Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và sự vận dụng vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.76 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

1


A/ LỜI MỞ ĐẦU:
Trong bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ của Các- Mác, một trong ba
cống hiến vĩ đại của Mác được Ăng-ghen nhắc tới đó là việc tìm ra quy luật vận động
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương
thức đó sinh ra. Phải nói rằng học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong toàn
bộ lí luận kinh tế của C.Mác. Trong quyển I của bộ tư bản có tựa đề là “Về tư bản”,
C.Mác đã trình bày một cách khoa học hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị tư bản
mà trước đó, chưa ai có thể làm được. Một trong số các học thuyết được nêu ra là
thuyết giá trị thặng dư, nhờ có nó mà toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
được vạch trần, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính
xác, mà trong đó hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và tương đối được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để
tích luỹ và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng phát triển. Hai phương
pháp này đã được đưa vào ứng dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa, để phù hợp với
những vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển
các học thuyết đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư.
Đề tài này nghiên cứu lý luận và thực tiễn về “ Phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư và sự vận dụng vào công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta
hiện nay” để từ đó tìm ra những kết luận mới phục vụ cho nhiệm vụ phát triển nền
kinh tế đất nước.
Bài tiểu luận này không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, vậy em kính
mong các thầy cô đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

2



B/ NỘI DUNG.
I. Sự phát triển lý luận giá trị thặng dư dựa trên cơ sở lý luận giá trị của
Các- mác. ( Cơ sở lý luận ):
1. Hoàn cảnh ra đời:
Trên vũ đài kinh tế lúc bấy giờ xuất hiện một loại hàng hóa mới – đó là
hàng hóa sức lao động,Khi sức lao động trở thành hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái
là tư bản và gắn liền với nó là một quan hệ sản xuất mới xuất hiện : quan hệ giữa nhà
tư bản và lao động làm thuê.Thực chất của mối quan hệ này là nhà tư bản chiếm đoạt
giá trị thặng sư của công nhân làm thuê.Giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành nên
thu nhập của các nhà tư bản và các giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản.
Các nhà kinh tế trước Mác chưa ai đề cập tới giá trị thặng dư mà chỉ đề cập tới
lợi nhuận và được biểu hiện dưới hình thức lợi tức và địa tô. Nhà kinh tế Thomson đã
nêu ra phạm trù giá trị thặng dư, song ông lại cho rằng nếu tồn tại phạm trù giá trị
thặng dư thì sẽ vi phạm quy luật giá trị. Vì vậy, ông chỉ thừa nhận quy luật giá trị mà
không thừa nhận phạm trù giá trị thặng dư nữa.
Trên cơ sở lý luận giá trị và với việc phát hiện ra phạm trù hàng hóa sức lao
động và phạm trù tư bản bất biến và tư bản khả biến, C. Mác là người đầu tiên xây
dựng hoàn chỉnh học thuyết giá trị thặng dư và khẳng địnhgiỏ trị thặng dư tồn tại và
phát triển hoàn toàn tuân theo quy luật giá trị.
Với phát minh này, C. Mác đã vạch rõ được bản chất cơ bản của chủ nghĩa tư
bản, đó là quan hệ bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê, đồng thời vạch ra
quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, đó là quy luật giá trị thặng dư.
2. Khái niệm giá trị thặng dư và sản xuất giá trị thặng dư:
- Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
- Quá trình sản xuất gía trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi
điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới
ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho
3



họ.Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại
điểm đó sức lao động được trả ngang giá.

3. Bản chất giá trị thặng dư:
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ vì
nó là vật mang giá trị trao đổi.Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có
một giá trị trao đổi, nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra
một hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao
động mà nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C. Mác viết: “ Với tư
cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá
trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa
quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
• Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động
có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như
những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của
người công nhân
C. Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng nghiên cứu
quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mác đã sử dụng phương pháp giả
định khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành nghiên cứu: Không xét đến
ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đem tiêu
dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế tái
sản xuất giản đơn.


4


4. Ví dụ minh họa rõ về giá trị thặng dư :
Giả sử để chế tạo 1 kg sợi,nhà tư bản phải ứng ra số tiền là 20.000 đơn vị tiền
tệ mua 1 kg bông,3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đơn vị mua sức lao
động của công nhân điều khiển máy móc trong 10g.Tổng cộng số tiền ứng là 28.000
đơn vị tiền tệ.Trong quá trình sản xuất bằng lao động cụ thể công nhân sử dụng máy
móc để chuyển 1 kg bông thành 1 kg sợi,Theo đó giá trị của bông và hao mòn của
mát móc được chuyển vào sợi ,bằng lao dộng trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới
nhập vào sợi .Trong 5 giờ công nhân đã chuyển được 1 kg bông thành 1 kg sợi thì giá
trị của 1 kg sợi là :
+ Giá trị 1 kg bông chuyển vào :
+ Hao mòn máy móc :
+ Giá trị mới tạo ra ( = giá trị sức lao động ) :
Tổng cộng :
Nếu quá trình lao động dừng ở đây thì nhà tư bản không

20.000 đơn vị
3.000 đơn vị
5.000 đơn vị
28.000 đơn vị
thu được ít giá trị

thặng dư nào.Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao động trong 10 giờ nên 5 giờ tiếp theo
nhà tư bản không phải trả công nữa mà chỉ cần phải chi them 2.000 đơn vị tiền tệ để
mua 1 kg bông ra 3.000 đơn vị hao mòn máy móc nhưng sẽ có thêm 1 kg sợi.
Tổng số tiền nhà tư bản bỏ ra để có 2 kg sợi :
+ Tiền mua bông : 20.000* 2 = 40.000 đơn vị

+ Hao mòn máy móc trong 10 tiếng : 30.000 * 2 = 6000 đơn vị
+ Tiền lương cả ngày 10 tiếng : = 5000 đơn vị
Tổng cộng :
= 51.000 đơn vị
Giá trị sợi nhà tư bản thu được 28.000* 2 = 56.000 đơn vị
Như vậy nhà tư bản thu được giá trị thặng dư : 56000 – 51000= 5000 đơn vị.
Từ ví dụ trên đây có thể thấy đích xác được giá trị thặng dư từ đâu mà có, cái
mà nhà tư bản thu được là cái gì,nguồn gốc sâu xa của nó. Đó là cơ sở sự giàu có của
giai cấp tư sản, cho nên C.Mác đã viêt “Bí quyết của sự tăng thêm giá trị của tư bản
quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động không công nhất định
của người khác “.Nhà tư bản là được điều đó vì họ có trong tay tư liệu sản xuất,còn
người lao động thì không,họ chỉ có sức khỏe.Điều duy nhất công nhân có thể làm là
bán sức lao động để kiếm tiền nuôi sống bản thân và gia đình của họ.Khi đó sức lao
động trở thành hàng hóa,giá trị sức lao động là điều kiện quan trọng để sản xuất ra giá
trị thặng dư và được khái quát theo công thức sau :

c + v +m
5


Trong đó :
+ c: giá trị tư liệu sản xuất
+ v: giá trị của sức lao động
+ m : giá trị thặng dư.

II. Lý luận cơ bản về sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư:
1.Lý luận cơ bản về hàng hóa và sức lao động:
Sự biến đổi giá trị của số tiền cần phải chuyển hóa thành tư bản không thể xảy
ra trong bản thân số tiền ấy, mà chỉ có thể xảy ra từ hàng hóa được mua vào (TH).Hàng hóa đó không thể là một hàng hóa thông thường, mà phải là một hàng hóa
đặc biệt, hàng hóa mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị.

Thứ hàng hóa đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường
1.1 Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
Theo C.Mác: “ sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân
thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà
con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”
Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất
định sau đây.
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được
sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như 1 hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất để
tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sống.
Như vậy: khi sức lao động trở thành hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái là tư
bản. Hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt và là phạm trù lịch sử.
1.2. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động.
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc
tính: giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hóa sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Bao gồm:
+ Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tai
sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
+ Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
+ Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con
cái người công nhân.
6


Giá trị SLĐ cũng biến đổi theo thời gian do sự tăng nhu cầu trung bình của xã
hội…, hoặc do sự tăng năng suất LĐXH.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động: Khi nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa
SLĐ chính là quá trình buộc người công nhân sản xuất ra một lượng hàng hóa với giá

trị lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của công nhân. Quá trình đó là quá trình
sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn
giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa thông thường
Giống nhau
Khác nhau

Hàng hóa sức lao động

Đều là hàng hóa, do đó đều có 2 thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
- Mua bán có thời hạn.
- Mua đứt, bán đứt
- Giá trị sử dụng đặc biệt: tạo ra giá trị
- Giá trị sử dụng thông thường là biểu mới lớn hơn giá trị của bản thân nó,
hiện của của cải.
đó là giá trị thặng dư và là nguồn gốc
của giá trị thặng dư.
- Giá trị chỉ thuần túy yếu tố vật chất. - Giá trị bao hàm cả yếu tố vật chất,
tinh thần và lịch sử.

So sánh giữa hàng hoá thông thường và hang hoá sức lao động
2.Lý luận cơ bản về quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
2.1 : Về quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
2.1.1: Bản chất của tư bản:
Bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, chúng chỉ trở thành tư bản khi
là tài sản của nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư
bản bị xóa bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa.
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động công

nhân làm thuê. Bản chất của tư bản thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai
cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Vậy,quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.C.mác viết “ Với tư
7


cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình
sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hóa ; với tư cách là sự thống nhất giữa quá
trình lao động và quá trình làm tang giái trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa ,là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hóa “.
2.1.2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến:
TBBB (c) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất (máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu) mà thông qua lao động cụ thể của người công nhân, giá trị
của nó được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm (không thay đổi giá trị).
TBKB (v) là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động mà thông qua lao động
trừu tượng của người công nhân, giá trị của nó không ngừng lớn lên, thay đổi về
lượng.
Căn cứ để phân chia TBBB và TBKB là dựa vào tính 2 mặt của lao động sản
xuất hàng hóa: Lao động cụ thể bảo toàn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất sang
giá trị sản phẩm. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị lớn hơn.
Sự phân chia thành TBBB và TBKB dựa vào vai trò khác nhau của các bộ
phận tư bản trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư. TBBB là điều kiện cần thiết để
sản xuất ra giá trị thặng dư còn TBKB có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó
chính là bộ phận tư bản đã lớn lên à Vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản,
chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư,nhưng hai
phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và
phương pháp giá trị thặng dư tương đối.Mỗi phương pháp đại diện cho một trình độ
khác nhau của giai cấp tư sản,cũng như những giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.


2.2 : Về sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Lấy cơ sở nghiên cứu là trường phái kinh tế chính trị c ổ đi ển, mà đ ại biểu
chính là David Ricardo, Karx Marx và Engels đã xây dựng nên trường phái kinh tế
chính trị Macxít và sau này được lênin củng cố thành kinh t ế chính trị Mac - Lênin.
Kinh tế chính trị Mac - Lênin đã đưa ra nh ững lu ận chứng có tính chất quá độ lịch
sử của chủ nghĩa tư bản và tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và hướng tới chủ
nghĩa cộng sản. Quyển I của bộ tư bản có tựa đề là “Về tư bản” được K.Marx cho
8


xuất bản năm 1867, trong tác phẩm này K.Marx đã trình bày một cách khoa học hệ
thống các phạm trù kinh tế chính trị tư bản mà trước đó, chưa ai có th ể làm được, nó
được đánh giá như “tiếng sét nổ giữa bầu trời quang đãng của ch ủ nghĩa t ư bản”,
một trong số các học thuyết được nêu ra là thuyết giá trị th ặng dư, nhờ có học thuyết
này mà toàn bộ bí mật của nền kinh t ế t ư b ản ch ủ nghĩa được vạch trần, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính xác, mà trong đó hai
phương pháp sản xuất chính là phương pháp giá trị thặng dư tương đối và phương
pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để tích
luỹ và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng phát triển.
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do công nhân
làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Để thu được giá trị thặng dư có hai phương pháp chủ yếu: phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là khái niệm trong kinh tế chính trị Mac-Lenin dùng
để chỉ về giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian
lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao
động tất yếu không thay đổi.
Một ví dụ cụ thể: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ,
thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10

đơn vị, thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là:
m' = 40/40 x 100 % = 100%
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thì
giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m' cũng tăng lên thành:
m' = 60/40 x 100 % = 150 %
Ý nghĩa việc kéo dài ngày lao động không thể vượt quá giới hạn sinh lý của
công nhân (vì họ còn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức
khoẻ) nên gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm.
Theo chủ nghĩa Mác-Lenin thì vì lợi nhuận, khi độ dài ngày lao động không thể kéo
dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ
lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời
gian lao động và tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

9


Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi
lao động còn ở trình độ thủ công và năng suất lao động còn thấp.
Nhà tư bản tìm mọi thủ đoạn để kéo dài ngày công lao động. Nhưng mặt khác
do giới hạn tự nhiên sức lao động của con người; do đấu tranh của công nhân đòi rút
ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên
cũng không thể rút ngắn bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Vì tăng cường độ lao động
cũng như kéo dài thời gian lao động trong ngày, trong khi thời gian lao động cần thiết
không thay đổi.
Có nghĩa là khi nhà tư bản muốn tăng giá trị thặng dư, thì nhà tư bản sẽ mua
thêm máy móc mua, thêm tư liệu sản xuât, thuê thêm công nhân để sản xuất ra hàng
hóa; nhưng móc, chỉ mua thêm nguyên liệu sản xuất, và bắt công nhân hiện có phải
cung cấp thêm một lượng lao động, đồng thời tận dụng triệt để công suất của máy

móc hiện có.
Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích duy nhất của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Các nhà tư bản sản xuất bất cứ loại hàng hoá nào, kể cả vũ khí giết người miễn
là thu được nhiều giá trị thặng dư. Phương tiện để đạt được mục đích là tăng năng
suất lao động, tăng cường bóc lột công nhân…
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao động thủ công,
hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở các công trường thủ công. Đó là sự gia
tăng về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Cái lợi ở đây là nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản, thuê thêm công nhân,
mua thêm máy móc thiết bị, đồng thời máy móc sẽ được khấu hao nhanh hơn, hao
mòn và chi phí bảo quản giảm đi rất nhiều, thời gian thu lợi nhuận sẽ dài hơn.
VD: Một ngày người công nhân lao động 8 giờ, trong đó thời gian lao động tất
yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá
trị mới là 10.000 đơn vị tiền tệ, thì trong một ngày người công nhân tạo ra một lượng
giá trị mới là 80.000, bao gồm 40.000 là chi phí sản phẩm và 40.000 là giá trị thặng
dư tuyệt đối, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi kéo dài thời gian lao động ra
thêm 2 giờ với điều kiện các yếu tố khác không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng
10


lên là 60.000, nhà tư bản được lợi thêm 20.000 đơn vị so với trước đó, tỷ suất thặng
dư là 150%.(Tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện của trình độ bóc lột giá trị thặng dư).
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày công lao động của người công nhân làm
thuê, nhưng thực tế thì không cho phép họ làm như vậy trong một thời gian quá dài.
Vì những việc làm đó là vượt quá giớ hạn sinh lí của người công nhân, một người có
thể duy trì mãi một cường độ lao động với năng suất cao trong một thời gian dài là
điều không thể có được, họ cần phải có thời gian ăn ngủ, nghỉ ngơi giải trí nhằm hồi
phục sức khoẻ. Thật dễ hiểu khi giai cấp tư bản gặp phải sự kháng cự của giai cấp
công nhân. Giai cấp tư sản muốn kéo dài thời gian lao động trong ngày, còn giai cấp

công nhân muốn rút ngắn thời gian lao động, do đó độ dài ngày lao động có thể co
giãn và việc xác định độ dài ngắn ấy phụ thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu
tranh giữa hai giai cấp đó. Điểm dừng của độ dài ngày lao động là điểm mà ở đó lợi
ích kinh tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện theo
một thoả hiệp tạm thời. Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản sẽ tìm
mọi cách để tăng cường độ lao động của người công nhân. Tăng cường độ lao động
có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động trong một khoảng thời gian nhất định, nên về
thực chất cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày. Nhà tư bản có thể
tăng thêm tư liệu lao động, yêu cầu hay thoả thuận người lao động lao động với
cường độ cao mức bình thường, yêu cầu khi người lao động là họ phải tập trung làm
việc hơn, các thao tác làm việc phải nhanh hơn… những việc đó sẽ tốn nhiều sức lao
động hơn so với bình thường, và cũng tạo ra nhiều sản phẩm hơn. Nhưng việc tăng
cường độ lao động khó hơn việc tăng thời gian lao động của người công nhân. vì việc
này muốn thực hiện đựoc thì nhà tư bản phải thay đổi máy móc.
Việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ngoài việc gặp
khó khăn như ở trên đã đề cập, theo D.Ricardo “với sự tăng thêm của một nhân tố sản
xuất nào đó, trong điều kiện các nhân tố sản xuất khác là không thay đổi, năng suất
của của nhân tố tăng thêm sẽ giảm đi”. Bởi vậy, việc gia tăng các nguyên liệu sản
xuất trong khi các điều kiện sản xuất khác không đổi, là việc làm không hiệu quả khi
mà nhà tư bản muốn tăng thu thêm giá trị thặng dư

11


2.3 : Về sản xuât giá trị thặng dư tương đối.
2.3.1 Khái niệm giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tương đối là khái niệm trong kinh tế chính trị Marx-Lenin
dùng để chỉ về giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng
cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp
giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện

độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xã hội
trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
2.3.2. Về sản xuất Giá trị thặng dư tương đối.
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao
động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt
khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí,
kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư
bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột
giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu
trong điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời
gian lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao
động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất
yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá
trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân.
Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng
năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt đó.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản
xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực
12


lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba

giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng
là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết
hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải
là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng
cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản xuất làm cho cường độ lao động
tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường
độ lao động cơ bắp.
* Ví dụ:
- Thời gian lao động cần thiết là 5h, ngày lao động là 10h thì thời gian lao
động thặng dư là 5 giờ. Như vậy m’ sẽ là: m’ = 100%
- Nếu ngày lao động không đổi (10h) mà thời gian lao động cần thiết bị rút
ngắn lại còn 3h thì thời gian lao động thặng dư tăng lên 7 giờ. Như vậy m’ sẽ là:
m’ = 233%
- Ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là lao động
thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao động tất yếu xuống
còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và m' tăng từ
100% lên 150%.

2.4: Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản:
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối phản ánh mối
quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là
sản xuất ra giá trị thặng dư. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ
thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư
bản cố gắng sản xuất hàng hóa với chất lượng tốt đi chăng nữa thì cũng chỉ vì họ
muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản

xuất tư bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích
13


đó: tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo
dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản. Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc
lột công nhân làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời
và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư
bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay đổi tất yếu của
chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:
- Kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị
thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Nhờ vậy, chi phí lao động
sống trong 1 đơn vị sản phẩm giảm nhanh.
- Cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi
lớn: lao động phức tạp, lao động trí tuệ, tăng lên thay thế lao động giản đơn, lao động
cơ bắp. Do đó, tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.
- Sự bóc lột của các nước TBCN phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng
được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi không
ngang giá... Các nước TBCN phát triển đã bòn rút chất xám, hủy hoại môi sinh cũng
như cội rễ đời sống văn hóa của các nước lạc hậu, chậm phát triển. Sự tách biệt giữa
những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và trở thành mâu thuẫn nổi
bật trong thời đại ngày nay.

2.5 : Giá trị thặng dư siêu ngạch:
2.5.1. Hoàn cảnh ra đời :
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt

nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt
của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa , nhờ đó thu được giá trị thặng dư
siêu ngạch.
2.5.2 Khái niệm :

14


Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng
suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường
của nó.
+ Xét từng trường hợp thì giá thị trường thặng dư siêu ngạch là hiện tượng
tạm thời ,nhanh chóng mất đi.Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng sư
diêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật , hợp lý hóa sản xuất
,tăng năng suất lao động làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
Việc sản xuất và chiếm đoạt GTTDSN là hiện tượng tạm thời; khi những thành tựu
khoa học - kĩ thuật trở thành phổ biến, thì giá trị xã hội của hàng hoá sẽ giảm xuống
một cách phổ biến và không còn GTTDSN. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền, các tổ chức độc quyền lớn thu được lợi nhuận độc quyền cao không chỉ bằng
cách duy trì giá cả độc quyền, mà còn do áp dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật
vào sản xuất, cho nên họ ở vào thế có lợi hơn so với các nhà tư bản vừa và nhỏ. Vì
vậy, GTTDSN trở thành nguồn khá ổn định của lợi nhuận độc quyền cao. Việc đẩy
nhanh sự tiến bộ khoa học - kĩ thuật trong điều kiện cách mạng khoa học - kĩ thuật
hiện đại cho phép giới tư bản độc quyền thu được số lợi nhuận siêu ngạch kếch sù.
+ C.Mác gọi GTTDSN là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối,
vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng
năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt,còn
một bên dựa vào tăng năng suất lao động xã hội ).

- Hay là một bên thu được do tăng năng suất lao động xã hội, còn bên kia bên giá trị thặng dư siêu ngạch - thì được tạo ra nhờ biết áp dụng kỹ thuật mới, biết
áp dụng công nghệ tiến bộ và các phương pháp quản lý hoàn thiện hơn trong tổ chức
sản xuất. Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị
thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm đoạt, vì
vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê chống lại sự chiếm đoạt
đó: Đấu tranh chống kéo dài thời gian làm việc trong ngày để chống bóc lột giá trị
thặng dư tuyệt đối; đấu tranh chống việc nhà tư bản rút ngắn thời gian lao động cần
thiết và tăng tương ứng lao động thặng dư để chống bóc lột giá trị thặng dư siêu
ngạch. Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch về thực chất là sự
15


phản ứng lại đối với những cải tiến trong áp dụng kỹ thuật mới, phản ứng lại sáng
kiến trong ứng dụng công nghệ tiến bộ và việc áp dụng những phương pháp tổ chức
sản xuất hoàn thiện hơn... Thật ra, sự đấu tranh của giai cấp thợ thuyền dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa để chống lại sự bóc lột giá trị thặng dư nói chung, là nhằm vào một chủ
điểm: Chống việc nhà tư bản chiếm đoạt hoàn toàn giá trị thặng dư cụ thể là cả ba thứ
giá trị thặng dư vừa nêu trên.
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn
thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu
được.Xét về mặt đó,nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản
đối vs toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê.Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số
nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được . Xét về mặt đó,nó không chỉ biểu hiện mối
quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê,mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ
cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Từ đó : ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiép,mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiễn kỹ thuật .áp dụng công nghệ mới sản xuát ,hoàn thiện
tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động ,giảm giá trị hàng
hóa.


C. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP
SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ ĐỐI VỚI NƯỚC TA NGÀY NAY.
• Trước hết phải xét đến ý nghĩa của việc nghiên cứu các phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư.
Việc nghiên cứu các phương pháp nói trên khi gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ
nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư,nhát là phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối và thặng dư siêu ngạch có thể vận dụng trong các
doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất ,tang năng suất lao động xã hội,sử
dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý,tiết kiệm chi phí sản xuất.
• Ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta:
Nếu trừu tượng hoá thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải thu được lợi nhuận,
lợi nhuận càng nhiều thì kinh doanh càng phát triển. Tuy nhiên, không thể đạt lợi
nhuận bằng mọi giá, vì bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì
16


dân, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vậy phải có những biện pháp gì để thu được lợi
nhuận chính đáng mà không làm tổn hại đến chính trị quốc gia?
Trước hết phải làm giảm sự bóc lột của các nhà tư bản đối với giai cấp công
nhân. Bộ phận doanh nghiệp tư nhân (tư bản tư nhân) chỉ chiếm một phần nhỏ trong
các doanh nghiệp nước ta. Vì vậy, mâu thuẫn đối kháng tư bản - công nhân là rất ít,
tuy nhiên vẫn có ở các doanh nghiệp tư bản tư nhân. Nhà nước đã quy định những
chính sách nhằm đảm bảo được tối đa quyền lợi cho công nhân trong các doanh
nghiệp tư bản, giảm thiểu đến mức thấp nhất có thể khả năng bóc lột của nhà tư bản
như quy định mức tiền lương tối thiểu chung, quy định thời gian làm việc chung cho
cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, hoạt động mạnh các tổ chức
công đoàn bảo vệ người lao động, yêu cầu quỹ phúc lợi xã hội…
- Mức lương tối thiểu được quy định chung cho các doanh nghiệp là 210 000
đ/người. Trên đà phát triển nâng cao năng suất lao động, cường độ làm việc giá trị
sức lao động bị giảm đi. Và Việt Nam đã có chính sách điều chỉnh bằng cách dự tính

nâng mức lương tối thiểu lên 290 000đ.
- Quy định thời gian làm việc trong ngày là 8 tiếng. Và vừa rồi đã giảm giờ
làm việc trong mét tuần - công nhân được nghỉ cả thứ 7 và chủ nhật. Việc quy định
thời gian hạn chế nhà tư bản sử dụng biện pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
bằng cách kéo dài ngày lao động. Nếu muốn công nhân làm thêm giờ họ phải trả tiền.
Điều này cũng tạo động lực cho các nhà tư bản tìm kiếm lợi nhuận qua sản xuất giá
trị thặng dư tương đối và siêu nghạch, nghĩa là phải cải tiến kĩ thuật, công nghệ sắp
xếp nhân sự để có năng suất lao động càng cao, từ đó cải tiến xoá bỏ các kĩ thuật lạc
hậu, trang bị cho nền kinh tế nước ta mét cơ sở vật chất hiện đại hơn và trình độ nhân
sự Việt Nam cao hơn.
- Các tổ chức công đoàn hoạt động trong các doanh nghiệp tư nhân được
hưởng một phần lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng họ liên hệ và chịu sự quản lí của
công đoàn Nhà nước. Vì vậy, mục đích của họ là bảo hộ quyền lợi của giai cấp công
nhân. Công đoàn như người theo dõi của nhà nước trong các doanh nghiệp tư nhân,
kiểm tra xem tư bản bóc lột công nhân đến mức nào, họ đối xử với công nhân ra sao,
quyền lợi người lao động có được bảo đảm theo quy định của Nhà nước không. Khi
xảy ra các vụ việc vi phạm quyền lợi người lao động, tổ chức công đoàn sẽ báo cáo
17


để Nhà nước xử lý, không để cho người lao động bị thiệt hại. Các chủ tư bản sẽ bị xử
phạt nếu không đảm bảo quyền lợi hợp lý cho người lao động.
Nhà nước cũng yêu cầu các doanh nghiệp tư nhân tham gia hoạt động xã hội
như phúc lợi xã hội, trợ cấp, tài trợ kinh tế… Phần đầu tư này lấy từ lợi nhuận của
doanh nghiệp và chi cho các mục tiêu công cộng, vì vậy làm giảm mức độ bóc lột của
nhà tư bản với người lao động. Một cách nữa là Nhà nước tích cực làm giảm sự mất
công bằng và phân hoá giàu nghèo trong xã hội do chế độ tư hữu là đánh thuế thu
nhập, người có thu nhập cao thì nộp thuế nhiều hơn…
Sử dụng các biện pháp, chính sách trên mục đích của Nhà nước là lợi dụng
tính năng suất, hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý ở các doanh

nghiệp tư nhân, với kỹ thuật và công nghệ nhưng phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản
thu được nhỏ hơn tổng những lợi Ých xã hội mà Nhà nước thu được từ hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Các biện pháp của Nhà nước chỉ tác động vĩ mô tới các doanh nghiệp tư nhân
vì thực chất đây là các doanh nghiệp sở hữu riêng và nhiều hoạt động tuỳ thuộc vào
bản thân và lương tâm các nhà tư bản. Đối với doanh nghiệp tư bản Nhà nước thì Nhà
nước có ảnh hưởng nhiều hơn vì là một thành viên trong doanh nghiệp. Trong hoạt
động quản lý Nhà nước trực tiếp tham gia vào vì vậy bảo đảm được nhiều hơn quyền
lợi của người công nhân đồng thời lợi Ých mà Nhà nước thu được cũng nhiều hơn vì
nó lấy trực tiếp từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên vấn đề
khó khăn là việc phân định quyền hạn trách nhiệm giữa Nhà nước và nhà tư bản sao
cho hợp lý dung hoà được mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu xã hội. Điều này đòi hỏi
người cán bộ quản lý của Nhà nước phải thực sự có năng lực kiên định. Bên cạnh đó
cũng là cách tốt cho họ tự rèn luyện - học tập nâng cao năng lực quản lý của bản thân.
Tuy nhiên thực tế diễn ra ở nhiều doanh nghiệp liên doanh là tình trạng mâu thuẫn và
thường chủ tư bản mua nốt phần góp vốn của Nhà nước. Doanh nghiệp trở thành
Doanh nghiệp Tư bản Tư nhân của Tư bản một nước hay 100% vốn nước ngoài. Đây
là một hạn chế lớn và đã xảy ra ví dụ như đối với liên doanh nước ngọt Cocacola hay
nhiều lĩnh vực khác. Điều này là do cán bộ quản lý của ta thiếu kinh nghiệm hoặc do
nhà Tư bản cố ý, mâu thuẫn không thể dung hoà làm cho mối liên kết không tồn tại.
Tuy nhiên có nhiều doanh nghiệp liên doanh đã hoạt động tốt nh trong các công
18


trường xây dựng đập nước Thuỷ điện Sông Đà, khoan dầu… Đây là các dự án đầu tư
lớn của Nhà nước. Biện pháp của ta là dần dần thay thế vai trò, sự ảnh hưởng của bên
ngoài với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh này.
Bộ phận doanh nghiệp Nhà nước phải hoạt động có hiệu quả để thu lợi nhuận
cao, đứng vững với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Điều này đòi hỏi người cán bộ
quản lý tài giỏi. Biện pháp của nhà nước là không ngừng đào tạo những nhà quản lý,

đồng thời nâng cao trình độ Khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, mở rộng lĩnh
vực kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước. Toàn bộ nền kinh tế vận động đi lên
và các doanh nghiệp Nhà nước cũng nằm trong quá trình vận động đó.
Kết luận : Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta,việc
nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách
phương thức làm tang của cải,thúc đẩy tang trưởng kinh tế.Trong điều kiện điểm
xuất phát của nước ta còn thấp,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,cần tận dụng triệt để
các nguồn lực ,nhất là lao động và sản xuất kinh doanh.
Về cơ bản lâu dài,cần phải coi trọng việc tang năng suất lao động xã hội,coi
đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa nên kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để
tăng năng suất lao động xã hội,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

19


D. LỜI KẾT
Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác cũng có nghĩa là chúng ta
nghiên cứu học thuyết giữ vị trí “hòn đá tảng” trong toàn bộ lý luận kinh tế của
C.Mác, một trong những phát hiện viĩ đại của C.Mác, làm sáng tỏ bản chất của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho chúng
ta thấy rằng: Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả
năng xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn dân, và thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ
quốc. Đó là quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão
lớn, quyết tâm cao, chấp nhận những khó khăn thử tháchvà hy sinh cần thiết để vĩnh
viễn đưa dân tộc ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Đó là điều mà toàn thể nhân
dânViệtNam
Bài tiểu luận này hi vọng đã có thể cung cấp những kiến thức cơ bản về
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản và sự vận dụng nó vào

công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Tất nhiên, trong bài
tiểu luận này không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý
của thầy cô để bài tiểu luận có thể hoàn thiện hơn.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính trị
quốc gia.
2. C.Mác Tư bản quyển 3, NXB Sự Thật.
3. Một số chuyên đề về Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
4. Các bài tham khảo trên các website khác.

21



×