính
truyền thống dân tộc, vừa góp phần tích cực vào việc xóa bỏ bất công, thực
hiện CBXH mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Đảng và Nhà nước cần phối
hợp với các tổ chức này nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước
thực hiện CBXH.
4.4. NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN TRONG VIỆC THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI CHO PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Để nâng cao nhận thức của người dân về CBXH cần phải thông qua
nhiều biện pháp. Trước hết, cần hoàn chỉnh quan niệm về CBXH để không
nhầm lẫn với bình đẳng xã hội, bình quân, cào bằng. Chúng ta cần phải có kế
hoạch, nội dung, chương trình, thông qua giáo dục chính quy bằng cách lồng
ghép trong các giáo trình về kinh tế, luật, chính trị, đạo đức, văn hóa... Cùng
với đó, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị từ Trung ương tới cơ sở về vai trò của CBXH. Ngoài ra, cần phát
huy những giá trị truyền thống của dân tộc góp phần giáo dục ý thức của
người dân về thực hiện CBXH.
KẾT LUẬN
Lịch sử nhân loại là lịch sử PTCN. Trong quá trình đó, ước mơ có một
cuộc sống tự do, công bằng, dồi dào về vật chất, phong phú về tinh thần,
không ngừng được nâng cao về tri thức của mỗi người luôn được ấp ủ và
theo đuổi qua mọi thế hệ, thời đại. Tuy nhiên, trong những giai đoạn lịch sử
khác nhau, khi theo đuổi mục đích đó, trọng tâm và mục tiêu phát triển lại
không hoàn toàn như nhau. Phải mãi đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời,
vấn đề giải phóng con người khỏi xã hội có áp bức, bất công, tạo điều kiện
cho con người phát triển toàn diện mới được đặt ra như một yêu cầu tất yếu

của hiện thực. Thực hiện CBXH đã trở thành mục tiêu hướng tới của mọi xã
hội muốn phát triển ổn định và bền vững.
Đối với nước ta, CBXH là khát vọng của toàn dân, là yêu cầu cấp bách
trong chiến lược xây dựng và PTCN Việt Nam hiện nay. Thông qua thực hiện
CBXH, mà cụ thể là thực hiện công bằng trong phân phối, sẽ làm cho mọi
thành viên tham gia vào các quan hệ lợi ích thấy mình được tôn trọng, được đền
bù hợp lý, từ đó kích thích họ tự cống hiến hơn nữa để góp phần tích cực vào sự
phát triển bản thân cũng như phát triển xã hội. Thực hiện CBXH trong y tế,
giáo dục, văn hóa tạo cơ hội cho mọi người dân tiếp cận bình đẳng với các điều
kiện phát triển, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người, tạo điều kiện để mọi
người đều có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình. Thông qua việc đảm bảo
các quyền tự do, dân chủ của công dân, thực hiện CBXH tạo môi trường để con
người thoải mái cống hiến, tự do sáng tạo và phát triển.


×