Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN QUAN hệ QUỐC tế, một số XU THẾ lớn TRONG QUAN hệ QUỐC tế, ý NGHĨA đối với VIỆC THỰC HIỆN ĐƯỜNG lối đối NGOẠI của ĐẢNG và NHÀ nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.69 KB, 28 trang )

MỘT SỐ XU THẾ LỚN TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ - Ý
NGHĨA ĐỐI VIỆC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Trong lịch sử của quan hệ quốc tế cho thấy, tham gia vào đời sống quốc
tế không chỉ có những quốc gia, mà còn bao gồm nhiều chủ thể quốc tế khác
với tính cách là những thực thể chính trị - xã hội có tính độc lập tương đối.
Đồng thời, nội dung, hình thức, quan hệ cũng ngày càng phong phú và đa
dạng; quy mô và phạm vi quan hệ ngày càng sâu rộng. Toàn bộ các chủ thể và
mối quan hệ tác động qua lại, đan xen nhau giữa các chủ thể đó tạo nên một
hệ thống cấu trúc quan hệ quốc tế trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Các mối quan hệ quốc tế mặc dù diễn ra phức tạp và biến đổi không
ngừng, với những tác động nhiều chiều, song vẫn gắn bó với nhau trong một
chỉnh thể có tính hệ thống và tuân theo quy luật xã hội khách quan. Chính vì
vậy, cũng như mọi hiện tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội khác, thế giới
loài người với tính hệ thống chỉnh thể của nó là những quá trình vận động
không ngừng theo những quy luật nhất định. Quá trình vận động đó, đến một
giới hạn nào đó sẽ đạt tới trạng thái ổn định tương đối - trạng thái cân bằng
động. Lúc đó các thành tố nằm trong hệ thống - mà ở đây là các chủ thể trong
hệ thống quan hệ quốc tế có mối liên quan bền vững, tác động, chi phối lẫn
nhau, tạo nên trạng thái ổn định bền vững của cả hệ thống quan hệ quốc tế.
“Chiến tranh lạnh” kết thúc, trật tự hai cực biểu hiện cuộc đối đầu
Đông - Tây khốc liệt của thế giới đã đi đến điểm kết. Song, trật tự thế giới
mới vẫn còn đang trong quá trình hình thành. Dựa vào thực lực kinh tế, chính
trị và quân sự của mình, Mỹ không từ bỏ mục đích bá chủ thế giới. Tuy nhiên,
sự phát triển không ngừng của Nhật Bản, Tây Âu; sự vươn lên mạnh mẽ của
Trung Quốc; những cuộc đấu tranh mạnh mẽ nhằm củng cố, bảo vệ độc lập,
chủ quyền của các nước thuộc “thế giới thứ ba” dưới nhiều hình thức, biện
pháp để chống lại sự can thiệp và ảnh hưởng của các nước lớn… đã tạo ra
những tương quan lực lượng không nhỏ đối với Mỹ. Điều này cho thấy, thế
giới hậu lưỡng cực đang hướng tới xác lập một trật tự mới với nhiều hướng
khác nhau: đơn cực, đa cực, nhất siêu đa cường,...



1


Sự kết thúc của “Chiến tranh lạnh” tuy không mở ra kỷ nguyên mới
hòa bình và thịnh vượng như nhân loại tiến bộ mong đợi vì những xung đột
sắc tộc, mâu thuẫn tôn giáo và các cuộc chiến tranh cục bộ ở nhiều khu vực
vẫn diễn ra triền miên, song đã tạo ra những điều kiện khiến cho xu thế hòa
dịu, hòa hoãn trở nên chiếm ưu thế trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc
trên thế giới; tạo những tiền đề cho đa cực hóa các mối quan hệ - một điều
kiện quan trọng dẫn đến hình thành xu thế đa dạng hóa, đa phương hóa, hội
nhập khu vực và quốc tế trong quan hệ quốc tế hiện nay.
1. Tình hình thế giới
Từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, phong
trào cộng sản công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, phong trào độc lập dân
tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia của các nước đang phát triển có những hạn
chế, song xu thế vận động của thời đại hiện nay vẫn là sự quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Về sự quá độ của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, biểu hiện ở hai vấn đề:
Một là, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại (Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên) đã trụ vững và giành
nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế- xã hội, tiếp tục sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đặc
biệt, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà Trung Quốc giành được
trong cải cách, mở cửa (trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới), Việt Nam
giành được trong đổi mới, khẳng định con đường sử dụng kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế để đẩy nhanh phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng
cơ sở vật chất- kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hai là, từ năm 1998 đến nay, xuất hiện trào lưu cánh Tả ở Mỹ La Tinh.
Các lực lượng cánh Tả đã lên nắm quyền ở Vê-nê-du-ê-la (từ 1998), Chi-lê

(từ 2000), Bra-xin (từ 2002), Ác-hen-ti-na (từ 2003), Pa-na-ma (từ 2004), Uru-goay (từ 2004), Bô-li-vi-a (từ 2005), Ê-cu-a-đo (từ 2006), Ni-ca-ra-goa (từ
2007), Goa-tê-ma-la (từ 2007). Ở mức độ này hay mức độ khác, các chính
phủ cánh tả, tiến bộ ở các nước này đều tiến hành các cuộc cải cách mang tính
dân tộc, dân chủ nhằm củng cố độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, mở
rộng dân sinh, dân chủ… thể hiện khuynh hướng độc lập hơn với Mỹ. Bốn nước

2


Vê-nê-du-ê-la, Bô-li-vi-a, Ê-cu-a-đo, Ni-ca-ra-goa lựa chọn con đường phát triển
theo hướng xây dựng “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”. Thực tiễn cho thấy chủ
nghĩa xã hội đang là một lý tưởng có sức cuốn hút đông đảo quần chúng lao
động ở các nước Mỹ La Tinh tích cực tham gia vào tiến trình cải cách, tiến tới
xây dựng một xã hội mới.
Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ với nội
dung cơ bản là, cách mạng công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu mới và
sinh học… các yếu tố này cũng tham gia tích cực thúc đẩy nền kinh tế tri thức
mở rộng. Sự phát triển đó làm tăng nhanh sức sản xuất dẫn tới chuyển dịch cơ
cấu kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng. Mọi mặt đời sống xã hội đều thay
đổi. Thời kỳ quốc tế hoá nền sản xuất hiện đại, đồng thời cũng là thời kỳ thúc
đẩy nền kinh tế toàn cầu. Nhiều mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
thế giới đều thay đổi. Các quốc gia, dân tộc sống, quan hệ tuỳ thuộc vào nhau
và đều đứng trước cơ hội để phát triển. Cuộc cạnh tranh để tồn tại và phát
triển giữa các nước cũng diễn ra sâu sắc. Thời cơ và thách thức đặt ra đối với
tất cả các nước, trước hết là các nước đang phát triển. Việc nắm bắt, khai thác
những thành tựu khoa học và công nghệ, thị trường vốn, lao động và các tiềm
năng khác sẽ là điều kiện để các nước đang phát triển vươn lên hay tụt hậu…
Cuộc đấu tranh giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa hệ tư
tưởng Mác- Lênin và hệ tư tưởng tư sản đang diễn ra gay gắt, quyết liệt. Những
nội dung, hình thức biểu hiện trong cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc, giữa lao

động và bóc lột, giữa cưỡng chế, áp đặt và bảo vệ chủ quyền quốc gia cho nền
độc lập dân tộc mang sắc thái mới. Chủ nghĩa đế quốc, các thế lực phản cách
mạng đang tăng cường chiến lược “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” đối
với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển.
Các nước lớn tiếp tục giữ vai trò chi phối đối với cục diện thế giới,
quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
kiềm chế, ngăn chặn lẫn nhau. Trên các vấn đề cụ thể và tại mỗi địa bàn cụ
thể có sự dàn xếp hoặc tranh chấp lợi ích đan xen rất phức tạp với nhau.
Cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách:
bảo vệ môi trường sinh thái, đấu tranh bảo vệ hoà bình, hạn chế bùng nổ dân
số, giải quyết đói nghèo, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo.

3


Những vấn đề này không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết được,
mà phải có sự hợp tác đa phương của mọi quốc gia dân tộc. Mặt khác, cũng
phải có vai trò của Liên Hợp Quốc với cơ chế quốc tế phù hợp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nhất là vòng cung Đông Á, là khu
vực khá năng động, với tốc độ cao, có triển vọng. Nhìn chung, châu Á - Thái
Bình Dương là nơi tập trung nhiều quốc gia lớn, có tiềm năng. Ngoài các trung
tâm kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản còn có nhiều quốc gia là những nước công
nghiệp mới và các nước đang tiếp cận nền kinh tế phát triển như Trung Quốc và
một số nước Đông Nam Á… ở đây đang diễn ra xu thế nhiều mặt, nhiều tầng,
nhiều nấc thang, khu vực, tiều khu vực, tam, tứ giác kinh tế… với tiềm năng to
lớn và xu thế liên kết hợp tác trong khu vực không chỉ tạo đỉều kiện cho các
quốc gia châu Á - Thái Bình Dương phát triển, mà còn là nhân tố tác động to lớn
đến nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, ở khu vực cũng tiềm ẩn những nhân tố
gây mất ổn định, đáng chú ý là: tình hình phức tạp tại bán đảo Triều Tiên; vấn đề
Đài Loan; khủng hoảng chính trị ở Thái Lan, những tranh chấp về ảnh hưởng và

quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước; nguy cơ
chạy đua vũ trang; tình hình chiến sự liên quan đến các hoạt động khủng bố và
chống khủng bố, ly khai và chống ly khai; tình hình an ninh và ổn định chính trị
- xã hội ở một số nước trong khu vực có nhiều mặt phức tạp…
2. Xu thế quan hệ quốc tế hiện nay
`Đánh giá, nắm bắt chính xác tình hình thế giới, nội dung, tính chất, đặc
điểm và xu hướng phát triển của thời đại hiện nay là một vấn về lý luận và
thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, xu thế thời đại hiện nay ảnh hưởng, tác động,
chi phối đến xu thế quan hệ quốc tế, ngược lại xu thế quan hệ quốc tế phù hợp
với sự vận động, phát triển, tính chất và các mâu thuẫn của thời đại hiện nay.
2.1. Tính chất của thời đại hiện nay
Đó là tính chất quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới thông qua đấu tranh gay gắt, lâu dài, phức tạp giữa
hai con đường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đây là cuộc đấu tranh
giữa hai kiểu chế độ xã hội hoàn toàn khác nhau về chất, trên mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng đấu tranh giai

4


cấp, đấu tranh dân tộc và cách mạng xã hội, chứ không thể bằng cải lương,
hòa bình chủ nghĩa.
Sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều
giai đoạn trung gian chuyển tiếp lâu dài, thậm chí có lúc quanh co thất bại. Đó
cũng là quy luật chung của quá trình phát triển. Chủ nghĩa tư bản chiến thắng
chế độ phong kiến cũng phải trải qua quá độ quanh co phức tạp không thể làm
một lần là xong.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mới, khác về chất so với chế độ
xã hội trước đó, nên cũng không thể tránh khỏi những sai lầm khiếm khuyết,

cũng như sự chống phá quyết liệt của kẻ thù và những phần tử cơ hội, thoái
hóa, biến chất. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một quá
trình lịch sử lâu dài, đan xen giữa cái cũ và cái mới, cái lạc hậu và cái tiến bộ,
cái đang định hình và cái đã định hình đấu tranh quyết liệt phủ định lẫn nhau.
Từ đó không được nôn nóng, chủ quan đốt cháy giai đoạn, mơ hồ thủ tiêu đấu
tranh giai cấp, cách mạng xã hội, tuyệt đối hóa mâu thuẫn dẫn đến sai lầm
trong chiến lược, sách lược.
2.2. Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay
Thời đại hiện nay chứa đựng nhiều mâu thuẫn, trong đó nổi lên bốn
mâu thuẫn cơ bản. Các mâu thuẫn này tồn tại trong suốt thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Song giai đoạn hiện nay, “Những mâu
thuẫn cơ bản, vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở
nên sâu sắc”1.
Một là, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn chủ
yếu, quyết định nội dung, tính chất thời đại hiện nay, bởi sự vận động của
mâu thuẫn này tác động tới những mâu thuẫn còn lại. Đây là mâu thuẫn giữa
hai lực lượng chủ yếu, hai chế độ xã hội, giữa hai con đường, xu hướng phát
triển đối lập nhau là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế
giới. Nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nét mới của mâu
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội,2011, tr.75
11

5


thuẫn này là vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình giữa các

nước có chế độ chính trị khác nhau. Vì hiện nay, tương quan so sánh lực
lượng đang có lợi cho chủ nghĩa tư bản, sau sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội hiện thực.
Sự hợp tác giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau không làm
giảm mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, mà trong hợp tác
có đấu tranh, trong đấu tranh có hợp tác. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động đang tăng cường các hoạt động chống phá quyết liệt các nước xã
hội chủ nghĩa bằng các âm mưu thủ đoạn xảo quyệt như lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những sai lầm trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trong đó. “Diễn biến hoà bình” và chống “diễn biến hoà
bình”, “bạo loạn lật đổ” là nét nổi bật của mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản; đồng thời, hợp tác và đấu tranh là hai mặt không thể tách
rời của mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện nay.
Hai là, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân
Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động được biểu hiện nổi bật ở quan hệ
đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao
động khác trong xã hội tư bản. Đây là mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản
trong xã hội tư bản, phản ánh bản chất bóc lột lao động làm thuê của giai cấp
tư sản. Mâu thuẫn này bắt nguồn từ mâu thuẫn kinh tế của chủ nghĩa tư bản:
giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Trong giai đoạn hiện nay, giai cấp tư sản đã tiến hành những điều chỉnh
để thích nghi cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính sách xã hội, an
sinh xã hội, nhằm làm dịu mâu thuẫn, tránh nguy cơ bùng nổ xung đột, đe doạ
sự tồn tại của chế độ tư bản chủ nghĩa. Chúng ra sức tận dụng các thành tựu
khoa học công nghệ hiện đại để tạo sự tăng trưởng, cải thiện một phần đời
sống và nới rộng một số quyền lợi cho người lao động. Nhờ đó, chủ nghĩa tư
bản còn có khả năng phát triển nhất định. Song, những nỗ lực điều chỉnh ấy
không hề làm giảm bớt sự phân cực giữa giai cấp tư sản ngày càng giàu lên
nhanh chóng và các tầng lớp nhân dân lao động làm thuê nghèo khổ, khoảng

cách giàu nghèo ngày càng nới rộng, phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc. Ở

6


các nước tư bản phát triển, nạn thất nghiệp luôn là mối đe doạ thường trực đối
với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Giá cả sinh hoạt đắt đỏ, môi
trường sống ô nhiễm, phức tạp, bất bình đẳng xã hội tăng cao, suy đồi đạo
đức, văn hoá, lối sống… đang đè nặng lên cuộc sống của người dân, cả lao
động chân tay và lao động trí óc. Vì thế, cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chống lại giai cấp tư sản vẫn
phát triển mạnh mẽ. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết triệt để bằng
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong
các nước tư bản chủ nghĩa và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Hiện nay, mâu thuẫn giữa lao động và tư bản không chỉ diễn ra trong lòng
các nước tư bản chủ nghĩa mà cả ở các nước xã hội chủ nghĩa, chừng nào thành
phần kinh tế tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và tầng lớp tư sản, quan hệ sản
xuất tư bản vẫn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên mức
độ, phạm vi vận động của mâu thuẫn này đã có những thay đổi do sự chi phối
của luật pháp chủ nghĩa xã hội và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là, mâu thuẫn giữa các nước độc lập đang phát triển và phụ thuộc
với chủ nghĩa đế quốc
Đây là một trong những mâu thuẫn cơ bản của thời đại hiện nay. Lúc
đầu, đó là mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với các nước đế
quốc thực hiện chính sách thực dân xâm chiếm thuộc địa. Do ý thức độc lập
dân tộc và tự chủ đất nước của các dân tộc ngày càng thức tỉnh nhờ sự cổ vũ
của phong trào độc lập dân tộc, phong trào công nhân và phong trào xã hội
chủ nghĩa nên hàng trăm quốc gia thuộc địa và phụ thuộc đã giành được độc
lập ở các mức độ khác nhau. Hiện tại, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân kiểu cũ bị xoá bỏ. Nhưng, sự độc lập về chính trị của các nước này chưa

mang lại ngay phát triển phồn vinh và bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Nhiều
quốc gia độc lập đi lên từ một nền kinh tế thấp kém, xã hội nghèo nàn, lạc hậu
nên vẫn chịu cảnh lệ thuộc vào các nước tư bản phát triển về vốn, khoa học,
công nghệ... Hơn nữa, toàn cầu hóa kinh tế đang là xu thế khách quan, chứa
đựng cả thời cơ và thách thức, bản chất của nó là toàn cầu hóa tư bản chủ
nghĩa nên các nước chậm phát triển ít có cơ hội tiếp cận khoa học công nghệ
hiện đại, dễ bị biến thành bãi thải công nghiệp của các nước phát triển. Vì

7


đang chiếm ưu thế vượt trội trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt, nên các
nước tư bản phát triển thu được nhiều lợi nhuận; còn các nước đang phát triển
và chậm phát triển bị thua thiệt, khoảng cách giàu nghèo giữa các nước phát
triển và chậm phát triển càng lớn. Đồng thời, chủ nghĩa đế quốc đang thực
hiện hình thức bóc lột tinh vi các nước lạc hậu, kém phát triển. Thông qua
chính sách đầu tư chọn lọc, trao đổi không bình đẳng, chuyển giao công nghệ
(chủ yếu là công nghệ cũ), viện trợ kèm theo điều kiện khắt khe làm cho các
nước đang phát triển và chậm phát triển từ lệ thuộc về kinh tế, dẫn đến lệ
thuộc về chính trị; trở thành con nợ, thành “bãi rác thải” cả về vật chất và tinh
thần, văn hoá của các nước tư bản phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước đang
phát triển và các nước tư bản phát triển ngày càng gay gắt hơn.
Các nước chậm phát triển và đang phát triển đang tiến hành cuộc đấu
tranh đầy khó khăn, phức tạp để chống lại các nước tư bản phát triển, đòi độc
lập và bình đẳng thực sự, chống can thiệp, xâm lược của chủ nghĩa đế quốc.
Các nước này còn phải chống lại sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
khắc phục những xung đột dân tộc và tôn giáo đẫm máu, bảo vệ độc lập chủ
quyền và bảo vệ văn hoá dân tộc. Phong trào đấu tranh của các dân tộc chống
lại sự áp đặt, can thiệp vào chủ quyền quốc gia ngày càng mạnh mẽ.
Bốn là, mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa, các tập đoàn tư

bản, các trung tâm kinh tế tư bản chủ nghĩa
Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa, các tập đoàn kinh tế tư bản
đa quốc gia, xuyên quốc gia, giữa các trung tâm kinh tế tư bản chủ nghĩa với
nhau là một trong những mâu thuẫn cơ bản của giai đoạn hiên nay. Vốn là
quan hệ liên minh vì cùng bản chất bóc lột và chống chủ nghĩa xã hội, nhưng
giữa các nước tư bản và giữa các tập đoàn tư bản luôn cạnh tranh gay gắt,
hòng tìm kiếm và giành giật lợi ích trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân
sự… Trong những năm gần đây, sau khi thế giới hai cực không còn, trật tự
thế giới mới đang được thiết lập lại theo hướng đa cực, nhiều trung tâm, nên
các nước tư bản chủ nghĩa đều cho đây là cơ hội để thực hiện những ý đồ đen
tối của mình. Giữa các nước tư bản chủ nghĩa đã và đang xảy ra nhiều bất
đồng sâu sắc trong việc giải quyết những vấn đề nội bộ giữa các nước tư bản,
cũng như những vấn đề quốc tế.

8


Hiện nay, nổi lên mâu thuẫn giữa ba trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu
của thế giới tư bản là Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản. Mâu thuẫn này diễn ra thường
xuyên, gay gắt, lúc công khai, lúc ngấm ngầm. Trong đó, Mỹ đóng vai trò nổi
bật là siêu cường trên thế giới, có sức mạnh vượt trội cả về kinh tế và quân sự.
Mỹ ra sức phát huy vai trò ảnh hưởng, tìm cách khống chế các nước, kể cả Tây
Âu và Nhật bản, hòng làm bá chủ thế giới. Nhưng chính trong lòng nước Mỹ
đang tồn tại rất nhiều mâu thuẫn không thể khắc phục đó là sự phân hóa giàu
nghèo sâu sắc, chỉ 1% người giàu chiếm tới 90% tổng sản phẩm xã hội; tình
trang nợ công “vách đá tài chính”, khủng hoảng tài chính, phong trào chiểm phố
Wall luôn là những nhân tố mất ổn định đe dọa sự tồn tại của nước Mỹ.
Tây Âu và Nhật Bản cũng tìm mọi cách để phát triển thành siêu cường
kinh tế, quân sự, vừa là bạn hàng, đồng minh của Mỹ vừa là đối trọng của Mỹ,
vị thế quốc tế không kém Mỹ. Đặc biệt, Nhật Bản đang có tham vọng là những

cực khác trong một trật tự thế giới đa cực, thực hiện chính sách cứng rắn với
Trung Quốc, cải tổ hiến pháp để có quân đội và trở thành thành viên thường
trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc. Đồng thời, giữa các tập đoàn tư bản
trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng nổi lên nhiều mâu thuẫn về lợi ích kinh
tế và quyền lực chính trị, những cuộc chiến tranh thương mại, giá cả liên tục
xảy ra để thôn tính lẫn nhau.
Ngoài những mâu thuẫn trên, thế giới hiện nay còn chứa đựng nhiều mâu
thuẫn khác mang tính toàn cầu đòi hỏi phải giải quyết. Môi trường sinh thái,
bùng nổ dân số, đói nghèo, bệnh tật, xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố... đang
đe dọa các dân tộc và các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Do
vậy, quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trên thế giới còn quanh co phức tạp.
2.3. Đặc điểm của thời đại và xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế
giai đoạn hiện nay
2.3.1. Đặc điểm của thời đại trong giai đoạn hiện nay
Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của thời đại,
chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của quốc gia này hay
quốc gia kia... mới có thể định ra đường lối, chiến lược, sách lược đúng đắn,
phù hợp.

9


Thứ nhất, các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia,
dân tộc.
Đây là đặc điểm nổi bật của giai đoạn hiện nay, thế giới với hơn 200
quốc gia, dân tộc, được chia thành ba nhóm nước: các nước phát triển, các
nước đang phát triển và các nước chậm phát triển, trong đó các nước chậm
phát triển chiếm đa số khoảng 2/3 các nước trên thế giới. Cùng với các chế độ
chính trị xã hội khác nhau: quân chủ lập hiến, tiền tư bản, tư bản; xã hội chủ

nghĩa và định hướng xã hội chủ nghĩa đang tồn tại đan xen trong xu thế vừa
hợp tác vừa cạnh tranh diễn ra gay gắt và quốc gia nào cũng đặt lợi ích quốc
gia, dân tộc lên vị trí hàng đầu so với lợi ích giai cấp và lợi ích nhân loại, làm
cho tình hình thế giới càng trở lên phức tạp và cạnh tranh gay gắt.
Trong số hơn 200 quốc gia, một số cường quốc có sức chi phối lớn đối
với chính trị, kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế đương đại. Căn cứ vào sức
mạnh tổng hợp, ảnh hưởng thực tế, những quốc gia sau đây được cộng đồng
thế giới xem là nước lớn: Hoa kỳ, Canada, Braxin, Nga, Anh, Pháp, Đức,
Italia, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ.
Các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển thế giới. 11 nước lớn chiếm 1/3 lãnh thổ và quá
nửa dân số thế giới, hơn 70% GDP của cả thế giới. Đa số nước lớn là những
cường quốc hàng đầu về kinh tế, tài chính, khoa học - công nghệ, sức mạnh
quân sự, an ninh. Có 5 nước lớn là ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên
hợp quốc. Nhóm G7 là những nước tư bản phát triển nhất. Tuy nhiên, có thể
nhận thấy quan hệ giữa các nước lớn không phải một khối thống nhất mà là
một tập hợp đầy mâu thuẫn. Quan hệ giữa các nước lớn gồm nhiều loại: đồng
minh, liên kết, không liên kết, đối tác, đối thủ, đối thủ trực tiếp, đối thủ tiềm
tàng... hết sức phức tạp.
Tập hợp nước lớn có thể chia hai loại: các nước lớn tư bản phát triển
(G7), đứng đầu là siêu cường Mỹ, và các nước lớn còn lại (Trung Quốc, Nga,
Ấn Độ, Braxin).
Hiện tại Hoa Kỳ đang xây dựng và củng cố ý đồ đơn cực. Hoa Kỳ,
đứng đầu các nước tư bản phát triển, là siêu cường duy nhất hiện nay. Hoa kỳ

10


chiếm hơn 30% GDP thế giới, có chi phí quân sự chiếm 40% chi phí quân sự
toàn cầu. Đây là quốc gia xây dựng điển hình của mô hình đơn cực: tam

quyền phân lập; tam quyền phát triển (nhà nước, cộng đồng, cá nhân); tam
quyền phối hợp thống trị thế giới (quân sự, thể chế hợp tác trong các lĩnh vực
và thông tin).
Canada là nước tư bản lớn nhất, phát triển nhất sau Mỹ ở Tây bán cầu.
Anh, Pháp, Đức, Italia là những thành viên chủ chốt của EU, một trong ba
trung tâm tư bản thế giới. Về nhiều mặt có thể xem EU là một “nước lớn” vì
các nước trong EU đang “nhất thể hóa” về kinh tế và chính trị.
Trung Quốc, nước đông dân nhất thế giới (1,3 tỷ người), là nước xã hội
chủ nghĩa duy nhất trong câu lạc bộ các nước lớn. Tuy nhiên, Trung Quốc
không đóng và không muốn đóng vai trò một cường quốc xã hội chủ nghĩa
như Liên Xô trước đây trong quan hệ với các nước lớn khác. Trung Quốc vẫn
là một nước đang phát triển, nhưng là một trong những nước kinh tế tăng
trưởng nhanh nhất thế giới, đã vươn lên vị trí thứ 2 trên thế giới. Trung Quốc
là nước duy nhất trong tương lai có khả năng thách thức địa vị siêu cường độc
tôn của Mỹ.
Liên bang Nga, nước có diện tích rộng nhất, tài nguyên phong phú nhất
thế giới, nước kế thừa Liên Xô cũ. Hiện nay, Nga vẫn là cường quốc hàng đầu
về quân sự, song không còn địa vị siêu cường. Những lợi ích quốc gia và quan
điểm về lợi ích quốc gia của Nga, đặc biệt là lợi ích ngoài lãnh thổ Nga, đã thay
đổi sâu sắc, vị trí của Nga trên trường quốc tế đang được cải thiện.
Nhật Bản, cường quốc số ba về kinh tế đang tìm cách vươn lên địa vị
cường quốc quân sự, chính trị tương ứng với địa vị kinh tế, chủ yếu dựa vào
Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ. Nhưng Nhật Bản đang gặp khó khăn do suy thoái
kinh tế kéo dài.
Ấn Độ, Braxin là những nước đang phát triển, không liên kết đang tìm
mọi cơ hội để vươn lên địa vị nước lớn phát triển. Mục tiêu chính trị trước mắt
của hai nước là trở thành ủy viên thường trực Hội đồng bảo an. Chính vì vậy,
giai đoạn hiện nay các nước với chế độ chính trị, xã hội và trình độ phát triển
khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích
quốc gia, dân tộc.


11


Thứ hai, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra gay
gắt, phức tạp trên phạm vi toàn thế giới với điều kiện mới, với nội dung mới,
hình thức mới.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra theo nhiều quy
mô, cấp độ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:kinh tế - chính trị - văn
hóa - xã hội - an ninh - quốc phòng, nhất là về kinh tế.
Trong điều kiện phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái
trào; tình hình chính trị thế giới diễn ra phức tạp; chủ nghĩa đế quốc tiếp tục
thực hiện "diễn biến hòa bình" bạo loạn lật đổ; cách mạng khoa học công
nghệ phát triển tác động đến mọi lĩnh vực nhưng ưu thế nằm trong tay chủ
nghĩa đế quốc.
Nội dung mới: hòa bình độc lập dân tộc dân chủ tiến bộ xã hội; thiết lập
trật tự thế giới mới nhất siêu đạt cường; bảo vệ môi trường sinh thái; chống
đói nghèo bệnh tật; chống phân biệt dân tộc, tôn giáo, ly khai, khủng bố; xóa
nợ nần áp đặt văn hóa dân chủ, nhân quyền; chống lệ thuộc kinh tế, lệ thuộc
chính trị.
Hình thức mới: vừa hợp tác vừa đấu tranh; vũ trang, phi vũ trang; diễn
biến hòa bình, bạo loạn lật đồ; chiến tranh khủng bố; chiến tranh công nghệ cao
Thứ ba, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang có nhiều ưu thế và còn khả
năng phát triển nhất định nhưng không khắc phục được mâu thuẫn cơ bản,
vốn có và tất yếu sẽ diệt vong.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học công nghệ
và thị trường, tiếp tục điều chỉnh, thích nghi và còn có khả năng phát triển
nhất định. Nhưng càng phát triển làm cho mâu thuẫn cơ bản, vốn có của chủ
nghĩa tư bản càng sâu sắc hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng tăng lên, dẫn đến mâu thuẫn xã

hội càng gay gắt, hệ quả chính trị - xã hội càng nặng nề, như mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc; phân hóa giàu - nghèo; cạn kiệt tài
nguyên; ô nhiễm môi trường sinh thái, sự băng hoại đạo đức, lối sống, gia
đình, xã hội và các tệ nạn xã hội khác…

12


Gắn liền với phát triển kinh tế của chủ nghĩa đế quốc là chiến tranh
dưới nhiều hình thức: Thị trường; Ô tô; Dầu lửa; Chuối xanh; Bản quyền; Bò
điên; Dệt may; Than, thép... Và khi cần sẵn sàng tiến hành những cuộc chiến
tranh “phi đối xứng” từ ngoài đường chân trời, từ trên không ập xuống, bất
chấp chủ quyền quốc gia và điều ước quốc tế, được núp dưới những cái tên
mỹ miều: “Đại bàng kiêu hãnh, tự do vĩnh cửu” để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ
nhân quyền “Văn hóa”, “giá trị’... Thực chất là giả danh công lý, đánh tráo
khái niệm, bất chấp kỷ cương, coi thường luật pháp quốc tế.
Kẻ thù của chủ nghĩa đế quốc bây giờ không còn chỉ là các nước xã
hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc mà tất cả các nước nếu bị coi là
“cứng đầu” hay nằm trong “Liên minh ma quỷ”. Từ đó, chủ nghĩa đế quốc
thực hiện những chính sách đối ngoại đi ngược lại lợi ích của nhân loại và vi
phạm chủ quyền quốc gia, đẩy loài người vào một cuộc chạy đua vũ trang
mới, hết sức nguy hiểm. Do đó, sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là không
thể tránh khỏi, tự nó đã tạo ra những nhân tố, tiền đề để phủ định chính nó.
Thứ tư, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào nhưng đang có sự
phục hồi và tạo được bước phát triển mới, chủ nghĩa xã hội vẫn là xu thế tất
yếu của xã hội loài người
Chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề,
bị chủ nghĩa đế quốc bao vây cấm vận. Song, chỉ một thời gian ngắn đã dành
được nhiều thành tựu to lớn: thay đổi địa vị người lao động; phát triển kinh tế văn hóa - xã hội; cứu nhân loại khỏi thảm họa phát xít; hệ thống xã hội chủ

nghĩa ra đời lớn mạnh. Nhưng do những sai lầm khách quan, chủ quan; sự chống
phá của kẻ thù; sai lầm trong cải tổ, đã dẫn đến sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu - Liên Xô, phong trào cách mạng thế giới tạm
thời lâm vào thoái trào.
Từ sự sụp đổ đó, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã rút ra những bài
học kinh nghiệm xương máu, tiếp tục đổi mới, cải cách đã tạo nên bước phát
triển mới của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở Trung Quốc, Việt Nam và phong
trào cánh tả Mỹ - Latinh. Đúng như Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:

13


“Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người sẽ nhất định tiến tới chủ nghĩa
xã hội”2.
Thứ năm, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình
toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống xã
hội, tạo ra cả cơ hội và thách thức, để lại hậu quả chính trị - xã hội to lớn
Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển có bước nhảy
vọt. Khoa học cơ bản nghiên cứu không gian vũ trụ, thế giới vi mô, vĩ mô,
đáy đại dương, bí mật về con người, động cơ sạch (Hydro, ga, điện).
Khoa học công nghệ nghiên cứu công nghệ gen, công nghệ Nano,
quang học, công nghệ siêu dẫn, siêu bền, siêu nhỏ, công nghệ thông tin
Internet, số...
Kinh tế tri thức ra đời, sở hữu trí tuệ mang lại hiệu quả lớn, kết tinh
chất xám trong giá trị hàng hóa cao, tự động hóa, Internet hóa, số hóa, nhưng
hệ quả chính trị xã hội của cách mạng Khoa học công nghệ: thất nghiệp, tệ
nạn xã hội, hủy hoại môi trường sinh thái, chạy đua vũ trang, vũ khí tinh
thông, hủy diệt lớn, chiến tranh công nghệ cao đang đe dọa sự sống còn của
trái đất.
Thứ sáu, thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu đòi hỏi phải

có sự hợp tác quốc tế cùng nhau khắc phục và giải quyết
Toàn cầu hóa vừa tạo ra cơ hội, vừa tạo ra thách thức với các nước chậm
phát triển. Toàn cầu hóa hình thành nền kinh tế thống nhất, sự phụ thuộc lẫn
nhau tăng lên, xu thế nhất thể hóa khu vực phát triển: EU, ASEAN, ASEM,
APEC... hình thành những cộng đồng kinh tế - chính trị - xã hội bao gồm một
loạt nước, ở đó ý nghĩa biên giới quốc gia ngày càng giảm dần như: WTO, EU,
APEC, APTA...
Vấn đề dân số, môi trường, dịch bệnh, tội phạm quốc tế, biến đối khí hậu,
an ninh phi truyền thống...đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu để giải quyết
2.3.2. Những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế giai đoạn hiện nay
Hoà bình, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn
Xu thế chung trong giai đoạn hiện nay là hoà bình, hợp tác và phát
triển. Để phát triển, các nước cần có hòa bình. Hòa bình là điều kiện đảm bảo
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội,2011, tr.69
2

14


cho phát triển. Không một quốc gia nào có thể phát triển tốt trong hoàn cảnh
chiến tranh. Đồng thời, hòa bình là nguyện vọng thiết tha, chính đáng của
nhân dân lao động trên thế giới. Sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội của
các nước là nhân tố bảo vệ hòa bình và thúc đẩy sự phát triển. Phát triển là
mục tiêu của các quốc gia và cộng đồng quốc tế, quyết định đến sự phồn vinh
của dân tộc và sức mạnh của đất nước, bảo đảm cho hòa bình, ổn định xã hội
và bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
Song, nguy cơ chiến tranh còn đang đe doạ sự ổn định và phát triển của
nhiều nước, tác động xấu tới cuộc sống của cộng đồng quốc tế. Ngăn chặn và
chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình là một đòi hỏi khách quan đối với nhân

dân các nước không phân biệt chế độ chính trị.
Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan.
Toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đang là một xu thế
khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Hiện nay, toàn cầu hóa
nhiều lĩnh vực xã hội, mà cốt lõi là toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh
mẽ. Toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên rất nhiều những mối
liên hệ, sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các
quốc gia, khu vực, các dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hoá kinh tế do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất
trên phạm vi quốc gia và quốc tế; do nền kinh tế thị trường... Toàn cầu hoá tác
động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đang chi phối những biến đổi
của tình hình thế giới.
Toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực mở ra sự liên kết quốc tế ngày càng tăng,
nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất gay gắt và
phức tạp. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển thông qua
hợp tác, chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư; tạo thuận lợi
nắm bắt nhanh chóng thông tin và tri thức mới; nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế. Đồng thời, nó làm cho nền kinh tế của đất nước lệ thuộc vào sự biến
động kinh tế thế giới, đặt các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển và chậm
phát triển vào cuộc cạnh tranh gay gắt không cân sức. Toàn cầu hoá dễ làm cho
các nước nghèo từ chỗ lệ thuộc về kinh tế các nước tư bản phát triển, bị lệ thuộc
về chính trị, đe dọa tới an ninh quốc gia, độc lập chủ quyền dân tộc. Toàn cầu

15


hoá vừa tạo điều kiện tiếp thu các thành tựu văn hoá của nhân loại, vừa có thể là
nguy cơ làm phai nhòa bản sắc văn hoá, du nhập văn hoá tư sản, lối sống thực
dụng, chủ nghĩa cá nhân từ các nước tư bản chủ nghĩa.
Toàn cầu hóa là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp trên tất cả các mặt

của đời sống xã hội. Để hội nhập và phát triển, các nước phải chủ động, sáng
tạo, tận dụng cơ hội, phòng tránh nguy cơ tác động tiêu cực của toàn cầu hóa.
Xu thế vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa liên kết vừa cạnh tranh diễn ra
phức tạp
Trước bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu thế
toàn cầu hoá và những vấn đề mang tính toàn cầu, các quốc gia dân tộc không
thể tự mình độc lập giải quyết mọi vấn đề, buộc phải có sự hợp tác, liên kết.
Hơn nữa, xu thế hòa bình giúp cho các nước liên kết, hợp tác sâu rộng trên
nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá... với hình thức hợp tác từ song
phương đến đa phương, từ khu vực đến quốc tế. Dù không đồng đều, song sự
hợp tác liên kết đó đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho các bên tham gia.
Tuy nhiên, do bản chất chế độ và lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, giai
cấp, lực lượng khác nhau nên sự hợp tác, liên kết đó chứa đựng nhiều mâu
thuẫn. Cội nguồn của những mâu thuẫn là vấn đề lợi ích, nhất là lợi ích kinh
tế. Các bên tham gia hợp tác, liên kết đều muốn lợi nhiều. Nhưng nhiều khi
lợi cho đối tượng này lại có thể gây tổn hại cho đối tượng khác. Vì thế, quá
trình hợp tác, liên kết cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh giữa các lợi ích, mà
chủ thể của các lợi ích này là các tập đoàn kinh tế, các giai cấp, dân tộc, quốc
gia và liên quốc gia.
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường và tham
gia ngày càng tích vào các vấn đề quốc tế.
Các dân tộc ngày càng hiểu rõ giá trị của độc lập, tự chủ, tự cường. Bài
học thực tiễn sâu sắc là mất độc lập, tự chủ, đất nước thường rơi vào cảnh đói
nghèo, bất công, vị thế trên trường quốc tế giảm sút... Đồng thời, những tấm
gương về một dân tộc như Việt Nam, Cu Ba... đã chủ động, sáng tạo đấu
tranh thắng lợi các nước đế quốc giàu mạnh để giành độc lập, tự chủ và phát
triển đang cổ vũ cho các dân tộc khác noi theo.

16



Hiện nay, các dân tộc đang tích cực đấu tranh đòi độc lập, tự chủ chống
lại mưu đồ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là đế quốc Mỹ.
Ngay cả các nước tư bản là đồng minh của Mỹ cũng muốn khẳng định mình,
kiên quyết chống lại sự can thiệp, áp đặt hoặc khống chế của Mỹ. Tuy gặp
nhiều khó khăn, song các nước khác vẫn quyết tâm chống lại các hình thức
can thiệp, áp đặt của các nước tư bản, đòi thiết lập trật tự thế giới mới công
bằng, bình đẳng, giữ gìn độc lập tự chủ.
3. Ý nghĩa đối với thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay
3.1. Quá trình hình thành tư duy đối ngoại đổi mới của Đảng
Đại hội VI của Đảng (1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới, đặt cột
mốc mở đầu quá trình hình thành chính sách đối ngoại đổi mới. Xuất phát từ
tình hình thế giới và trong nước Đảng ta khẳng định yêu cầu cấp thiết phải đổi
mới tư duy đối ngoại: Đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực,
chuyển sang cách tiếp cận toàn diện hơn, coi thế giới như môi trường tồn tại,
phát triển của đất nước; thực hiện sách lược thêm bạn bớt thù, phá thế bị bao
vây, cấm vận và mở rộng QHQT, từng bước phát triển đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, rộng mở trong thời kỳ đổi mới; chủ trương đối ngoại mở cửa
và hội nhập quốc tế, quan hệ với tất cả các nước có chế độ chính trị xã hội
khác nhau trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; thay đổi tư duy đối ngoại từ chỗ chú trọng nhân tố
chính trị - quân sự sang ưu tiên cho nhân tố kinh tế, giữ vững hòa bình và độc
lập (Nghị quyết số 13, tháng 05 năm 1988). Đây là bước chuyển mới rất cơ
bản trong tư duy chiến lược đối ngoại và nó tiếp tục được khẳng định, hoàn
thiện trong văn kiện của Đảng sau này.
Đại hội VII của Đảng (1991) là bước phát triển mới trong sự hình thành
và hoàn thiện chính sách đối ngoại đổi mới, trong đó Đảng nhấn mạnh: Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt
Nam muốn là bạn với các nước cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc

lập và phát triển. Phương châm chỉ đạo: đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính,
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa phương

17


hóa, đa dạng hóa mối quan hệ quốc tế; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu
tranh trong quan hệ quốc tế; tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng
quan hệ với tất cả các nước (Hội nghị TW 3 khóa VII (6-1992)). Chính vì
vậy, chúng ta thu được thành tựu ngoại giao rực rỡ: Việt Nam và Trung Quốc
ký Tuyên bố chung bình thường hóa quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước
(11-1991); ký Hiệp định khung về hợp tác giữa VN và EU (7-1995); bình
thường hóa quan hệ ngoại giao giữa VN và Hoa Kỳ (7-1995); Việt Nam trở
thành thành viên của ASEAN (7-1995). Đây là 4 kết quả có ý nghĩa bước ngặt
trong đổi ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng ta.
Đại hội VIII của Đảng (1996) phát triển chính sách đối ngoại đổi mới,
đưa ra chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đảng chỉ rõ: thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ
đối ngoại. Đồng thời, đã đề ra chính sách quan hệ cụ thể:
Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các bạn bè truyền thống, coi trọng
quan hệ với các nước đang phát triển, các trung tâm kinh tế chính trị thế giới,
với phong trào Không liên kết.
Mở rộng các hoạt động với các tổ chức, các diễn đàn quốc tế.
Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng
cách mạng, quan hệ với các đảng cầm quyền, mở rộng ngoại giao nhân dân,
các đoàn thể, các hội, các doanh nghiệp với các đối tác.
Đại hội IX của Đảng (2001) khẳng định rõ thêm đường lối đối ngoại độc

lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đại hội lần
đầu tiên nêu ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và bổ sung, phát
triển quan điểm của Đại hội VII, Đại hội VIII: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển”.
Đây là sự bổ sung, phát triển mới, vừa thể hiện đường lối đối ngoại hòa
bình, hữu nghị của Đảng, Nhà nước ta, mong muốn chân thành là bạn với
những ai mong muốn là bạn của Việt Nam, mặt khác biểu thị trách nhiệm cao
của nước ta (là đối tác tin cậy) trong quan hệ quốc tế.

18


Đại hội làm sáng tỏ thêm quan điểm về độc lập, tự chủ trong hoạt động đối
ngoại: Độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, bảo vệ lợi ích quốc gia và
định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự chi phối mạnh
mẽ của các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia, các
nước lớn...
Hội nghị TW 8 khóa IX Đảng đã đưa ra khái niệm “đối tác”, “đối
tượng” trong quan hệ quốc tế trên tinh thần “thêm bạn bớt thù”: Những ai
chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập, mở rộng quan hệ hữu nghị
và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với VN đều là đối tác. Bất kể thế lực nào có
âm mưu và hành động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều
là đối tượng đấu tranh. (Trong mỗi đối tượng vẫn cần có mặt tranh thủ, hợp
tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta
nên cần có biện pháp và hình thức đấu tranh thích hợp)
Đại hội X của Đảng (2006) tổng kết 20 năm thực hiện đường lối đổi
mới về mọi mặt, trong đó có lĩnh vực đối ngoại với 3 nội dung lớn:
Khẳng định đường lối đối ngoại “đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn
Việt Nam”, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hợp tác và phát

triển, chính sách đối ngoại rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế.
Khẳng định “Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu,
ổn định, bền vững”. Đây là một định hướng mới, quan trong cho nhiệm vụ
đối ngoại, không dễ dàng nhưng phải quyết tâm bằng được.
Đại hội nêu rõ quan điểm chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, đóng vai trò là thành viên tích cực
của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững.
Tóm lại, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo cơ bản và xuyên suốt đối với hoạt
động đối ngoại đổi mới của Đảng ta là: giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống
nhất và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt
trong xử lý các tình huống phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, với vị trí cũng như
diễn biến của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, phù hợp với với đặc

19


điểm của từng đối tác cụ thể. Trong bất kỳ tình huống nào cũng tránh không
để rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố hòa bình, an ninh, tạo
môi trường thuận lợi để phát triển đất nước.
3.2. Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta giai
đoạn hiện nay
3.2.1. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Trên cơ sở đường lối đối ngoại mà Đại hội X đã xác định, Đại hội XI tiếp
tục khẳng định quan điểm: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin

cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”3.
Đường lối đối ngoại của Đảng lần này có sự phát triển so với Đại hội
X thể hiện:
1) Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế một cách toàn diện cả về kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học, quốc phòng và an ninh;
2) Chỉ rõ mục tiêu cao nhất của hoạt động đối ngoại là nâng cao vị thế của
đất nước, vì lợi ích quốc gia, dân tộc và vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh;
3) Định hướng thái độ và trách nhiệm của Việt Nam trong quan hệ
quốc tế là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới.
Nội dung phát triển đường lối đối ngoại của Đảng trong nghị quyết Đại
hội lần thứ XI thể hiện cụ thể ở những nội dung chính sau:
Mục tiêu công tác đối ngoại: thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại và
sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay là: Giữ vững môi trường hoà bình,
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Nâng

Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam (bổ sung, phát triển 2011), Nxb CTQG, Hà Nội, tr.83
3

20


cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Cương lĩnh và Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ mục tiêu

công tác đối ngoại là “vì lợi ích quốc gia dân tộc; vì một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh”4. Đây là lần đầu tiên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc
gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” được chính
thức ghi vào văn kiện Đại hội XI của Đảng và là vấn đề có ý nghĩa rất quan
trọng, khẳng định rõ hơn cơ sở để Đảng ta hoạch định và triển khai toàn diện,
đồng bộ chính sách đối ngoại trong bối cảnh quốc tế đang có diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa đến lợi ích quốc gia, dân tộc và định hướng
xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc xác định lợi
ích quốc gia, dân tộc trở nên phức tạp hơn do tác động bởi những lợi ích cục
bộ, lợi ích ngắn hạn đan xen vào nhau: Lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam là
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ chế độ,
bảo vệ sự nghiệp đổi mới, bảo vệ nhân dân; phòng ngừa các nguy cơ xung đột
và chiến tranh cục bộ, không để cho đất nước bị lôi kéo vào chiến tranh hoặc
xung đột, nhằm duy trì và tạo dựng môi trường hòa bình cho xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, góp phần vào công cuộc
đấu tranh của nhân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Nói gọn lại: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là nội
hàm của lợi ích dân tộc và là nội hàm của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ công tác đối ngoại. Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng
định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình,
thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của
đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” 5.
Điểm mới về nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XI
so nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong văn kiện Đại hội X là xác định nhiệm vụ
4
5


Sdd, tr.83.
Sdd, tr.236.

21


nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới là phục vụ các
mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” và “nâng cao vị thế đất nước”.
Nhiệm vụ đối ngoại này cho thấy rõ yêu cầu và vai trò quan trọng của công
tác đối ngoại đó là, công tác đối ngoại phải phấn đấu cho mục tiêu phát triển của đất
nước đó là: giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại là: độc lập, thống nhất, chủ nghĩa
xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, linh hoạt, năng động, phù hợp với vị thế,
điều kiện và hoàn cảnh nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và
khu vực với đặc điểm từng đối tượng quan hệ.
Các nguyên tắc hoạt động công tác đối ngoại. Nguyên tắc cơ bản,
xuyên suốt đối với toàn bộ hoạt động công tác đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta là: “Bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển” trên cơ sở “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”6 đó là: tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, Đại hội XI của Đảng còn nêu thêm
nguyên tắc: “Giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới trên
biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở các “nguyên tắc ứng xử của
khu vực - DOC”7. Hiện nay cần quán triệt phương châm: “4 tránh, 3 không và tinh

thần chỉ đạo 6 K”. Đây là sự bổ sung mới của Đảng ta trước những diễn biến mới
của tình hình khu vực Đông Nam Á, nhất là sự tranh chấp chủ quyền biển Đông
hiện nay, đồng thời khẳng định sự tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc ứng xử
chung của khu vực.
Sdd, tr.236.
Sdd, tr.237.
DOC - “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” giữa các nước ASEAN với Trung Quốc năm
2002. Tuyên bố này tuy không mang tình ràng buộc pháp lý nhưng là một bước tiến trong việc giải quyết hòa
bình các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa các bên ở biển Đông.
COC - “Bộ quy tắc về ứng xử ở biển Đông” là những quy định rành buộc mang tính pháp lý từ DOC, hiện
nay các nước ASEAN đang nổ lực đám phán cùng Trung Quốc tiến tới xây dựng Bộ quy tắc này.
6
7

22


Quán triệt và nắm vững các nguyên tắc cơ bản trên là cơ sở xác định
đúng đắn biện pháp xử lý các vấn đề quốc tế, các tình huống nảy sinh một
cách sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh cụ thể cũng như
diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm của từng
đối tác cụ thể, tránh không để rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố
và giữ vững hòa bình, an ninh, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất
nước và hội nhập quốc tế.
Phương châm chỉ đạo hoạt động công tác đối ngoại. Văn kiện Đại hội
XI nêu lên là: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; “và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
“Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”: Với chủ trương này, nội hàm
của hội nhập quốc tế không còn bó hẹp ở lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất
cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,

đồng thời mang những nội dung mới, thể hiện:
Thứ nhất, chủ động hội nhập quốc tế là tự mình quyết định hành động,
không vì ảnh hưởng hoặc chịu sự chi phối của đối tác khác hay là của hoàn cảnh.
Thứ hai, lộ trình hội nhập quốc tế của Việt Nam là chủ động, tích cực
triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế mạnh mẽ, toàn diện trên mọi lĩnh
vực trên cơ sở phát huy nội lực, xây dựng lực lượng, tạo lập thế trận quốc
phòng - an ninh, xác định bước đi phù hợp, đa dạng hoá, đa phương hoá các
quan hệ quốc tế.
Thứ ba, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế kết hợp chặt chẽ với
yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, giữ vững chủ quyền và an ninh đất nước.
Thứ tư, “chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá
trình hội nhập quốc tế”8. Một mặt, phải chủ động “Tham gia các cơ chế hợp tác
chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn
trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp
quốc” mà nước ta là thành viên… nhằm tạo môi trường thuận lợi phục vụ hiệu
quả nhất mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc và nâng cao vị thế quốc gia. Mặt
khác, phải tích cực tăng cường sức mạnh quốc phòng – an ninh để ngăn ngừa
mọi tác động tiêu cực đến độc lập, chủ quyền, ổn định chính trị... của đất nước
trong hội nhập quốc tế...
8

Sdd, tr.236.

23


Thứ năm, chủ động và tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực
và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống...;
“Chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp
vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh

thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam”9.
“Là thành viên có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế” quan điểm
này được phát triển thêm một bước mới, khẳng định việc Việt Nam không chỉ
tham gia tích cực mà còn đóng vai trò là “thành viên có trách nhiệm trước
cộng đồng quốc tế”, phấn đấu vì hòa bình và phát triển bền vững. Là thành
viên có trách nhiệm bao gồm những gì và thực hiện trách nhiệm như thế nào
đòi hỏi phải cần được tính toán kỹ, với lộ trình và bước đi thích hợp trên cơ
sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực hiện của ta trong từng vấn đề, từng
giai đoạn.
Tóm lại, phương châm đối ngoại: chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế thể hiện sự toàn diện theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ môi trường... Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó phải kiên định về
nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, vận dụng sáng tạo phương lược ngoại
giao Hồ Chí Minh “thêm bạn bớt thù”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trên cơ sở
quan hệ đôi bên cùng có lợi, cùng phát triển.
Phương hướng hoạt động đối ngoại.Đại hội XI của Đảng xác định:
Triển khai toàn diện và đồng bộ, hiệu quả các hoạt động đối ngoại,
tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc
lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Chủ
động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập
quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khác thác
hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn... Tham gia các
cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc
gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến
chương Liên Hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu
9


Sdd, tr.236.

24


vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền
thống, những vấn đề có liên quan đến dân chủ, nhân quyền. Chủ động, kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội
bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc
gia và ổn định chính trị của Việt Nam. Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn
tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa giữa nước ta với các
nước có liên quan.
Đây là lần đầu tiên Văn kiện Đại hội Đảng có một định hướng riêng
giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ và xây dựng, phát triển
tuyến biên giới với các nước láng giềng. Định hướng này chỉ rõ: Ưu tiên
hàng đầu trong tiển khai công tác đối ngoại là tập trung thúc đẩy giải quyết
các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ giữa nước ta với các nước có liên
quan. Làm tốt công tác quản lý biên giới, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia; tích cực cùng với các nước có chung biên giới xây
dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Lực lượng
tham gia giải quyết các vấn đề tồn tại trên không chỉ là trách nhiệm của ngành
ngoại giao nhà nước mà là trách nhiệm của cả hoạt động đối ngoại Đảng, đối
ngoại quốc phòng, an ninh đối ngoại, ngoại giao nhân dân và cả hệ thống
chính trị. Cơ sở để giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ là các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử ở khu vực.
Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng
giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các
nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh.
Về đối ngoại quốc phòng, an ninh: “Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”, “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an

ninh, song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia và trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc” 10. Với định hướng
này khẳng định: sự gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh và
vai trò ngày càng quan trọng của công tác đối ngoại quốc phòng, an ninh trong
việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phù hợp
với bối cảnh đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới. Phát
triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả và các đảng cầm
10

Sdd, tr.233, 236.

25


×