Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

BÀI GIẢNG KINH TẾ THỦY SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.21 KB, 29 trang )

Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

BÀI GIẢNG

KINH TẾ THỦY SẢN

Giảng viên: Nguyễn Minh Đức

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

1


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ KINH TẾ HỌC
I. Định nghĩa kinh tế học
Trong lịch sử phát triển của kinh tế học, đã có nhiều định nghĩa và khái
niệm về kinh tế. Sau những cuộc thảo luận về sản xuất và phân phối, kinh tế học
được xem là một khoa học độc lập chỉ được xác định chính thức vào thời điểm
xuất bản cuốn sách "Sự giàu có của các quốc gia" viết bởi Adam Smith1 năm
1776. Smith đã dùng thuật ngữ "kinh tế chính trị" để gọi tên môn khoa học này,
nhưng dần dần, thuật ngữ này đã được thay thế bằng thuật ngữ "kinh tế học" từ sau
năm 1870. Ông cho rằng "sự giàu có" chỉ xuất hiện khi con người có thể sản xuất
nhiều hơn với nguồn lực lao động và tài nguyên sẵn có. Như vậy, theo Smith, định
nghĩa kinh tế liên quan nhiều đến sự giàu có.
Từ năm 1932, Lionel Robbins2 (1935) đã đưa ra một định nghĩa bao quát
hơn cho kinh tế học hiện đại khi ông cho rằng kinh tế học là môn khoa học nghiên
cứu hành vi con người cũng như mối quan hệ giữa nhu cầu và nguồn lực khan
hiếm; trong đó có giải pháp chọn lựa cách sử dụng tài nguyên để đáp ứng các nhu
cầu của con người. Theo ông, sự khan hiếm nguồn lực có nghĩa là tài nguyên


không đủ để thỏa mãn tất cả mọi ước muốn và nhu cầu của mọi người. Không có
sự khan hiếm và các cách lựa chọn sử dụng nguồn lực khác nhau thì sẽ không có
vấn đề kinh tế nào cả. Do đó, kinh tế học, giờ đây trở thành khoa học của sự lựa
chọn, bị ảnh hưởng bởi các động lực để thỏa mãn nhu cầu của con người và bởi sự
sẵn có của các nguồn lực.
Đến năm 1963, Oskar Lange3 khái quát môn kinh tế chính trị hay kinh tế xã
hội như là một môn khoa học nghiên cứu các quy luật xã hội quy định các hoạt
động sản xuất và phân phối sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Tuy
nhiên, định nghĩa của Edmond Malinvaud4 (1972) có vẻ như được nhiều nhà kinh
tế chấp nhận nhất khi ông ta cho rằng kinh tế là “môn khoa học nghiên cứu việc sử
dụng các tài nguyên hữu hạn nhằm thoả mãn nhu cầu vô hạn của con người trong
xã hội”. Như vậy, kinh tế học quan tâm đến việc sử dụng các tài nguyên hữu hạn
vào các hoạt động sản xuất và phân phối sản phẩm nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu
vô hạn của con người.
1

Nhà triết học người Scotland (1723-1790) cũng được xem là cha đẻ của kinh tế học với tác phẩm nổi
tiếng “The Wealth of Nations” được xuất bản năm 1776.
2
Nhà kinh tế học người Anh (1898-1984)
Robbins, L. 1932. “An Essay on the Nature and Significance of Economic Science”. London: MacMillan,
160p.
3
Nhà kinh tế học người Ba Lan (1904-1965)
Lange, O., 1963. Polital Economy (Vol.1 General Problems, translated from Polish by A.H. Walker).
NewYork : Macmillan Co. 355p.
4
Nhà kinh tế học người Pháp (1923- )
Edmond Malinvaud, 1972. “Lectures on Microeconomic Theory”. Amsterdam:North-Holland Pub. Co.,
New York, American Elsevier Pub. Co. 319p; Translated from the French by A. Silvey


©TS Nguyễn Minh Đức 2010

2


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

Một trong các ứng dụng của kinh tế học là giải thích làm thế nào mà nền
kinh tế, hay hệ thống kinh tế hoạt động và có những mối quan hệ nào giữa những
người chơi (tác nhân) kinh tế trong một xã hội rộng lớn hơn. Những phương pháp
phân tích vốn ban đầu là của kinh tế học, giờ đây, cũng được ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực khác liên quan đến sự lựa chọn của con người trong các tình huống xã hội
như tội phạm, giáo dục, gia đình, khoa học sức khoẻ, luật, chính trị, tôn giáo, thể
chế xã hội hay chiến tranh.
2. Các khái niệm cơ bản trong kinh tế học
2.1. Sự khan hiếm
Sự khan hiếm là sự giới hạn khả năng cung cấp về nguồn lực sản xuất, sản
phẩm vật chất hay dịch vụ. Trên trái đất, tài nguyên thường có hạn và không đủ tài
nguyên để sản xuất ra đủ sản phẩm thoả mãn nhu cầu dường như là vô hạn của con
người. Nếu không khan hiếm, tất cả tài nguyên đều được sử dụng tự do và xã hội
không có nhu cầu sử dụng tài nguyên một cách hợp lý. Vì tài nguyên là có hạn,
quá trình sản xuất cần lựa chọn hình thức sử dụng tốt nhất các tài nguyên sẵn có.
Trong cuộc sống, một con người thường phải sử dụng tốt nhất các tài nguyên hay
nguồn lực sẵn có để phù hợp với mục đích sống của mỗi cá nhân và của toàn xã
hội. Nguồn tài nguyên có hạn phải được phân phối tốt nhất cho các mục đích sử
dụng khác nhau của mỗi cá nhân, mỗi đơn vị sản xuất. Để đạt được một mức thỏa
mãn nhu cầu như nhau, con người thường giảm thiểu việc sử dụng nguồn lực sao
cho việc sử dụng nguồn lực là tốt nhất, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của mình. Khi
ấy, con người thường phải giải bài toán cho mục tiêu cơ bản thứ nhất của kinh tế

học: tối thiểu hóa chi phí hay tối thiểu hóa nguồn lực.
2.2. Sự lựa chọn
Sự khan hiếm được hình thành là do các nhu cầu, đòi hỏi của con người là
vô hạn, không thể thoả mãn. Do vậy, con người cần phải có sự lựa chọn. Nếu tất
cả các hoạt động của con người là hoàn hảo thì trước tiên tất cả mọi người sẽ đáp
ứng nhu cầu của chính bản thân họ; những vật chất và sản phẩm có đòi hỏi cao
hơn sẽ được lựa trọn trước. Như vậy, việc lựa chọn là nội dung cơ bản của kinh tế.
Khi bạn không muốn làm một việc này, bạn có thể làm các công việc khác thay
thế. Thời gian cũng là một tài nguyên có hạn nên phải lựa chọn các sử dụng thời
gian phù hợp cho các công việc khác nhau.
Trong cuộc sống, lựa chọn thường xảy ra nhất là việc sử dụng tài chính.
Các nhà sản xuất thường đặt câu hỏi “Tôi nên đầu tư bao nhiêu tiền để sản xuất ra
một sản phẩm mới? hay “Chúng ta có thể tiết kiệm bao nhiêu tiền khi thay đổi
công nghệ?”,… Trong cuộc sống đời thường, chúng ta cũng thường đặt câu hỏi
nên chi bao nhiêu tiền cho việc mua thực phẩm, quần áo, bao nhiêu tiền cho các
©TS Nguyễn Minh Đức 2010

3


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

hoạt động học tập, giải trí,... Trong một khoản kinh phí nhất định, chúng ta không
thể mua một (vài) thứ này nếu như vẫn còn mong muốn mua những thứ khác hơn.
Mục tiêu và nhu cầu của con người là vô hạn trong khi tài nguyên, nguồn
lực là có hạn. Do đó, để lựa chọn, chúng ta cần phải quyết định hình thành hệ
thống các ưu tiên về nhu cầu và đòi hỏi cũng như ưu tiên phân phối tài nguyên
nhằm đạt được các nhu cầu đó. Do vậy, kinh tế trở thành môn khoa học về việc
đưa ra các lựa chọn như Robbins (1932) đã khẳng định trước đây.
2.3. Mức thỏa dụng

Mức thỏa dụng thể hiện sử thỏa mãn về nhu cầu của con người. Nhà sản
xuất mong muốn đạt được sản lượng hay lợi nhuận cao nhất, người tiêu dùng
mong muốn được hưởng thụ nhiều nhất sản phẩm và dịch vụ. Một giả định quan
trọng trong kinh tế là trong cuộc sống, con người thường đưa ra các quyết định
đúng đắn để thỏa mãn cao nhất nhu cầu hay mong muốn của mình. Như vậy, trong
việc lựa chọn các sản phẩm (để sản xuất hay để tiêu dùng), ta có thể nói sản phẩm
được lựa chọn luôn là sản phẩm thoả mãn nhất đối với người lựa chọn trong điều
kiện của họ.
Trong nuôi thủy sản, người nuôi cá thường gặp phải các vấn đề trong lựa
chọn đối tượng nuôi, lựa chọn mua các loại thức ăn và hoá chất khác nhau do tiềm
lực kinh tế của họ bị hạn chế. Các nhà quản lý thủy sản cũng có thể phải đưa ra
các quyết định sử dụng một thủy vực cho việc đầu tư vào khai thác tự nhiên hay
nuôi trồng thuỷ sản. Cũng tương tự như người dân, các nhà quản lý cũng gặp phải
khó khăn về tài chính và những rang buộc khác. Do vậy, họ có thể quyết định vừa
có sản phẩm đánh bắt thông qua khai thác quy mô nhỏ vừa có sản phẩm nuôi thủy
sản. Thông thường, việc đưa ra quyết định không chỉ trong giới hạn giữa hai hình
thức lựa chọn mà trong vô số khả năng khác nhau.
Sơ đồ 1 thể hiện hình thức lựa chọn hữu hiệu trong sản xuất nuôi thủy sản
với hai sản phẩm được lựa chọn là tôm và cá. Ta có thể thấy trên sơ đồ gồm 2
vùng, vùng có thể thực hiện được (bên dưới đường cong) và vùng không thể thực
hiện được (bên trên đường cong).
-

Nếu sử dụng toàn bộ nguồn lực để nuôi cá, ta có thể tạo ra lượng OA sản
phẩm
Nếu đầu tư toàn bộ nguồn lực cho nuôi tôm, ta tạo ra lượng OB sản phẩm
Nếu các nguồn lực được sử dụng để sản xuất cả hai loại sản phẩm trên, ở
các mức đầu tư khác nhau, ta có các lượng sản phẩm từ mỗi hoạt động khác
nhau


©TS Nguyễn Minh Đức 2010

4


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM



Vùng không thể sản xuất

A

Độ dốc của đường giới hạn sản xuất

F

A2

E2
E1

A1

Đường giới hạn sản xuất

Vùng có thể sản xuất

Tôm


O

B2

B1

B

Sơ đồ 1: Đường cong thay thế trong sản xuất
Đường cong phản ánh các cách kết hợp để có các mức sản lượng khác nhau
của hai loại sản phẩm được gọi là đường giới hạn sản xuất (production possibility
frontier). Nếu sản xuất ở một điểm kết hợp nằm dưới đường cong này, người sản
xuất chưa sử dụng hết các nguồn lực của họ. Nhà sản xuất thường mong muốn mở
rộng đường giới hạn này ra xa gốc tọa độ hơn, khi đó họ sẽ sản xuất nhiều tôm và
nhiều cá hơn. Tuy nhiên, họ chỉ có thể đạt được điều này khi họ sử dụng nhiều
nguồn lực hơn hay gia tăng năng suất của việc sử dụng nguồn lực.
Cùng với một mức chi tiêu nhất định, người tiêu dùng cũng mong muốn
mua được những số lượng cao nhất của các sản phẩm khác nhau để có thể đạt
được mức thỏa mãn cao nhất. Việc mong muốn mở rộng sự thỏa dụng chính là
việc làm thế nào để giải bài toán cho mục tiêu cơ bản thứ hai của kinh tế học: tối
đa hóa sự thỏa dụng, từ đó, thỏa mãn nhu cầu vô hạn của con người.

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

5


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

2.4 Chi phí cơ hội

Đường cong giới hạn sản xuất có chiều hướng đi xuống thể hiện rằng: trong
giới hạn của một đơn vị nguồn lực, việc gia tăng sản lượng của một loại sản phẩm
sẽ làm giảm sản lượng của sản phẩm thay thế. Hay nói cách khác, đường cong
phản ánh giá trị của một loại sản phẩm theo sản phẩm khác. Đây chính là giá trị cơ
hội hoặc giá trị của một cơ hội đã bị bỏ qua để thay thế bằng một cơ hội mới. Khi
một tài nguyên được sử dụng cho một mục tiêu, chi phí cơ hội của sự lựa chọn đó
là giá trị của sự lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua. Khi thực hiện một sự lựa chọn, ta
có thể đánh giá tính hợp lý bằng cách so sánh lợi ích mà sự lựa chọn đó tạo ra với
chi phí cơ hội của nó.
2.5 Ba câu hỏi cơ bản của kinh tế
Kinh tế học nghiên cứu các vấn đề trong quá trình sản xuất và phân phối
các sản phẩm, các dịch vụ; nghiên cứu ứng xử của con người trong việc lựa chọn
các phương thức sản xuất, các hình thức sử dụng các nguồn lực nhằm thoả mãn
nhu cầu và đòi hỏi của con người. Kinh tế học quan tâm đến tất cả các công đoạn
từ sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm, kể cả hành vi của người sản xuất, sự
thay đổi của thị trường và phản ứng thị hiếu của người tiêu thụ đối với một loại
sản phẩm. Như vậy, nghiên cứu kinh tế nhằm trả lời các câu hỏi:
- Sản xuất cái gì?
- Sản xuất như thế nào?
- Sản xuất cho ai?
Sản xuất cái gì?
Vì nguồn lực khan hiếm nên không thể dễ dàng đáp ứng mọi nhu cầu của
con người. Trong một mức nguồn lực, một trữ lượng tài nguyên hiện có, con
người phải lựa chọn để sản xuất một số loại hàng hóa nhất định. Việc lựa chọn loại
hàng hóa, dịch vụ gì nên được ưu tiên sản xuất sẽ được căn cứ vào nhiều yếu tố, ví
dụ như cầu của thị trường, khả năng về các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp, tình
hình cạnh tranh, giá cả trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả sẽ là tín
hiệu trực tiếp nhất giúp người sản xuất quyết định sản xuất cái gì.
Câu hỏi thứ nhất này có thể được hiểu như là: "Sản phẩm và dịch vụ nào sẽ
được sản xuất?". Trong nền kinh tế thị trường, sự tương tác giữa người mua và

người bán vì lợi ích cá nhân sẽ xác định sản phẩm và dịch vụ nào sẽ được sản
xuất. Adam Smith (1776) đã cho rằng sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất sẽ đem
lại lợi ích cho toàn xã hội. Sự cạnh tranh làm cho các nhà sản xuất cung cấp các
sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Trong việc tìm kiếm lợi nhuận,
nhà sản xuất cố gắng cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao hơn nhằm phục vụ
tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Điều này có thể giải thích tại sao người tiêu

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

6


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

dùng có "quyền tối thượng" xác định những sản phẩm và dịch vụ nào sẽ được sản
xuất. Các hoạt động tiếp thị của các công ty lớn có thể ảnh hưởng đáng kể đến cầu
tiêu dùng trong ngắn hạn. Nếu vì lý do nào đó, người tiêu dùng mong muốn tiêu
dùng sản phẩm nhiều hơn, điều này sẽ làm tăng cầu. Trong ngắn hạn, sự gia tăng
cầu có thể làm tăng giá cả của sản phẩm, lượng sản xuất cũng tăng lên và lợi
nhuận của các công ty trong ngành cũng cao hơn. Lợi nhuận cao trong ngành sẽ
hấp dẫn các công ty mới gia nhập thị trường trong dài hạn và vì vậy cung thị
trường sẽ tăng lên. Sự tăng cung sẽ làm cho giá cả hàng hóa giảm xuống trong khi
đó lượng bán vẫn tiếp tục tăng lên. Lợi nhuận trong ngắn hạn do sự gia tăng cầu
trong ngắn hạn dần dần sẽ bị mất đi khi giá giảm xuống. Do đó, theo Adam Smith
(1776), giá cả thị trường được hình thành là do “bàn tay vô hình” của thị trường
can thiệp. Chương 2 sẽ giải thích rõ ràng hơn vai trò và sự tương tác giữa cung và
cầu này.
Sản xuất như thế nào?
Sau khi quyết định được loại hàng hóa, dịch vụ gì nên được sản xuất, câu
hỏi quan trọng thứ hai là "Sản xuất như thế nào?", tức là tìm ra phương pháp, công

nghệ thích hợp cho sản xuất, và sự kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa các nguồn lực
đầu vào để sản xuất ra hàng hóa được lựa chọn. Đồng thời, giải quyết vấn đề "Sản
xuất như thế nào?" cũng chính là tìm câu trả lời cho những câu hỏi sau: hàng hóa
đó nên sản xuất ở đâu? sản xuất bao nhiêu? khi nào thì sản xuất và cung cấp? tổ
chức và quản lý các khâu từ lựa chọn đầu vào đến tiêu thụ, phân phối sản phẩm ra
sao?
Vấn đề này liên quan đến việc xác định những nguồn lực nào được sử dụng
và phương pháp để sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ. Chẳng hạn để sản xuất
ra điện, các quốc gia có thể xây dựng các nhà máy nhiệt điện, thủy điện, điện gió,
điện hạt nhân. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp sản xuất nào còn phải xem
xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế - xã hội, nguồn lực và trình độ khoa học kỹ
thuật của mỗi quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất vì mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận sẽ phải tìm kiếm các nguồn lực có chi phí thấp nhất có thể (giả định với số
lượng và chất lượng sản phẩm không thay đổi). Các phương pháp và công nghệ
sản xuất mới chỉ có thể được chấp nhận khi chúng giúp cho các nhà sản xuất tối
thiểu hóa việc sử dụng các nguồn lực sản xuất để làm giảm chi phí sản xuất, từ đó
gia tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm làm ra. Một lần nữa, "bàn tay vô hình" của
thị trường (Adam Smith, 1776) dẫn dắt cách thức sử dụng nguồn lực để đem lại
giá trị sử dụng cao nhất.
Trong thương mại quốc tế, một số quốc gia lựa chọn tập trung sản xuất một
số hàng hóa và trao đổi với các quốc gia khác. Vấn đề này liên quan đến việc xem

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

7


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM


xét chi phí cơ hội và bằng cách so sánh chi phí tương đối trong việc sản xuất các
hàng hóa, các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất những loại hàng hóa có chi phí cơ
hội thấp nhất và trao đổi chúng để có được các sản phẩm khác.
Sản xuất cho ai?
Sau khi xác định được loại hàng hóa, dịch vụ được sản xuất và phương
pháp sản xuất các loại sản phẩm đó, nhà sản xuất còn phải trả lời câu hỏi cơ bản
thứ ba là "Sản xuất cho ai?". Câu hỏi này liên quan đến việc lựa chọn người tiêu
dùng và lựa chọn cách thức phân phối các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được sản
xuất ra tới tay người tiêu dùng như thế nào.
Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập và giá cả xác định ai sẽ nhận hàng
hóa và dịch vụ cung cấp. Điều này được xác định thông qua tương tác của người
mua và bán trên thị trường sản phẩm và thị trường nguồn lực.
Thu nhập chính là nguồn tạo ra năng lực mua sắm của các cá nhân và phân
phối thu nhập được xác định thông qua: tiền lương, tiền lãi, tiền cho thuê và lợi
nhuận trên thị trường nguồn lực sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, những ai
có nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn và kỹ năng quản lý cao hơn sẽ
nhận thu nhập cao hơn. Với thu nhập này, các cá nhân trong vai trò là người tiêu
dung sẽ đưa ra quyết định nên mua loại sản phẩm nào và số lượng mua là bao
nhiêu trên thị trường sản phẩm. Giá sản phẩm sẽ định hướng cách thức phân bổ
nguồn lực cho những ai mong muốn trả với mức giá thị trường.
Vì nguồn lực là khan hiếm, số lượng sản phẩm và dịch vụ cung ứng cho thị
trường cũng hạn chế, người tiêu dùng cũng sẽ cạnh tranh để có những sản phẩm,
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của mình. Trong thị trường cạnh tranh tự do, sản phẩm sẽ
thuộc về người có khả năng trả giá cao nhất cho sản phẩm hay dịch vụ khan hiếm.
Tuy nhiên, vấn đề này sẽ được chính phủ xem xét và điều tiết thông qua các chính
sách về thuế, giá cả và trợ cấp, nhằm đảm bảo cho cả những người nghèo, khó
khăn, có thu nhập thấp cũng được hưởng những thành quả từ nguồn lực của xã
hội.
Vì nguồn lực là khan hiếm, người tiêu dùng cũng không thể mua tất cả các
sản phẩm và dịch vụ hiện có trên thị trường. Trong mức thu nhập hữu hạn, họ

phải lựa chọn để có những sản phẩm và dịch vụ thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của họ
theo hai mục tiêu cơ bản của kinh tế: tối đa hóa sự thỏa dụng và tối thiểu hóa chi
phí. Do đó, khi trả lời được câu hỏi “sản xuất cho ai?”, nhà sản xuất phải cung cấp
cho khách hang của mình những sản phẩm có chất lượng cao nhất, với số lượng
nhiều nhất và với giá cả hợp lý nhất. Sự canh tranh trong tiêu dung và cạnh tranh
trong sản xuất làm cho việc áp dụng kinh tế học vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh
ngày càng hấp dẫn và hữu ích hơn.

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

8


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nơng Lâm TPHCM

3. Các nguồn lực kinh tế
Theo các quan điểm kinh tế tân cổ điển, nền sản xuất cần hai loại nguồn lực cơ
bản là lao động (labor, viết tắt là L) và vốn (capital, viết tắt là K). Mở rộng ra, các
nguồn lực kinh tế bao gồm:
- Nguồn lực tự nhiên: diện tích đất đai, mặt nước
- Vốn: bao gồm vốn tư bản và vốn vật chất, kể cả cơng nghệ, bí quyết sản xuất.
- Lao động: khả năng lao động, nghiệp vụ chun mơn của con người được sử
dụng vào q trình sản xuất
- Kỹ năng quản lý: khả năng của người lãnh đạo đơn vị kinh tế, khả năng kết hợp
các nguồn tài ngun sẵn có để tạo ra những sản phẩm đáp ứng tốt nhất cho nhu
cầu của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, trên quan điểm của kinh tế phát triển, Ellis (2000) cho rằng bất kỳ một
tổ chức hay cá nhân nào đều phát triển kinh tế và đa dạng sinh kế dựa trên năm
loại nguồn lực kinh tế sau:


NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG

NGUỒN LỰC
XÃ HỘI

NGUỒN LỰC
TỰ NHIÊN
O

NGUỒN LỰC VẬT CHẤT

NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH

Hình 2. Năm loại nguồn lực kinh tế

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

9


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nơng Lâm TPHCM

3.1 Nguồn Lực Tự Nhiên
Nguồn lực tự nhiên gồm tất cả những nguồn lợi thuộc về tự nhiên mà
người dân sử dụng để kiếm sống
Nguồn lực tự nhiên hàm chứa tất cả từ những tài sản chung cho mọi
người như khí hậu, nhiệt độ, không khí, sự đa dạng sinh học cho đến các
tài nguyên được sử dụng trực tiếp cho sản xuất như đất đai, nguồn nước,
cây trồng, vật nuôi,…
Nguồn lực tự nhiên rất gần với các khái niệm rủi ro

Nguồn lực tự nhiên có vai trò rất quan trọng đối với nông dân vì họ lệ
thuộc rất nhiều vào thiên nhiên
3.2 Nguồn Lực Tài Chính
Nguồn lực tài chính thể hiện tất cả các nguồn tiền mà người dân có được
để phục vụ cho cuộc mưu sinh của mình.
– vốn tự có (như tiền mặt, trang sức hay các loài gia súc có thể bán
ngay để có tiền)
– vốn vay (từ ngân hàng hay bạn bè, người thân)
– tiền trợ cấp
3.3 Nguồn Lực Vật Chất
Nguồn lực vật chất bao gồm các cơ sở hạ tầng cơ bản, các tư liệu sản
xuất giúp cho người dân có thể theo đuổi kế sinh nhai của mình
– Cơ sở hạ tầng (đường giao thông, nơi ở, nguồn cấp thoát nước,
năng lượng và hệ thống truyền thông,… ) thường là các tài sản
công cộng, có thể sử dụng mà không trả tiền trực tiếp
– Các tư liệu sản xuất thường do sở hữu cá nhân hay tập thể hoặc có
thể được thuê mướn
Việc thiếu thốn hay hạn chế trong việc tiếp cận tới các nguồn lực vật
chất có thể là một yếu tố chính của đói nghèo
3.4 Nguồn Lực Lao Động
Nguồn lực lao động bao gồm tất cả khả năng lao động, kỹ năng, kiến
thức, kinh nghiệm và sức khỏe để giúp con người có thể thực hiện được

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

10


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nơng Lâm TPHCM


các kế sinh nhai của mình nhằm đạt được các kết quả và mục tiêu của
cuộc sống
Nguồn lực lao động bao gồm cả số lượng và chất lượng của đội ngũ lao
động sẵn có
Nguồn lực lao động là một nguồn lực tối quan trọng cho người nghèo vì
có thể sử dụng các nguồn lực khác cũng như sử dụng chính nó để đạt
được thành quả của cuộc sống
3.5 Nguồn Lực Xã Hội
Nguồn lực xã hội của một cá nhân hay một tổ chức bao gồm các mạng
lưới và sự liên kết ở các cấp khác nhau hay ở các ngành nghề khác nhau
giữa những người chia sẻ cùng loại lợi ích hay có cùng loại sở thích
Nguồn lực xã hội cũng có được từ quyền thành viên trong việc tham gia
các hiệp hội, đoàn thể và cả các mối quan hệ với các tổ chức khác nhau
trong xã hội
Cũng theo Ellis (2000), năm loại nguồn lực kinh tế có tác động qua lại và
chuyển hóa lẫn nhau. Nếu một quốc gia, một tổ chức kinh tế hay một cá nhân giàu
có về một loại nguồn lực trong năm loại trên, quốc gia đó, tổ chức đó, cá nhân đó
đều có thể sử dụng nguồn lực đó để chuyển hóa sang các loại nguồn lực khác. Tuy
nhiên, hiệu quả của việc chuyển hóa các nguồn lực và kết hợp chúng với nhau
trong q trình sản xuất kinh doanh đòi hỏi rất lớn vào kỹ năng quản trị, sự nhạy
bén kinh tế của người lãnh đạo.
4. Phân loại kinh tế
Kinh tế học bao gồm cả kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
Trong khi kinh tế học thực chứng đưa ra các nhận định có thể chứng minh hay bác
bỏ được với các chứng cứ, số liệu và các phương pháp thống kê tốn học thơng
qua các nghiên cứu, khảo nghiệm,…, kinh tế học chuẩn tắc đưa ra những nhận xét
mang tính lý luận và khơng thể chứng minh hay bác bỏ.
Trong kinh tế học, người ta cũng thường chia ra làm hai chun ngành kinh
tế chính, đó là kinh tế vi mơ và kinh tế vĩ mơ. Kinh tế vi mơ nghiên cứu về các
đơn vị kinh tế cụ thể trong nền kinh tế nói chung. Kinh tế vi mơ tập trung vào một

đơn vị kinh tế hoặc tập hợp của các đơn vị khác nhau trong nền kinh tế, liên quan
đến việc nghiên cứu các mối quan hệ giữa các đơn vị sản xuất với nhau. Trong khi
đó, kinh tế vĩ mơ quan tâm đến tồn ngành kinh tế, nghiên cứu các chức năng của
hệ thống kinh tế nhằm phù hợp với các vấn đề về tăng trưởng, lạm phát, đình trệ

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

11


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

hay thất nghiệp ở mức độ quốc gia hoặc ở mức ngành kinh tế như nông nghiệp,
thuỷ sản....
Ngày nay, kinh tế học còn được chia ra rất nhiều chuyên ngành nhỏ như:
kinh tế nông nghiệp, kinh tế ứng dụng, kinh tế phát triển, kinh tế tài nguyên môi
trường, kinh tế tài chính, kinh tế quốc tế (bao gồm cả ngoại thương), kinh tế
lượng, chính sách kinh tế, kinh tế công,…
5. Các hệ thống kinh tế
Các hệ thống kinh tế được hình thành dựa trên các hình thức sử dụng tài
nguyên. Các hệ thống kinh tế không hoàn toàn phụ thuộc hoặc không cần thiết
phải liên quan đến hệ thống chính trị. Hơn nữa, tất cả các hệ thống kinh tế đều
phải đưa ra các quyết định về:
-

Loại sản phẩm và dịch vụ nào được sản xuất
Ai sẽ liên quan đến quá trình sản xuất
Để có các loại sản phẩm và dịch vụ đó cần sủ dụng những tài nguyên nào
Các sản phẩm làm ra được phân phối như thế nào
Các sản phẩm và dịch vụ đó phục vụ ai.


Một hệ thống kinh tế sẽ được đánh giá thông qua việc liệu hệ thống đó có
mang lại hiệu quả cao nhất trong giới hạn tài nguyên và công nghệ cho phép. Hay
nói cách khác, việc sản xuất ra các loại sản phẩm phải đảm bảo có lợi và tối đa hoá
phúc lợi xã hội và lợi ích cộng đồng.

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

12


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

Tài nguyên
thiên nhiên

Sinh thái

Môi trường

Trang trại gia đình
Gia súc
Gia cầm
Thuỷ sản
Cây trồng
Trang thiết bị

Lao động
gia đình


C

Tiêu thụ sản phẩm
Đầu tư
Sản phẩm của hệ
thống sản xuất

B
A

Bán sản phẩm
Thị trường

Hình 3. Hệ thống sản xuất/hệ thống kinh tế nông nghiệp

A - Các hoạt động ngoài trang trại
B - Lao động thuê
C - Mua hoặc thuê đất sản xuất

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

13


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nơng Lâm TPHCM
CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ

QUỐC GIA/ MIỀN/TỈNH

CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƯƠNG


Giáo dục

Giáo dục

Thông tin

Thông tin

Kỹ Thuật

Kỹ Thuật
K.Nông

Quỹ
tài trợ
quốc tế

Ngân
hàng

Hội
Nông
Dân
NH/
Quỹ
tín
dụng

HT Nơng trại

Đất/nước
Nông
HTSX
hộ

Lao
Lao
động
động

Thò
trường
Lao
động

Nhân
lực
quốc
tế

Nguyên
Nguyên
Hàng tiêu dùng liệu
Nguyên
liệu
liệu
Nguyên
liệu
Chợ


Thò trường
Thò trường quốc tế

Chính sách giá
của quốc gia
Chính sách thương mại toàn cầu

Hình 4. Hệ thống sản xuất nơng trại nhìn từ quan điểm hệ thống
6. Kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch
Một nền kinh tế thị trường được đặc trưng bởi một thị trường cạnh tranh
hòan tồn (hay cạnh tranh tự do). Khi đó, giá cả các loại sản phẩm được quyết
định một cách độc lập bởi “bàn tay vơ hình”, do sự tương tác giữa cung và cầu.
Nền kinh tế thị trường được đặc trưng bởi:

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

14


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

-

-

Khách hàng là thượng đế, khách hàng có quyền lợi tối cao. Tiềm lực kinh tế
của khách hàng quy định cầu và quy định mức độ sản xuất
Nguồn lợi được sử dụng hợp lý và có hiệu quả. Việc cạnh tranh sống còn sẽ
thúc đẩy các nhà sản xuất đưa ra các loại sản phẩm với giá cả rẻ hơn trên
thị trường và giảm lợi nhuận đến mức thấp nhất.

Đảm bảo chắc chắn khía cạnh tự do kinh tế, kinh tế thị trường đòi hỏi mức
độ tương đối cao về tính độc lập của mỗi đơn vị sản xuất cũng như mức độ
lựa chọn về kinh tế. Người tiêu dùng hay nhà sản xuất đều có thể tự do
quyết định số lượng mua hay sản lượng cung cấp của sản phẩm. Trong kinh
tế thị trường, quyết định sản xuất được xác định dựa trên tài nguyên sẵn có,
thị hiếu, sức mua của người sử dụng và giá cả trên thị trường.

Trong nền kinh tế kế hoạch (hay còn gọi là kinh tế tập trung), các nhà
hoạch định chính sách, các nhà lập kế hoạch quyết định sản xuất các loại sản phẩm
và phân phối cho người sử dụng.
Giữa hai nền kinh tế tập trung và kinh tế thị trường có rất nhiều hệ thống
kinh tế khác, gọi là các hệ thống kinh tế kết hợp.
7. Các hệ thống kinh tế kết hợp
Một nền kinh tế kết hợp được thể hiện bởi các hoạt động kinh tế tự do của
các đơn vị sản xuất. Tuy nhiên, các quyết định sản xuất đôi khi được đưa ra từ các
cơ quan trung ương hoặc cấp trên. Trong các nền kinh tế kết hợp, các quyết định
về nhà xưởng, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công cộng được quyết định và tiến
hành bởi nhà nước trung ương. Chính phủ có thể đứng ra mua và trang bị tới trên
50% tổng số tài sản của đơn vị sản xuất, đặc biệt đối với các ngành kinh tế lớn như
khai thác tái nguyên khoáng sản, cơ khí chế tạo công nghiệp nặng,... Điều đó thể
hiện chính phủ vẫn duy trì một mức độ nào đó quyền điều hành đối với các đơn vị
sản xuất. Chính phủ, trong thời kỳ kinh tế chuyển đổi, thường khuyến khích phân
phối đều thu nhập trong xã hội và cung cấp khung pháp lý phù hợp với nền kinh tế
tự do.
8. Chức năng của hệ thống kinh tế
8.1. Quyết định loại sản phẩm sản xuất: Liên quan đến việc đánh giá và xác định
nhu cầu, đòi hỏi của xã hội. Xác định được đâu là nhu cầu quan trọng nhất, mức
độ nào thì thoả mãn được các nhu cầu.
- Kinh tế phải đưa ra được các phương pháp xácđịnh giá trị đối với mỗi loại
sản phẩm và dịch vụ mà nó có thể được chấp nhận bởi xã hội cũng như thể

hiện được nhu cầu của xã hội đối với mỗi loại sản phẩm và dịch vụ mà họ
có thể sản xuất.
©TS Nguyễn Minh Đức 2010

15


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

-

-

Giá trị của mỗi loại sản phẩm được định lượng bởi giá của nó trên thị
trường và được xác định bởi người mua.
Sản phẩm càng được đòi hỏi nhiều, nhu cầu càng cao thì người mua càng
sẵn sàng bỏ tiền ta mua và mua với giá cao hơn. Trong khi đó, lượng cung
của một sản phẩm càng lớn thì giá sản phẩm đó càng thấp hơn.
Điều này cho phép ta quyết định sản xuất một loại sản phẩm nào đó dựa
vào thị trường. Người tiêu thụ có thu nhập cao hơn thường ảnh hưởng đến
cơ cấu giá cả nhiều hơn so với những người có thu nhập thấp. Nhưng nhiều
người có thu nhập thấp trong xã hội (độ lớn của thị trường) cũng quyết định
cơ cấu giá cả. Hay nói cách khác, độ lớn của thị trường cũng quan trọng
như là giá cả.

8.2. Quản lý sản xuất: Liên quan đến việc sử dụng tài nguyên cho các hoạt
động sản xuất
- Hệ thống giá cả trong nền kinh tế tự do quyết định việc tổ chức sản xuất
- Khái niệm hiệu suất thể hiện mối quan hệ giữa nguyên liệu sản xuất và sản
phẩm. Hiệu suất kinh tế được đánh giá trong quan hệ tiền tệ đó là lợi ích

lớn hơn và chi phí thấp hơn.
- Nguyên liệu (tài nguyên) được sử dụng theo chiều hướng đạt được hiệu
suất kinh tế tối đa
8.3. Phân phối sản phẩm: Việc phân phối sản phẩm được hình thành cùng với
việc quyết định sản xuất loại sản phẩm gì và tổ chức sản xuất như thế nào.
- Thu nhập của một đơn vị sản xuất phụ thuộc vào
o Lượng các nguyên liệu (tài nguyên) đưa vào sản xuất
o Giá nguyên liệu
o Giá trị lao động
- Phân phối thu nhập phụ thuộc vào phân phối quyền sử dụng các tài nguyên
trong nền kinh tế và mức độ sử dụng các tài nguyên này vào sản xuất để tạo
ra các sản phẩm phục vụ thị hiếu của người sử dụng ở mức giá cao nhất.
- Chênh lệch về thu nhập là do việc sử dụng không đồng đều và không phù
hợp các tài nguyên vào sản xuất.
- Việc sở hữu các tài sản, tài nguyên trong xã hội sẽ được điều chỉnh thông
qua các chính sách thuế, trợ cấp, thay đổi về mặt thể chế, cải cách ruộng
đất...
8.4. Điều chỉnh ngắn hạn: Một hệ thống kinh tế phải có khả năng cung cấp và
điều chỉnh sản phẩm trong giai đoạn các dịch vụ cung cấp không thể thay đổi.
Ví dụ, sản phẩm thủy sản được sản xuất theo mùa vụ và nguồn sản phẩm chỉ có
trong một thời gian nhất định, do vậy trước tiên, sản phẩm phải được cung cấp
đều cho tất cả mọi đối tượng sử dụng. Sau đó, sản phẩm phải được rải đều qua
các giai đoạn thời gian đến lần thu hoạch tiếp theo.

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

16


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM


8.5. Duy trì và tăng trưởng kinh tế: Mọi hệ thống kinh tế phải có khả năng duy
trì và mở rộng khả năng sản xuất.
- Duy trì - Giữ vững khả năng và nhịp độ sản xuất ở giai đoạn suy giảm giá
trị tư liệu sản xuất (thời kỳ khấu hao)
- Mở rộng - Tiếp tục tăng về loại sản phẩm và lượng tài sản quốc gia cùng
với việc phát triển công nghệ.

Câu hỏi ôn tập
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Nêu và phân tích các khái niệm kinh tế
Nguồn gốc của hai mục tiêu cơ bản của kinh tế là gì?
Phân tích vai trò của các nguồn lực kinh tế trong việc phát triển thủy sản.
Vì sao nguồn lực xã hội được xem là một nguồn lực kinh tế quan trọng?
Dựa vào môn thủy sản đại cương đã học, nêu các khái niệm về thủy sản.
Vì sao sinh viên ngành thủy sản nên học thêm các môn học kinh tế?

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

17


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM
Chương 2. CUNG, CẦU VÀ GIÁ CẢ THỦY SẢN

Hai yếu tố quan trọng tác động đến các quyết định sản xuất kinh doanh là cung và
cầu. Hai yếu tố này liên quan chặt chẽ đến 2 mục tiêu cơ bản của kinh tế: tối đa hóa sự
thỏa dụng và tối thiểu hóa chi phí.
I. Cầu và đường cầu
Nhu cầu hay nhu cầu tiêu dùng hay còn được gọi là sở thích tiêu dùng. Trong
kinh tế học, nhu cầu nếu không có khả năng tài chính để đáp ứng sở thích tiêu dùng đó
không thể gọi tắt là cầu. Cầu của một loại sản phẩm được thể hiện ở những số lượng mà
người người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua ở các mức giá khác nhau, trong
điều kiện tất cả các yếu tố khác ảnh hưởng đến nhu cầu đều không đổi. Cầu về sản phẩm
của cả một ngành là tổng cầu của từng loại sản phẩm. Cầu thị trường đối với 1 loại sản
phẩm là toàn thể cầu của các cá nhân người tiêu dùng trong toàn thị trường cộng lại. Cầu
của tất cả các sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong một nền kinh tế gọi là tổng cầu.
Có hai yếu tố xác định một người tham gia vào thị trường hàng hóa có thể trở
thành người mua chứ không phải người đi ngắm hàng là:
1. Thị hiếu. Thị hiếu bao gồm khẩu vị và sự ưa thích. Yếu tố này quyết định người
tiêu dùng có sẵn sàng chi tiền để mua món hàng đó hay không. Nếu món hàng đó
rẻ thì có thể mua chúng hoặc cũng có thể không thèm đếm xỉa nếu được cho
không. Trong trường hợp sau, cầu bằng không.
2. Khả năng chi trả. Khẩu vị và sự ưa thích chưa đủ để thúc đẩy người đi mua sắm
trở thành người mua hàng. Món hàng hợp khẩu vị nhưng lại giá lại quá cao; khách
hàng không thể mua. Như vậy, cầu trong trường hợp này cũng là không.
Như vậy, cầu xoay quanh hai yếu tố: ý muốn mua và khả năng tài chính để mua.
Trong một khả năng tài chính cho phép, người tiêu dùng sẽ mong muốn mua được nhiều
hàng hóa và sử dụng nhiều dịch vụ nhất có thể được.
Lượng cầu là số lượng (Q – quantity) mà khách hàng sẵn sàng mua, nghĩa là sẵn
lòng trả tiền mua khi hàng hóa có sẵn, trong một thời điểm nhất định tại một giá nhất
định. Mối quan hệ giữa lượng cầu và giá sản phẩm (P – price) là tỷ lệ nghịch. Khi giá
tăng, lượng cầu sẽ giảm và ngược lại. Đường cầu của một loại sản phẩm trên trục tọa độ
Giá (P) và Lượng (Q) thể hiện những số lượng mà người người tiêu dùng muốn mua và
có khả năng mua sản phẩm đó ở các mức giá khác nhau. Từ mối quan hệ tỷ lệ nghịch

giữa lượng cầu và giá, đường cầu có hình dáng đi xuống và độ dốc âm (Hình 3).
Ví dụ: Quan hệ giữa giá cá và lượng cá bán
Giá cá trên thị trường (đồng)
15000
14000
13000

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

Lượng cá được mua (kg)
6
10
18

18


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM
12000
11000

28
40

Tuy nhiên, đường cầu của một sản phẩm có thể dịch chuyển sang phải hay sang
trái (thể hiện lượng cầu tăng hay giảm ở tất cả các mức giá khác nhau) bởi các yếu tố
khác, ngoài giá của sản phẩm. Các yếu tố khác, ngoài giá, có thể ảnh hưởng đến nhu cầu
bao gồm:
-


-

-

-

Dân số. Dân số tăng cao dẫn đến cầu thị trường tăng, tổng cầu tăng do số lượng
người sẵn sàng mua gia tăng.
Thu nhập của người tiêu thụ. Giả sử giá hàng hóa không thay đổi, thu nhập của
người dân càng cao, nhu cầu càng lớn. Ví dụ: Nhu cầu thủy sản nói chung và tôm
sú nói riêng trên thị trường thế giới gia tăng cùng với sự gia tăng của thu nhập
bình quân của mọi người trên thế giới. Tuy nhiên, thu nhập tăng có thể làm giảm
nhu cầu đối với hàng hóa thứ cấp và ngược lại, thu nhập giảm có thể làm tăng nhu
cầu đối với loại hang hóa này. Ví dụ: Theo một số nghiên cứu (Quaraignie và
Engle, 2004), cá tra đông lạnh Việt Nam tại thị trường Mỹ đã được chứng minh là
hàng hóa thứ cấp. Điều này có thể giải thích được vì sao trong thời kỳ khủng
hoảng tài chính thế giới 2008-2009, lượng xuất khẩu cá tra phi lê đông lạnh của
Việt Nam tăng rõ rệt so với thời kỳ trước đó.
Giá các loại sản phẩm thay thế khác (ví dụ: thịt gà, thịt heo). Khi giá của các mặt
hàng thực phẩm thay thế gia tăng, cầu về thủy sản tăng. Ví dụ: trong thời điểm
heo, gà, vịt bị dịch bệnh, giá thịt tăng dẫn đến nhu cầu thủy sản tăng.
Phong tục tập quán, tín ngưỡng. Ví dụ: Cầu về cá chép tăng nhanh trong ngày
23 tháng Chạp âm lịch. Trong một nghiên cứu của Nevo và Hatzitaskos5 (2005) ở
Hoa kỳ, trong tháng ăn chay của người theo đạo Công giáo, nhu cầu cá ngừ tăng
đến đỉnh điểm trong năm. Dellenbarger6 và ctv (1988) cũng đã phát hiện rằng các
gia đình Công giáo ở bang Louisiana (Mỹ) thường chi tiêu nhiều tiền hơn cho
thủy sản so với các hộ gia đình theo những tín ngưỡng khác.
Các yếu tố khác như tiếp thị, khuyến mãi,… Tiếp thị, khuyến mãi có thể là tăng
cầu trong ngắn hạn.
Sự kỳ vọng về giá của sản phẩm trong tương lai.


Cầu phái sinh
Cầu phái sinh của một sản phẩm là cầu phát sinh từ nhu cầu đối với sản phẩm khác. Ví
dụ, cầu của cá thác lác nuôi là nhu cầu phát sinh từ nhu cầu của người tiêu dùng đối với
những sản phẩm được chế biến từ cá thác lác như chả cá. Nhu cầu thức ăn cho cá cảnh
xuất phát từ nhu cầu nuôi cá cảnh giải trí.
5

Nevo, Aviv and Hatzitaskos, Konstantinos, Why Does the Average Price of Tuna Fall During Lent?
(August 2005). NBER Working Paper Series, Vol. w11572, pp. -, 2005. Available at SSRN:
/>6
Dellenbarger, L.E., J. Dillard, A.R. Schupp, and B.T. Young, 1988. “Socioeconomic Factors Associated
with At-Home and Away-from-Home Catfish Consumption in the United States” Unpublished report,
Louisiana Agricultural Experimental Station, Baton Rouge, Louisiana, 21 pages (cited by Jolly and Clonts,
1993)

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

19


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

II. Cung và đường cung
Cung là lượng sản phẩm mà nhà sản xuất sẵn sàng sản xuất và bán ra thị trường ở
các mức giá khác nhau. Lượng cung là số lượng hàng hóa mà người bán sẵn sàng bán
trong một thời kỳ nhất định. Lượng cung của toàn ngành là tổng sản phẩm của các nhà
sản xuất. Mối quan hệ giữa cung và giá thường tỷ lệ thuận. Cung thường tăng khi giá sản
phẩm trên thị trường tăng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực khai thác thủy sản, khi giá sản phẩm
thủy sản tăng, lượng thủy sản được khai thác và bán ra thủy sản sẽ tăng. Tuy nhiên, qua

một ngưỡng giới hạn nào đó, khi tài nguyên thủy sản không thể tái phục hồi kịp để bù
cho lượng thủy sản bị khai thác (hay còn gọi là ‘lạm thác’), khi giá sản phẩm thủy sản tự
nhiên tăng, lượng cung (nghĩa là lượng thủy sản khai thác được) sẽ ngày càng giảm
(Quaragnie và Engle, 2008). Đường cung khi đó sẽ có hình dạng bị ngoặt ngược trở lại
(Hình….).
Tương tự như đường cầu, đường cung của một sản phẩm có thể dịch chuyển sang
phải hay sang trái (thể hiện lượng cung tăng hay giảm ở tất cả các mức giá khác nhau).
Những yếu tố có thể làm dịch chuyển đường cung bao gồm:
-

-

-

-

-

Giá của các nguồn lực sản xuất (ví dụ: nguyên liệu, tiền lương, giá thuê đất,...).
Khi giá của nguyên liệu hay của các nguồn lực sản xuất khác gia tăng, đường
cung có xu hướng dịch chuyển sang trái (hay xuống dưới).
Sự thay đổi công nghệ sản xuất. Vd: Sự thành công trong việc sản xuất giống
nhân tạo cá tra, basa đã thúc đẩy sự phát triển về sản lượng cá tra được nuôi tại
Đồng bằng sông Cửu Long (Nguyễn Minh Đức7, 2009; Duc8, 2010)
Sự thay đổi trong các chiến lược marketing. Việc áp dụng công nghệ phi lê cá
tra, nuôi cá tra thịt trắng đã tạo nên một lượng cung lớn sản phẩm cá da trơn đông
lạnh ra thị trường thế giới (Nguyễn Minh Đức, 2009). Việc sáng tạo ra những
món ăn mới chế biến từ ba ba (nướng, nấu chuối,…) đã thúc đẩy việc gia tăng sản
lượng nuôi ba ba ở miền Nam Việt Nam trong năm 2009.
Khả năng sinh lợi của những sản phẩm thay thế. Ví dụ: lợi nhuận cao từ việc

nuôi tôm thẻ chân trắng đã dẫn đến hiện tượng một số đáng kể diện tích ao nuôi
tôm sú đã được chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng, khiến cho sản lượng nuôi
tôm sú giảm trong những năm gần đây.
Sự thay đổi giá của sản phẩm đi kèm. Ví dụ: sự tăng giá ngọc trai nhân tạo đã
gia tăng lượng cung của loài trai nuôi lấy ngọc (Jolly and Clonts, 2003).
Sự kỳ vọng về giá của sản phẩm trong tương lai. Khi người sản xuất kỳ vọng giá
sản phẩm sẽ tăng trong tương lai gần, họ sẽ không sẵn sang bán sản phẩm ra thị
trường làm lượng cung suy giảm.

7

Nguyễn Minh Đức, 2009. Cơ hội phát triển từ những thách thức trong quá trình phát triển của ngành sản
xuất cá tra Việt Nam. Hội thảo “Phát triển bền vững nghề cá ở Đồng bằng song Cửu Long – Những thách
thức trong tương lai” 5/6/2009.
8
Nguyen M. Duc, 2010. "Application of Econometric Models for Price Impact Assessment of Antidumping
Measures and Labeling Laws on Global Markets: A Case Study of Vietnamese Striped Catfish". Reviews in
Aquaculture. 2(2):86-101.

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

20


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM
-

-

Chính sách của Nhà nước (ví dụ: thuế, trợ cấp sản xuất, trợ giá, chính sách bảo

vệ môi trường,...). Theo Duc (2010), chính sách hội nhập thế giới của Việt Nam
cùng với Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã tạo điều kiện cho thủy sản Việt Nam,
đặc biệt là cá tra, gia tăng sản lượng sản xuất để xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Trong khi đó, việc điều tra và áp thuế chống phá giá của Chính phủ Mỹ đối với cá
tra nhập khẩu từ Việt Nam đã làm giảm hẳn lượng cung cá tra đông lạnh vào thị
trường Mỹ trong 2 năm 2002-2003 và một số lượng đáng kể nông dân đã ngừng
nuôi cá tra này trong khoảng thời gian này (Brambilla9, 2008).
Tính mùa vụ của sản xuất
Thời tiết, khí hậu

Giá

Cung

Cầu
P1

A

P0

Q1

Q0

Q2

Lượng

Hình 3. Đường cầu, đường cung và điểm cân bằng thị trường

Sự hình thành giá cân bằng trong thị trường cạnh tranh hoàn toàn
Trong hình 3, hai đường cung và cầu gặp nhau tại điểm A. Tại thời điểm giá P0,
khách hàng mong muốn mua một lượng sản phẩm bằng chính lượng sản phẩm mà nhà
sản xuất mong muốn bán ra. Giá P0 được gọi là giá cân bằng, lượng Q0 gọi là lượng cân
bằng, và điểm A được gọi là điểm cân bằng thị trường (market equilibrium).
Khi giá tăng từ P0 đến P1, khách hàng sẽ mua 1 lượng Q1 nhưng nhà sản xuất lại
mong muốn bán ra lượng Q2. Như vậy, lượng cung sẽ nhiều hơn lượng cầu, một sự dư
thừa (hay còn gọi là thặng dư) sẽ xuất hiện trên thị trường. Khi đó, một số nhà sản xuất
(hay người bán) có chi phí sản xuất (kinh doanh thấp hơn những người khác) sẽ sẵn sàng
9

Brambilla, Irene, Porto, Guido G. and Tarozzi, Alessandro, Adjusting to Trade Policy: Evidence from
U.S. Antidumping Duties on Vietnamese Catfish (November 2008). NBER Working Paper Series, Vol.
w14495, pp. -, 2008. Available at SSRN: />
©TS Nguyễn Minh Đức 2010

21


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM
giảm giá để có thể tối đa hóa sản lượng bán ra và cố gắng bán hết lượng sản phẩm dư
thừa; từ đó, giá sản phẩm trên thị trường giảm.
Ngược lại, khi giá sản phẩm giảm xuống, thấp hơn P0, nhu cầu của sản phẩm trên
thị trường sẽ tăng làm lượng cầu vượt quá lượng cung và một sự khan hiếm xuất hiện trên
thị trường. Khi đó, để tối đa hóa sự thỏa dụng của mình, một số người mua có khả năng
tài chính cao hơn những người khác sẵn sàng mua sản phẩm với mức giá cao hơn; từ đó,
giá sản phẩm trên thị trường sẽ tăng lên. Trong thị trường cạnh tranh hoàn toàn, tại thời
điểm giá cân bằng P0 thì không có sự khan hiếm hoặc dư thừa sản phẩm trên thị trường
và thị trường luôn luôn ở trạng thái cân bằng. Sự thay đổi cầu và cung sẽ hình thành một
mức giá cân bằng mới và lượng cân bằng mới.

III. Độ co giãn của cầu (demand elasticilty)
Có 3 loại co giãn của cầu bao gồm co giãn của cầu theo giá, co giãn của cầu theo thu
nhập và co giãn chéo.
1. Độ co giãn của cầu theo giá (Ep)
Độ co giãn của cầu theo giá của một sản phẩm là mức độ phản ứng của cầu của
sản phẩm đó đối với sự thay đổi giá của chính sản phẩm đó trên thị trường. Mối quan hệ
của cầu và giá cho biết lượng sản phẩm được mua sẽ tăng nếu giá giảm và ngược lại. Tuy
nhiên, mức độ tăng (giảm) của lượng cầu của một sản phẩm khi giá của sản phẩm đó
giảm (tăng) một phần trăm (1 %), trong điều kiện các yếu tố khác không đổi (ceteris
parabus) sẽ được thể hiện qua hệ số co giãn của cầu theo giá (price elasticity -Ep). Như
vậy,
Ep =

(% thay đổi lượng cầu)/(% thay đổi giá) hay

∆Q
%∆Q
Q ∆Q P
Ep =
=
=
*

P
%∆P
∆P Q
P
Tại mức giá trung bình ( P ) và lượng cầu trung bình ( Q ), ta có

∆Q

%∆Q
Q ∆Q P
Ep =
=
=
*
%∆P ∆P
∆P Q
P
Do quan hệ giữa cầu và giá của một sản phẩm là tỷ lệ nghịch, Ep sẽ mang dấu âm.
Do đó, trong kinh tế học, các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn đến giá trị tuyệt đối của
Ep hơn là dấu của nó. Cầu của một loại sản phẩm được gọi là co giãn khi giá trị tuyệt đối
của Ep lớn hơn 1. Trong trường hợp này, khi có sự giảm nhẹ về giá, lượng tiêu thụ trên

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

22


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM
thị trường tăng ở mức độ phần trăm lớn hơn mức độ phần trăm giảm giá. Do vậy, người
sản xuất sẽ đạt được doanh thu cao hơn và người mua chỉ phải trả với giá thấp hơn.
Ví dụ: Với giá cá là 6.000 đồng/kg, lượng cá tiêu thụ là 40kg và thu nhập mang
lại là 240.000 đồng. Khi giá giảm xuống còn 4.000, lượng cá bán ra tăng lên đến
80kg, thu nhập mang lại là 320.000 đồng, tăng 80.000 đồng so với trước khi giảm
giá..
Hệ số co giãn do giá Ep tại thời điểm này là:

80 – 40
Ep = ----------60


/

4.000 – 6.000
----------------- = -0.67/0.40 = -1.68
5000

P

6.000
4.000

Q
40

80

Cầu của một loại sản phẩm được coi là không co giãn khi giá trị tuyệt đối của Ep
nhỏ hơn 1. Trong trường hợp này phần trăm tăng trong nhu cầu về 1 loại sản phẩm sẽ
thấp hơn phần trăm giảm giá. Đối với những sản phẩm không (hay ít) nhạy cảm với giá,
nghĩa là có hệ số co giãn theo giá nhỏ hơn 1, việc giảm giá sẽ không tạo ra một doanh thu
cao hơn vì mức độ lượng cầu tăng lên sẽ không nhiều như mức độ giảm giá. Trong
trường hợp này, việc tăng giá sản phẩm chỉ làm sản lượng tiêu thụ giảm chút ít nên doanh
thu sẽ tăng. Tuy nhiên, việc tăng doanh thu này sẽ chỉ xảy ra trong điều kiện không có tác
động của các yêu tố khác đối với cầu của sản phẩm.
Ví dụ: khi giá cá rô phi giảm từ 6.000 đồng/kg xuống 4.000 đồng/kg, lượng cầu
của sản phẩm tăng từ 50kg lên 60kg, tổng thu của nhà sản xuất giảm từ 300.000
đồng (6.000 x 50) xuống còn 240.000 đồng (4.000 x 60). Co giãn do giá Ep tại
thời điểm này là:


Ep =

(60-50)/[(60+50)/2]
------------------------------------------ = 0.18/0.4 = 0.45
(6.000 – 4.000)/[(6.000 + 4.000)/2]

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

23


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM

P

6.000
4.000

50

60

Q

Khi giá trị tuyệt đối của Ep bằng 1, cầu của một loại sản phẩm được xem là co
giãn đồng nhất hay co giãn theo đơn vị. Khi đó, 1% thay đổi về giá sẽ dẫn đến 1% thay
đổi (theo tỷ lệ nghịch) về lượng cầu. Doanh thu sẽ không thay đổi.
Ví dụ: Tại giá 30.000 đồng có 20kg cá được mua (tổng thu 30.000 x 20 = 600.000
đồng), khi giá giảm xuống còn 20.000 đồng, sẽ có 30kg cá được mua (tổng thu
20.000 x 30 = 600.000 đồng). Co giãn do giá tại giá trị trung bình sẽ là:


Ep =

(30.000 – 20.000)/[(30.000 + 20.000)/2]
------------------------------------------------- = 0.4/0.4 = 1
(3-2)/[(3+2)/2]

P

30.000
20.000

Q
20

30

Cầu của một loại sản phẩm được coi là co giãn hoàn hảo khi Ep = ∞. Lúc này,
toàn bộ lượng tăng về cung sẽ được thị trường tiêu thụ tại một mức giá cố định và thu
nhập mang lại tăng dần khi lượng sản phẩm bán ra tăng.
Ví dụ: Tại mức giá 40.000 đồng/kg, một nông dân bán được 40kg cá tai tượng,
doanh thu của ông ta là 40.000 x 40 = 1.600.000 đồng. Doanh thu của ông ta sẽ
tăng lên 3.200.000 khi có 80kg bán được dù vẫn giữ mức giá ở 40.000 đồng/kg.

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

24


Bài giảng Kinh tế thủy sản – ĐH Nông Lâm TPHCM


Co giãn của đường cầu do giá tại giá trị trung bình sẽ là:

(80 – 40)/(80+40)/2
Ep = ------------------------- = ∞
0
Khi độ co giãn của cầu theo giá Ep = 0, cầu của một loại sản phẩm được coi là
không co giãn hoàn toàn. Lượng cầu hoàn toàn không thay đổi do sự thay đổi của giá.
Ví dụ, lượng sản phẩm bán được là 60kg cá, không thay đổi khi giá cá thay đổi từ
30.000 đồng/kg lên 60.000 đồng/kg. Co giãn do giá tại giá trị trung bình sẽ là

Ep =

0
---------------------------------------------- = 0
(60.000 – 30.000)/[(60.000+30.000)/2]

Theo Jolly và Clonts (1993), những sản phẩm có độ co giãn theo giá thấp (trị
tuyệt đối của hệ số co giãn nhỏ hơn 1) thong thường là những sản phẩm thiết yếu trong
đời sống người tiêu dùng. Giống như đa số các nông sản khác, các sản phẩm thủy sản
thông thường được dùng như thực phẩm và là những sản phẩm thiết yếu trong cuộc sống.
Do đó, hệ số co giãn theo giá của đa số các sản phẩm thủy sản được nuôi phổ biến thường
thấp hơn 1, nghĩa là sản phẩm nuôi trồng thủy sản thông thường đều ít co giãn theo giá
của chính nó. Nói cách khác, nhu cầu của sản phẩm nuôi thủy sản thường ít nhạy cảm với
giá của nó. Nếu như mục tiêu của nuôi thủy sản là nhằm đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng
của con người, những loài thủy sản có hệ số co giãn của cầu theo giá cao sẽ được lựa
chọn trước. Đó thường là những loài được người mua ưa chuộng. Ví dụ: cá hồi, cá mú,
tôm, cua,... Khi giá sản phẩm giảm 1%, lượng tiêu thụ có thể tăng nhiều hơn 1%. Nhà
sản xuất nên cố gắng gia tăng sản lượng thông qua việc tăng hiệu suất sản xuất và
giảm chi phí để giảm giá. Tại một thời điểm nhất định, các nhà sản xuất nên tăng

cường các hoạt động tiếp cận thị trường, nâng cấp các phương tiện vận chuyển và chế
biến. Đối với những loài thủy sản thông thường (có độ co giãn của cầu theo giá thấp) vẫn
được lựa chọn để nuôi nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng của cộng đồng, thì các quyết
định giảm giá để tăng lượng cầu sẽ không mang lại hiệu quả. Hoạt động sản xuất thủy sản
lúc này cần phải được hỗ trợ, trợ cấp cùng với các hoạt động tạo thị trường, nâng cao
hiểu biết của người sử dụng, cải thiện sự hấp dẫn của sản phẩm,…

2. Hệ số co giãn của đường cầu theo thu nhập (Ei)
Đối với một sản phẩm nào đó, hệ số co giãn của cầu theo thu nhập là tỷ lệ phần
trăm thay đổi lượng cầu (Q-quantity) của sản phẩm đó do 1% thay đổi của thu nhập (I income) tạo ra trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Về mặt toán học, độ co
giãn theo thu nhập (Ei - Income elasticity) được thể hiện như sau:

©TS Nguyễn Minh Đức 2010

25


×