Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊ NIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.21 KB, 27 trang )

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN MÔN TRIẾT HỌC MAC-LÊNIN
Câu 1: Nội dung Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện
tượng. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng ta.
Câu 2 : Nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của
Đảng ta.
Câu 3: Khái quát những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật. Ý
nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tế đổi mới ở địa phương.
Câu 4: Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự nhận thức và vận dụng quy luật này của
Đảng ta.
Câu 5: Nội dung, kết cấu của hình thái kinh tế-xã hội. Quá trình lịch sử tự
nhiên của sự phát triển xã hội. Sự vận dụng của Đảng ta.
Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Ý nghĩa
phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng ta.

1


TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1: Nội dung Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện
tượng. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng ta.
+ Khái niệm: Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự qui
định và tác động lẫn nhau trong quá trình tồn tại và phát triển của mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng
là khách quan trên cơ sở sự thống nhất vật chất của thế giới. Do đó mối liên hệ ấy đều bị
chi phối bởi những đặc điểm của vật chất.
Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tượng thể hiện các tính chất sau:
-Tính khách quan: sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là vốn có, không phụ
thuộc vào ý thức của con người.


-Tính phổ biến: mọi sự vật hiện tượng chỉ có thể tồn tại trong các mối liên hệ.
Các mối liên hệ đó có thể là liên hệ bên trong hoặc liên hệ bên ngoài sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ đó tồn tại trên tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy.
-Tính nhân quả: sự vật này có thể là nguyên nhân và là kết quả của sự vật hiện
tượng khác. Không có nguyên nhân đầu tiên, cũng không có kết quả cuối cùng.
-Tính đa dạng, phong phú và nhiều vẽ của các mối liên hệ thể hiện cả về hình
thức và tính chất như: có sự liên hệ bên trong, có sự liên hệ bên ngoài; liên hệ bản chất,
liên hệ không bản chất; liên hệ chung, liên hệ riêng; liên hệ tất nhiên, liên hệ ngẫu
nhiên. Mổi sự vật hiện tượng trong cùng một lúc nămg trong nhiều mối liên hệ khác
nhau.
-Tính lịch sử cụ thể: vì sự vật hiện tượng luôn luôn tồn tại trong không gian và
thời gian cụ thể nên mối liên hệ giữa chúng là lịch sử cụ thể.
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận
là trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện yêu cầu trước hết là để nhận thức được bản chất sự vật hiện tượng,
đòi hỏi chủ thể phải xem xét tất cả các mối liên hệ trong những điều kiện hoàn cảnh cụ
thể của nó. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là xem xét một cách dàn đều, mà phải
nắm lấy trọng tâm, trọng điểm.
Trong thực tiễn, cần phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp và phương tiện để làm
biến đổi các mối liên hệ bên trong của sự vật hiện tượng cũng như mối liên hệ giữa sự
vật hiện tượng đó với các sự vật hiện tượng khác.
Chông quan điểm phiến diện, cục bộ tách rời các mặt khi xem xét một vấn đề,
cũng như chông chủ nghĩa chiếc trung và thuật nguỵ biện.
Bên cạnh đó vì sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong không gian và thời gian cụ
thể, nên để nhận thức được bản chất của chúng, phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Quan
2


điểm này đòi hỏi chủ thể khi xem xét sự vật, phải tính đến điều kiện hoàn cảnh cụ thể
của nó.

Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ chú ý tới
một mặt hoặc một vài mặt nào đó, một mối liên hệ nào đó của sự vật hiện tượng. quan
điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của
sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật
hay hiện tượng đó.
Quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể với tư cách là nguyên tắc
phương pháp luận để nhận thức sự vật còn hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì
trệ và bệnh giáo điều.
Bảo thủ trì trệ thực chất là không thấy được mối liên hệ bên trong sự vật hiện
tượng cũng như giữa các sự vật hiện tượng với nhau; không thấy được mối liên hệ giữa
lý luận và thực tiễn. Biểu hiện của bệnh bảo thủ trì trệ là đề cao kinh nghiệm cảm tính,
coi thường lý luận tri thức khoa học, chậm đổi mới, không chú ý phát huy vai trò nhân
tố chủ quan để tác động tạo những bước nhảy vọt về chất trong các lĩnh vực khoa học
xã hội và đời sống. Bảo thủ trì trệ còn biểu hiện ở tư tưởng cứng nhắc, không thấy được
sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng, và khi xem xét nhận thức sự vật không
chú ý đến tính lịch sử cụ thể. Tuyệt đối hoá một nhận thức nào đó về sự vật có được
trong hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất định ứng với giai đoạn phát triển nhất định của
nó và xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển
tiếp theo của nó, sẽ đưa chúng ta đến những sai lầm nghiêm trọng.
Bệnh giáo điều là trạng thái sai lầm trong tư duy của chủ thể mang tính máy móc,
rập khuôn, thiếu sáng tạo. Thực chất bệnh giáo điều là tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri
thức khoa học và coi đó là chân lý tuyệt đối, đồng thời vận dụng nó một cách máy móc,
không tính đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều này cũng trái với quan điểm toàn diện và
lịch sử cụ thể của phép biện chứng duy vật.
Trong quá trình xây dựng đất nước trước đổi mới, chúng ta đã nhận thức giáo
điều mô hình xây dựng CNXH của Liên Xô bởi coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không
tính đến điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Những căn bệnh trên thường gắn bó chặt chẽ nhau. Chúng là một trong những
nguyên nhân đưa đất nước ta vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng trong
những năm 80 của thế kỷ 20.

Nguyên nhân của các căn bệnh trên không chỉ là do sự lạc hậu, yếu kém về tư duy
lý luận, về trình độ nhận thức; mà còn là sản phẩm của một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu,
đồng thời do kéo dài cơ chế quan liêu bao cấp, không chú ý đúc kết thực tiễn làm phong
phú cho lý luận, nhất là lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Muốn ngăn ngừa, xoá bỏ các bệnh trên, phải xoá bỏ tình trạng yếu kém về tư duy
lý luận, trước hết phải nắm vững phương pháp lý luận biện chứng duy vật, và thông qua
đó không ngừng nâng cao trình độ lý luận, năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn.

3


Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 7, sau khi phân tích tình hình thế giới và
những thuận lợi, khó khăn của đất nước trong điều kiện cùng với những thành tựu và
kinh nghiệm của hơn 4 năm đổi mới, Đảng ta đề ra phương châm chỉ đạo là : “Tiếp tục
đổi mới toàn diện và đồng bộ được công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu với bước đi
vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới
các lĩnh vực khác...”.
Để thực hiện mục tiêu là đưa đất nước vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và
phát triển kinh tế xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã
hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng của những năm 90 của thể kỷ 20
thì đây là một trong những phương châm chỉ đạo có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn mà
Đảng ta đã đề ra thể hiện quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể.
Để ổn định và phát triển đất nước trong tình hình lúc bấy giờ là đất nước ta vẫn
chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, công cuộc đổi mới còn những hạn chế, thì
đổi mới toàn diện đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp là có ý nghĩa to lớn.
Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực, nội dung đổi mới cũng bao gồm nhiều mặt: từ đổi
mới quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối
làm việc. Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới

không thể đạt kết quả mong muốn. Điều này phù hợp với nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của phép biện chứng duy vật, đồng thời mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu
then chốt để tập trung sức giải quyết, để làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh vực
khác. Điều này thể hiện quan điểm toàn diện nhưng có trọng tâm trọng điểm. Trong
điều kiện đất nước ta lúc bấy giờ, Đảng ta xác định lấy đổi mới KT làm trọng tâm, đồng
thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác là phù hợp với lý luận và thực
tiễn. Phải tập trung sức làm tốt đổi mới KT, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân
dân về đời sống, việc làm, xây dựng cơ sở vật chất cho CHXN, coi đó là điều kiện quan
trọng để tiến hành thuận lợi việc đổi mới trong các lĩnh vực khác. Thực tiễn hơn 25 năm
đổi mới ở nước ta đã chứng minh đúng đắn của những quan điểm trên của Đảng ta, thể
hiện sự kết hợp chặc chẽ giữa chính sách toàn diện và chính sách có trọng điểm( còn bổ
sung …).
Câu 2 : Nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của
Đảng ta.
Ngay từ khi ra đời, ĐCSVN đã lấy CN M-L làm nền tảng tư tưởng và vận dụng
tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối, cương lĩnh
đúng đắn nhằm lãnh đạo đất nước tiến lên CNXH. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng
12/1986) đến nay, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện và sâu
sắc trên toàn đất nước, trong đó chủ trương đổi mới của Đảng được Văn kiện Đại hội IX
xác định là “Con đường CNH-HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có
những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”. Chủ trương này thể hiện sự vận
dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại của triết học M-L (gọi tắt là quy luật lượng - chất) vào thực tiễn
4


CMVN. Việc tìm hiểu quy luật lượng - chất cũng giúp ta tránh được những khuynh
hướng sai lầm nếu không nhận thức và áp dụng đúng quy luật này trong thực tiễn.
Quy luật lượng-chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó

chỉ rõ cách thức của quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan.
Chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các
sự vật hiện tượng (SVHT), là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó
và phân biệt nó với cái khác.
Chất là cái khách quan, vốn có của mọi SV, HT. Mỗi SV, HT có nhiều thuộc tính
mà mỗi thuộc tính lại có những đặc trưng riêng về chất. Do đó, 1 SV không chỉ có 1
chất mà có nhiều chất, vô vàn chất. Chất là tổng hợp của những thuộc tính, khi những
thuộc tính cơ bản của SV thay đổi thì chất cơ bản của SV cũng thay đổi. Chất của SV
còn phụ thuộc vào những yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố đó
Lượng là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu, tốc độ của sự vận động, phát triển của sự vật cũng
như của các thuộc tính của nó.
Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng. Lượng có thể được xác
định cụ thể, chính xác bằng các công cụ đo lường. Tuy nhiên, cũng có những tính quy
định về lượng biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát. Một sự vật có nhiều chất, do
đó cũng có vô vàn sự khác nhau về lượng. Sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật
cũng chí có tính tương đối.
- Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất:
Bất kỳ SV, HT nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận động và phát
triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không
diễn ra độc lập đối với nhau, trái lại chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không
phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của
sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm
thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa
làm thay đổi về chất của sự vật, được gọi là độ.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là
khoảng giới hạn, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất
của sự vật. Những điểm giới hạn mà tại đó có sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất
của sự vật được gọi là điểm nút. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút.

Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự
thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Sự thay đổi
về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nháy. Bước nhảy là
một phạm triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật do những thay
đổi về lượng trước đó gây ra. Bước nhảy làm cho sự biến đổi của các SV, HT trong thế
giới khách quan có sự thống nhất giữa liên tục và đứt đoạn, giữa tiệm tiến và nhảy vọt.
Lênin khẳng định: “tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được
5


gì cả”. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Chất mới có thể
làm thay đổi qui mô, kết cấu, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và biến đổi của SV.
Sự thay đổi về chất của SV diễn ra rất đa dạng với nhiều hình thức bước nhảy
khác nhau. Xét về thời gian và tính chất của sự thay đổi về chất thì buớc nhày được chia
thành: bước nhảy đột biến và buớc nhảy dần dần; xét về qui mô thì có thể chia thành:
bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Khi xem xét sự thay đổi về chất trong đời sống
xã hội, người ta còn chia thành sự thay đổi cách mạng và sự thay đổi có tính chất tiến
hóa.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất, có thể khái quát nội dung cơ bản
của qui luật như sau: bất kỳ SV, HT nào cũng đều có sự thống nhất giữa chất và lượng.
Sự thay đổi dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về
chất của SV thông qua 1 bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi
của lượng.
Nhận thức đúng đắn mqh biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất
chúng ta sẽ rút ra đuợc ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hđộng nhận thức và
hoạt động thực tiễn:
- Mọi SV, HT đều là thể thống nhất hữu cơ giữa chất và lượng. Do vậy để có tri
thức đầy đủ về SV ta phải nhận thức đuợc cả mặt lượng và mặt chất của nó.
- Sự phát triển của SV, bao giờ cũng bắt đầu từ lượng đổi dẫn đến chất đổi. Do
vậy, để cải tạo SV phải quan tâm thích đáng đến quá trình tích lũy về lượng, đồng thời

phải chủ động tạo những đìều kiện cần thiết để quá trình chuyển hóa từ chất cũ sang
chất mới được thực hiện 1 cách hoàn hảo nhất.
Khi vận dụng quy luật mối quan hệ giữa chất và lượng vào thực tiễn, ta không
được tuyệt đối hóa mặt nào, nếu tuyệt đối hóa một trong hai mặt này thì chúng ta sẽ rơi
vào tư tưởng nôn nóng (tả khuynh) hoặc tư tưởng bảo thủ (hữu khuynh).
Khuynh hướng nôn nóng tả khuynh là khuynh hướng không quan tâm thực
hiện quá trình tích lũy về lượng mà chỉ chú ý thực hiện những bước nhảy vọt làm thay
đổi về chất trong khi chưa có đủ điều kiện tích lũy về lượng cần thiết. Những người có
tư tưởng này trong hoạt động thực tiễn thường nóng vội, chủ quan duy ý chí, họ cho
rằng sự phát triển chỉ gồm toàn những bước nhảy liên tục nên có thể đốt giai đoạn
Khuynh hướng bảo thủ hữu khuynh là khuynh hướng chí chú ý đến quá trình
tích lũy về lượng, không chú ý phát huy nổ lực của nhân tố chủ quan, không dám thực
hiện bước nhảy vọt về chất khi đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng hoặc kéo dài sự tích
lũy, chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần về lượng.
Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn đến những sai lầm có tác hại rất lớn làm cản
trở hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật hiện tượng. Trong thực tiễn Việt Nam trước
thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng có lúc phạm sai lầm của 2 khuynh hướng trên. Văn kiện
Đại hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là một
quá trình lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo
chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết .... trên thực tế, chúng ta đẩy
6


mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”. Văn kiện còn nhận định trong công tác tổ chức
thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa
chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ
kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức..” Chính những sai lầm
này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng
ở nước ta trước thời kỳ đổi mới.

Từ những thất bại trong đường lối chỉ đạo trước thời kỳ đổi mới, Đảng đã có
những tổng kết, đánh giá kịp thời về những sai lầm trên. Đại hội VI của Đảng (năm
1986) đánh dấu bước đột phá đầu tiên của tư duy lý luận của Đảng trong việc vận dụng
nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta.
Công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng từ Đại hội VI và từ đó đến nay đang
diễn ra trên đất nước ta có ý nghĩa như là một quá trình mang tính cách mạng bởi nó tạo
ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong quá trình chuyển
biến đó thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xem là nhiệm vụ trọng tâm và phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu đề
ra, Đảng đã khẳng định tại VK ĐH IX “Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở
nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những
bước nhảy vọt”.
Phương hướng này chỉ ra rằng bên cạnh việc thực hiện những giải pháp nhằm tích
lũy dần tiềm lực về khoa học công nghệ, về kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và
chuyển biến quy trình sản xuất từ nền sản xuất lao động thủ công sang lao động với
phương tiện và phương pháp tiên tiến có năng suất cao theo những bước đi phù hợp với
quy luật phát triển, chúng ta cần phải biết phát huy những lợi thế của đất nước, tạo điều
kiện và phát huy tối đa nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam,
chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, Khoa học và công nghệ ... để làm nền tảng,
động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển CNH-HĐH của đất nước có những bước nhảy
vọt, đột phá. Nhân tố chủ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo sự đột phá
về bước nhảy để rút ngắn thời gian trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, đây là quan
điểm đúng đắn dựa trên cơ sở tác động của chầt đối với lượng để tạo sự đột phá trong
bước nhảy. Văn kiện ĐH Đảng lần VIII đã nhấn mạnh “phải lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đó là việc tăng
cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước “nâng cao hàm lượng tri thức
trong các nhân tố phát triển KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
Tuy nhiên, quá trình CNH-HĐH cũng phải được xây dựng trên những bước đi

tuần tự trong việc xác định cơ chế kinh tế cũng như xây dựng lực lượng lao động cơ
bản trong hệ thống sản xuất tiên tiếncho phù hợp với điều kiện sản xuất hiện đại, có
trình độ khoa học - công nghệ, nghiệp vụ chuyên môn và tay nghề vì như bất kỳ sự thay
đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong con đường CNH-HĐH hiện nay cũng chỉ
có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng, thích hợp ở đây bất kỳ một sự nôn
nóng chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự
nghiệp đổi mới đất nước.
7


Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng
và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét
và giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay ở
nước ta đặt ra.
Đối với người Đảng viên, công viên chức nhà nước, việc nắm vững quy luật
lượng - chất sẽ giúp chúng ta trong hoạt động chuyên môn cũng như trong quản lý, chỉ
đạo : một mặt phải biết phát huy đúng mức vai trò của nhân tố chủ quan, có quyết tâm
và nghị lực cao trong việc thực hiện đột phá trong công việc khi có điều kiện chín muồi,
một mặt phải biết cách phân tích, xác định đúng quy mô, nhịp điệu của các sự việc để
có những biện pháp giải quyết thích hợp, tránh rơi vào khuynh hướng nôn nóng chủ
quan duy ý chí hoặc bảo thủ./.

Câu 3 Khái quát những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật. Ý
nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tế đổi mới ở địa phương.
Như chúng ta đã biết phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ
biến và sự phát triển.Trước hết ta đi vào tìm hiểu và phân tích từng nguyên lý để thấy
được ý nghĩa của nó đối với việc vận dụng của Đảng ta về các nguyên lý này trong thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
*Về nguyên lý về sự phát triển:
Đối lập với phương pháp siêu hình, phép biện chứng khẳng định mọi sự vật hiện

tượng trong thế giới đều tồn tại trong sự vận động, biến đổi và phát triển.
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự vận động có định hướng từ
thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ biện chứng với nguyên lý về mối quan
hệ phổ biến, nhờ có mối liện hệ thì mới có vận động và phát triển. Là một hình thức đặc
trưng của vận động, phát triển là sự vận động có khuynh hướng và gắn liền với sự ra đời
của cái mới.
Sự phát triển của sự vật mang tính khách quan, phổ biến, đa dạng và phong phú.
Mọi sự vật, hiện tượng của xem xét toàn bộ một quá trình đều vận động trải qua giai
đoạn sinh thành, phát triển và mất đi. Chính sự mất đi của các SVHT này là điều kiện ra
đời của SVHT khác. Không phải chỉ có khuynh hướng đi lên mới được coi là sự phát
triển mà nó thường được diễn ra quanh co, phức tạp qua những khâu trung gian mà có
lúc bao hàm cả sự thụt lùi đi xuống tạm thời.
Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới. Sự vận động, biến đổi dù phức tạp
bao nhiêu cuối cùng cũng tự vạch cho mình phát triển tiến lên không ngừng. Sự phát
triển có nguồn gốc động lực là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong

8


chính bản thân sự vật hiện tượng. Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật theo
khuynh hướng tiến lên của đường “xoáy tròn ốc”
Với những nội dung cơ bản trên, quan điểm về sự phát triển của CNDV BC đã
bác bõ những sai lầm của quan điểm siêu hình và quan điểm siêu hình và quan điểm duy
tâm tôn giáo về sự phát triển.
Phát triển không phải là vận động đi tới cõi chết không phải là lặp lại, càng không
thể tồn tại sự ổn định tuyệt đối của sự vật , hiện tượng.
*Quan điểm phát triển:
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm phát
triển:

Trong nhận thức: để nhận thức bản chất của sự vật hiện tượng đòi hỏi chủ thể
phải xem xét nó trong trạng thái vận động và dự đoán được các xu hướng biến đổi
chuyển hóa của chúng.
Trong thực tiễn: cần thấy được tính quanh co phức tạp của quá trình phát triển,
cần thấy được cái mới, cái tiến bộ và tạo điều kiện cho cái mới ra đời để nó chiến thắng
cái cũ cái lạc hậu.
Trong tư tưởng:quan điểm phát triển là cơ sở kế hoạch để giúp đỡ chúng ta có
niềm tin vào sự thắng lợi của lý tưởng CSCN mặc dù CNXH đang lâm vào thoái hóa,
giúp chúng ta vững lòng tin vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mặc dù có nhiều
khó khăn thử thách.
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc phục bệnh
bảo thủ, trì trệ trong tư duy cũng như trong hoạt động thực tiễn, góp phần khắc phục sự
lạc hậu về lý luận.
*Về nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác
đôïng, liên hệ ràng buộc và chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự
vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau trong quá trình tồn tại và phát
triển.
Mọi SVHT đều tồn tại trong những mối liên hệ tác động qua lại và không loại trừ
một lãnh vực nào. Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động và do đó mới có sự tồn tại của
vật chất, hay nói cách khác mối liên hệ là phổ biến, là hiện thực là cái vốn có của mọi
SVHT, thể hiện tính khái quát, tính thống nhất của vật chất của thế giới.
Các SVHT trong thế giới vật chất rất đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa
dạng, phổ biến nhưng đều mang tính khái quát chứ không phải thần linh thượng đế hoặc
“ý niệm tuyệt đối” nào sinh ra cả, có mối liên hệ giữa các hình tượng vật chất, các hình
tượng tinh thần song những mối liên hệ tinh thần chỉ là sự phản ánh và là sản phẩm của
mối liên hệ vật chất.
9



Trong thế giới vô cùng, vô tận này không có bất cứ một sự vật, hiện tượng nào
tồn tại bên ngoài mối liên hệ với SVHT khác. Các mối liên hệ đó, căn cứ vào tính chất
phạm vi trình độ có thể phân biệt thành các loại như sau: liên hệ bên trong và bên ngoài,
chung và riêng, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian,
trực tiếp và gián tiếp… Tuy nhiên, sự phân loại này là tương đối vì mối liên hệ đó chỉ là
bộ phận trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung. Phép biện chứng duy vật nghiên
cứu những mối liên hệ chung nhất của thế giới khách quan. Còn những hình thức cụ thể,
riêng biệt là đối tượng của các ngành khoa học cụ thể, thì chủ thể phải có quan điểm
toàn diện trong việc xem xét giải quyết một vấn đề trong thực tiễn.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải nhận thức về sự vật như là một chỉnh thể của tất
cả các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ trong bản thân SVHT và giữa SVHT đó với
những SVHT khác, với môi trường xung quanh… Thực chất của quan điểm toàn diện là
trong khi chú ý xem xét tất cả các mặt của sự vật, trong tư duy phải phát hiện được,
phản ánh được những mặt chủ yếu, bản chất, quan trọng nhất của sự vật.
Từ việc nắm được bản chất của sựï vật chúng ta cùng nhận thức các mặt khác của
sự vật một cách sâu sắc trong chỉnh thể của tất cả các mặt.
Từ quan điểm toàn diện trong sự xem xét chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ
trong hoạt động thực tiễn: để cải tạo một sự vật bao giờø chúng ta cũng phải áp dụng
đồng bộ một hệ thống những biện pháp nhất định. Tuy nhiên cũng như đã nói ở trên,
đồng bộ không có nghĩa là dàn đều, bình quân mà trong từng buớc, từng giai đoạn phải
nắm đúng khâu then chốt. Thực hiện quan điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh
phiến diện, một chiều chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều mặt hoặc có khi tuy có chú
ý đến nhiều mặt nhưng không nhìn thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn
diện cũng góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn.
Quan điểm toàn diện còn có ý nghĩa trong việc chống chủ nghĩa chiết trung mà
đặc trưng của nó là nhân danh quan điểm toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc
những mặt khác nhau mà thực chất là không thể kết hợp với nhau được.
*Quan điểm lịch sử – cụ thể:
Vì SVHT luôn tồn tại trong không gian và thời gian cụ thể của nó, dẫn đến

để nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm
lịch sử cụ thể:
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi xem xét sự vật phải gắn với những điều
kiện, những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự tồn tại của sự vật. Tư duy của chúng ta chỉ
có thể chân thực khi chúng ta theo sát sự thay đổi của những hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của sự vật . Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi khi vận dụng những nguyên tắc lý luận vào
thực tiễn không được dừng lại ở những công thức chung, sơ đồ chung mà phải tính đến
những điều kiện lịch sử – cụ thể của sự vận dụng.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể còn đòi hỏi chúng ta khi nhìn thấy một luận điểm
nào đó, một chân lý nào đó phải gắn với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của chân lý đó,
bởi vì bất cứ chân lý nào cũng chỉ là chân lý trong những hoàn cảnh lịch sử – cụ thể
nhất định của nó, trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định của nó.
10


Lênin “Bản chất linh hồn sống của Chủ Nghĩa Mác là phân tích cụ thể một tình hình cụ
thể, điều kiện cụ thể”.
- Bệnh phiến diện :
Phiến diệân là khi xem xét một SVHT chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà
không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của
sự vật ấy mà không nhìn thấy sư phát sinh và tiêu vong của sự vật ấy, chỉ nhìn thấy
trạng thái tĩnh của sự việc ấy mà quên mất sự vận động của sự vật ấy, chỉ thấy cây mà
không thấy rừng.
Trước Đại Hội VI, Đảng ta đã mắc phải bệnh phiến diện một chiều trong xây
dựng PTSX xã hội chủ nghĩa : Đảng ta chỉ tập trung xây dựng Quan hệ SX mà không
thấy được vai trò của LLSX ( qui luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX), chỉ thấy có một mặt của PTSX là QHSX dẫn đến XD QHSX tiên tiến vượt xa
so với tính chất và trình độ LLSX dẫn đến tình trạng kinh tế chậm phát triển. Hoặc khi
XD QHSX chúng ta chỉ chú ý đến mối quan hệ sở hữu về TLSX mà không chú ý đến
mối quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm, hoặc việc quốc hữu hoá

TLSX để phát triển Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể (sở hữu nhà nước và sở hữu
tập thể) đưa đến sản xuất đình trệ, kinh tế không phát triển được.
Để khắc phục bệnh phiến diện một chiều, chúng ta cần phải có quan điểm toàn
diện khi xem xét nghiên cứu SVHT. Phải kết hợp chặt chẽ giữa “ Chính sách dàn đều”
và “Chính sách có trọng điểm” (V.I Lênin) trong phát triển Kinh tế. Đổi mới phải đổi
mới toàn diện, đồng bộ, triệt để với những buớc đi hình thức phu øhợp, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm trên cơ sở đó từng bước đổi mới hệ thống chính trị.
- Bệnh giáo điều:
Bệnh giáo điều là tuyệt đối hoá lý luận đồng thời coi thường kinh nghiệm thực
tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý
chung trừu tượng, không chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý
luận:
Giáo điều lý luận: thuộc lòng lý luận cho rằng áp dụng vào đâu cũng được không
xem xét điều kiện cụ thể của mình. VD : Chủ trương xoá bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến
hành cải tạo XHCN xoá tất cả các thành phần kinh tế chỉ còn KT quốc doanh và tập thể.
Giáo điều kinh nghiệm: áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của
địa phương khác vào địa phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa… VD: Bắt chước
rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô (ở Liên Xô có bao nhiêu bộ ta cũng có bấy nhiêu
bộ) hoặc về CNH cũng vậy chỉ chú ý tập trung phát triển CN nặng mà không chú ý phát
triển phát triển công nghiệp nhẹ…
Để khắc phục bệnh giáo điều cần từ bỏ lối nghiên cứu một cách kinh viện, thuần
túy chỉ biết giải thích bằng kinh nghiệm, chứng minh lý luận bằng lý luận cần chống lối
tư duy bắt chước, sao chép rập khuôn, thoát ly thực tế, bất chấp những đặc điểm, truyền
thống và điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, của dân tộc, mà cần phải tăng cường
tổng kết thực tiễn bổ sung phát triển lý luận.
11


Luận điểm của Đảng: Đổi mới đồng bộ, toàn diện, có nguyên tắc, có bước đi
vững chắc.

* Đổi mới đồng bộ, toàn diện
Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực, nội dung của đổi mới cũng bao gồm nhiều mặt: từ
đổi mới quan niệm đến đổi mới cơ chế chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối
làm việc. Nếu chỉ đổi mới một liõnh vực hoặc một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới
không thể đạt kết quả mong muốn. Đồng thời trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng
khâu then chốt để tập trung sức giải quyết ,làm cơ sở cho việc đổi mới các khâu khác,
các lực lượng khác.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính
trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự
đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung
trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới Kinh tế, khắc phục khủng
hoảng KT-XH , tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính
trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác
của đời sống XH. Trong việc đổi mới tổ chức và cơ chế hành động của hệ thống chính
trị, chúng ta đã đi những bước thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ việc giải quyết những
vấn đề cấp bách nhất và đã chín muồi, với việc nhận thức đây là việc rất cần thiết nhưng
đặc biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai lầm sẽ phải trả giá rất đắt có khi
không cứu vãn được.
Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ
XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân . Bài học lớn là dân chủ nhất thiết
phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát
bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối về chính trị,
chống phá chế độ hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận chế độ đa
nguyên đa đảng.
Tóm lại, tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ, đưa công cuộc đổi mới đi vào
chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới KT làm trọng tâm, đồng thời thúc đẩy
mạnh mẽ việc đổi mới các lãnh vực khác, nhất là vè dân chủ hóa XH, tổ chức và
phương thức hành động của hệ thống chính trị, các chính sách Giáo Dục, Văn Hóa, Xã

Hội là bài học kinh nghiệm quý báu của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay đã
được Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX rút ra. “Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc lúc
này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn
diện và đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững”.
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X có đoạn viết: “Đòi hỏi
bức bách của toàn dân tộc lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững”. (Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà
Nội, 2006, tr.75).

12


* Đổi mới có nguyên tắc :
Đổi mới nhưng phải bảo đảm định hướng XHCN. Đổi mới không phải là thay đổi
mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những
quan niệm đúng đắn về CNXH, những hình thức bước đi và biện pháp thích hợp. Khẳng
định điều đó cũng chính là khẳng định CN Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn
luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp đổi mới. Bởi vì mụ tiêu
độc lập dân tộc và CNXH chỉ được thực hiện trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo của CN Mac –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đổi mới nhưng phải đảm bảo sự lãnh đạo của ĐCSVN phải tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, coi XD Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng ta phải luôn tự đổi mới
và tự chỉnh đốn củng cố và XD Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ ; tăng
cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng ; đổi mới phương thức,
lề lối làm việc, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị và toàn xã hội. Bài học lịch sử của các nước XHCN chỉ ra là không lúc nào được
buông lơi hay để trượt khỏi tay ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.
Đổi mới phải gắn với Độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền quốc gia trong mở
rộng quan hệ quốc tế. Việc mở rộng quan hệ quốc tế đối ngoại phải trên cơ sở giữ vững

độc lập tự chủ, giữ gìn phát huy bản sắc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN...
Đổi mới phải không ngừng thực hiện dân chủ hóa đời sống XH trên tất cả các
lãnh vực./.

Câu 4: Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự nhận thức và vận dụng quy luật này của
Đảng ta.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và 1 trong
những quy luật đó là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX. Trên cơ sở nghiên cứu vận dụng quan điểm của CNMLN về quy luật này trong
định hướng đổi mới, đảng ta đã xác định” đầy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành 1 nước công nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX, đồng
thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN”. Đây chính là sự vận dụng quy
luật đúng đắn về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX vào sự phát
triển nền kinh tế ở nước ta.
CNDVLS cho rằng phương thức SX là cách thức con người thực hiện quá trình
sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người, chính là sự
thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định và QHSX tương ứng.

13


LLSX: thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất
vật chất. LLSX là sự kết hợp thống nhất giữa người lao động với tư liệu sản xuất (trước
hết là công cụ lao động) để tạo thành sức sản xuất xã hội.
LLSX gồm người lao động và TLSX. TLSX gồm tư liệu lao động (công cụ lao
động + tư liệu lao động khác) và đối tượng lao động (có sẵn trong tự nhiên và qua chế

biến của con người)
Ngày nay nói đến LLSX cần chú ý đến nội dung hiện đại của khái niệm này. Đó
là khoa học đã trờ thành LLSX trực tiếp cùng với công nghệ hiện đó nó làm thay đổi
sâu sắc bộ mặt LLSX của nhân loại, nó qui định nội dung mới của sức SX XH trong
thời đại ngày nay. Chính vì lẽ đó mà đảng ta quan niệm “cùng với giáo dục đào tạo
khoa học công nghệ phải được coi là quốc sách hàng đầu”
- QHSX
+ QHSX dùng để chỉ quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất của xã hội. Nó là một chỉnh thể thống nhất của 3 quan hệ: mối quan hệ
giữa người với người trong việc sở hữu đối với tư liệu sản xuất (quan hệ sở hữu), quan
hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất vào trao đổi cho nhau trong
sản xuất (quan hệ quản lý), quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản
phẩm xã hội (quan hệ phân phối).
Trong chỉnh thể QHSX Quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ
khác, nhưng quan hệ quản lý và phân phối cũng rất quan trọng. Vì vậy, nhận thức
QHSX trong quan hệ với LLSX phải thấy rõ tính chỉnh thể của nó, không được có quan
điểm thiếu đồng bộ.
Nội dung quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển LLSX:
LLSX và QHSX là 2 mặt thống nhất của PTSX. Giữa 2 mặt của quá trình SX
luôn gắn bó chặt chẽ tác động biện chứng với nhau trong đó LLSX là nội dung còn
QHSX là hình thức của quá 1trình sản xuất xã hội. sự tác động biện chứng giữa LLSX
và QHSX diễn ra thường xuyên phổ biến và là nhu cầu khách quan của toàn bộ tiến
trình SX vật chất XH quyết định đến sự phát triển kế tiếp nhau của các hình thái KTXH
trong lịch sử, cũng như của từng hình thái. Mác là người đầu tiên đã khái quát vấn đề
trên thành qui luật “QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX”
- LLSX quyết định QHSX: Nội dung quyết định hình thức.
+ LLSX ở trình độ và tính chất nào thì nó yêu cầu tất yếu một kiểu QHSX thích
ứng phù hợp với nó. Điều đó có nghĩa là là quan hệ SX giữa người với người nhưng nó
mang tính khách quan do vậy con người k có quyền lựa chọn QHSX theo ý muốn chủ
quan của mình. Mọi QHSX chỉ hình thành và tồn tại trên cơ sở một LLSX nhất định và

chịu sự quyết định của LLSX ấy. ở đây cần hiểu rằng xác định LLSX ở tình trạng nào
để xem xét QHSX phù hợp với nó chỉ là tương đối và LLSX luôn ở trạng thái vận động
liên tục. khi LLSX ở trình độ nào thì yêu cầu kiểu QHSX phát huy ở tình trạng đó, chứ
k đòi hỏi QHSX cao hơn hay thấp hơn. Trong lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ điều
đó, khi LLSX ở trình độ thủ công, tính chất cá nhân nó đòi hỏi QHSX về mặt sở hữu
14


cũng mang tính tư hữu. Nếu LLSX ở trình độ cơ khí hoá, tự động hóa và tính chất XH
hóa ngày càng cao thì yêu cầu QHSX phù hợp với sự phát triển của nó là kiểu QHSX
mang tính XH, đương nhiên là QHSX có đáp ứng đúng đòi hỏi đó của LLSX hay k thì
còn do nhiều nguyên nhân từ phía bản thân của QHSX
+ Tính chất quyết định của LLSXđối với QHSX còn biểu hiện LLSX là yếu tố
thường xuyên biến đổi phát triển 1 cách năng động, vừa mang tính chất kế tục, vừa
mang tính cách mạng. mỗi bước vận động biến đổi của nó đặc biệt LLSX có sự thay đổi
căn bản từ trình độ này lên trình độ khác thì nó luôn luôn đòi hỏi QHSX cũng phải vận
động phát triển cho phù hợp với nó. Nói cách khác mọi sự vận động phát triển của
QHSX điều có nguyên nhân trực tiếp là từ sự vận động phát triển của lLSX. Mác nói bất
cứ sự thay đổi nào về mặt chế độ XH bất cứ sự cải biến nào về mặt quan hệ chiếm hữu
cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những LLSX mới.
Vấn đề đặt ra tại sao LLSX là yếu tố năng động và vận động phát triển trước
QHSX, quyết định QHSX. Để đáp ứng nhu cầu của mình ngày càng tốt hơn con người
tất nhiên phải phát triển sản xuất vật chất, con người bắt đầu k ngừng cải tiến lao động.
mác nói do có được LLSX mới loài người thay đổi PTSX của mình dẫn đến loài người
thay đổi tất cả các QH XH của mình
+ Sự phát triển của LLSX đòi hỏi QHSX cũng phải biến đổi phát triển theo để
phù hợp với trình độ mới của LLSX. Mỗi khi xuất hiện QHSX mới phù hợp với LLSX
thì cũng có nghĩa là phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho phương thức sản xuất
cũ, thúc đẩy xã hội tiến lên một bước cao hơn.
Ngày nay trên thế giới khi mà LLSX đã mang tính chất quốc tế hóa rộng lớn và

sâu sắc thì tất yếu đòi hỏi trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, dân tộc cũng
phải phát triển theo xu hướng đó. Việc hình thành các khối liên kết kinh tế quốc tế và
khu vực, các hình thức công tất yếu đa quốc gia, xuyên quốc gia hay việc điều chỉnh ở
những phạm vi mức độ nhất định của QHSX trong các nước tư bản phát triển đều thể
hiện đúng yêu cầu của qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX trong
điều kiện quốc tế hiện nay. Như vậy LLSX là yếu tố quyết định đối với QHSX dây là sự
quyết định của nội dung đối với hình thức của quá trình sản xuất. song
+ QHSX không hoàn toàn phụ thuộc một cách thụ động vào LLSX, nó có vai trò
độc lập tương đối trong sự tác động trở lại LLSX.
+ Sự tác động của QHSX đối với LLSX diễn ra theo 2 hướng: phù hợp hoặc
không phù hợp, điều này do QHSX mang tính ổn định tương đối và biến đổi chậm hơn
so với LLSX, mặt khác còn do trình độ năng lực của chủ thể sản xuất, do quan hệ lịch
sử giai cấp chi phối.
Sự tác động của QHSX gọi là phù hợp với LLSX khi QHSX đó hình thành tồn tại
đã tạo ra được khả năng liên kết giữa các yếu tố của LLSX có hiệu quả hơn do đó tạo ra
địa bàn cho sự phát triển tốt hơn của LLSX. Vì vậy kích thích được SX tiềm năng của
người lao và tư liệu SX được khai thác tốt hơn tạo ra suất lao động cao hơn.

15


QHSX qui định mục đích XH của sản xuất, qui định khuynh hướng phát triển của
các quan hệ lợi ích từ đó hình thành hệ thống các yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của LLSX.
Sự tác động của QHSX phù hợp với LLSX nghĩa là QHSX sau khi hình thành và
tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của LLSX , làm cho tất cả các yếu tố LLSX
phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó => QHSX là hình thức phát triển, là
động lực phát triển thúc đẩy sự phát triển của LLSX.
Ngược lại, nếu QHSX tác động không phù hợp với đòi hỏi tất yếu của LLSX thì
nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển của LLSX dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội

nghiêm trọng. Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh: Khi QHSX đã
lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới của LLSX, sự lạc hậu này có thể diễn ra trên cả 3
mặt của QHSX hoặc 1 trong 3 mặt đó, Trường hợp chủ thể dùng ý chí chủ quan của
mình áp đặt một “mô hình” QHSX”, “cao hơn” trình độ LLSX.
Khi QHSX phát triển k đồng bộ có những yếu tố vượt quá xa so với trình độ của
LLSX thì chẳng những k hề mở đường cho LLSX phát triển mà bản thân QHSX phá
hoại nghiêm trọng đối với LLSX. Trường hợp này thường do trình độ hiểu biết qui của
con người thường bị hạn chế chủ quan áp đặt theo ý muốn của mình. Do vậy để tránh
sai lầm thiếu sót con người phải k ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về vận dụng qui
luật của chính mình
Đại hội VI đã tổng kết kinh nghiệm cho thấy: LLSX bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp QHSX lạc hậu mà cả trong trường hợp QHSX phát triển k đồng bộ có yếu
tốt đi quá xa so với trình độ của LLSX
Tóm lại sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX tạo thành qui luật phổ biến
của toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. thực chất của qui luật là LLSX đòi hỏi QHSX
phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Khi QHSX k phù hợp mâu thuẫn
ngày càng gay gất tính tất yếu đòi hỏi phải đổi mới hoặc xóa bỏ QHSX cũ thay thế bằng
1 QHSX phù hợp hơn. qui luật này chỉ ra nguồn gốc động lực bên trong của sự vận
động và phát triển của XH.
Vận dụng:
Trước đổi mới:
Đảng ta có những sai lầm thiếu xót trong việc nhận thức và vận dụng qui luật XH,
đặc biệt là nhận thức và vận dụng qui luật QHSX phù hợp với trình động của LLSX
những sai lầm ấy thể hiện
+ Chúng ta chưa thừa nhận sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường.
+ Xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế XHCN, phân bổ
mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu.
+ Coi thị trường chỉ là công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch.

16



+ quan điểm chỉ đạo và chính sách cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới, biểu
hiện sai lầm về quan điểm cho rằng 1 nước lạc hậu tiến lên CNXH thì QHSX có thể đi
trước mở đường cho LLSX phát triển. về chủ trương chính sách lớn: cải tạo QHSX cũ,
xây dựng QHSX mới chúng ta đã nôn nóng cho rằng CNXH chỉ tồn tại hình thức sở
hữu quốc doanh và tập thể. Chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, đã
nóng vội muốn nhanh chóng xóa bỏ kinh tế tư bản tư nhân, KT cá thể để sớm có kinh tế
XHCN xây dựng nền kinh tế khép kín. Do đó Không thừa nhận sự tồn tại nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ k chấp nhận KT thị trường, đa dạng hóa
hình thức sở hữu, quản lý phân phối, k thấy được đòi hỏi của LLSX đang ở trong tình
trạng đan xen những trình độ tính chất khác nhau để mà xác lập QHSX. Nói cách khác
bỏ qua TBCN nhưng lại k thấy tính chất quá độ là đan xen tổn tại lâu của cả LLSX,
QHSX, kiến trúc thượng tầng
+ Việc xác lập QHSX không trên cơ sở thực trạng LLSX mà còn xác lập k đồng
bộ và có yếu tố đẩy quá xa vượt lên trên trình độ của LLSX ở chổ: k đồng bộ trong các
ngành, trong cơ cấu kinh tế, trong bản thân 3 mặt của QHSX. Trong việc tổ chức hình
thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn,
hợp tác xã … với quy mô lớn mà không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ
quản lý và năng lực của cán bộ.
+ Chúng ta đã đi tới chổ đồng nhất cách mạng sỡ hữu với cách mạng QHSX, CM
QHSX với toàn bộ CM XHCN đồng nhất hình thức kinh tế với kểu quan hệ sở hữu qui
mô của quan hệ sở hữu với bản chất của QHSX XHCN và sai lầm thiếu xót khác nữa là
duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp vào QHSX vốn đã xác lập
không phù hợp với lực lượng SX do đó cơ chế này đã làm ngưng tính năng động sáng
tạo của người lao động kìm hãm LLSX và đã sớm k nhận thức được sai lầm đó nên đã
kéo dài ăn sâu vào nếp nghĩ nếp hoạt động của thực tiễn cho nên trở thành khó thay đổi
và trở nên quan liêu bảo thủ. Coi thường tính tất yếu kinh tế của sản xuất nhỏ đang
chuyển sang sàn xuất lớn nghĩa là thông qua sản xuất hàng hóa hóa thị trường mới đi
lên được.

+ Hậu quả: Dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát đạt đến
mức khủng khiếp 774% (những năm 80), sản xuất bị đình trệ.
Để khắc phục những sai lầm trên và vận dụng có hiệu quả qui luật này, đại hội 6
của đảng ta đề xuất quan điểm đổi mới toàn diện torng đó đó đặc biệt chú ý đổi mới
nhận thức và vận dụng qui luật khách quan. Đại hội 7 tiếp tục khẳng định và phát triển
hơn nửa quan điểm đại hội 6.
Thời kỳ đổi mới:
* Quan điểm của Đảng ta về:
-Đẩy mạnh CNH, HĐH để xây dựng LLSX hiện đại
Việc phát triển LLSX chỉ có thế thực hiện được khi chúng ta tăng cường áp dụng
khoa học công nghệ hiện đại vào trong LLSX => CNH-HĐH là trọng tâm của suốt thời
kỳ quá độ.

17


Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho CNXH, đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn đổi mới căn bản về
công nghệ, chuyển từ nền sản xuất nhỏ thủ công sang nền sản xuất lớn có trình độ
chuyên môn hóa và công nghiệp hóa cao, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu
quả và bền vững cho nền kinh tế ...
Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công
nghệ tiên tiến.
Phải kết hợp chặt chẽ việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tập trung xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ
Xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức
sở hữu…
+Vì sao phải duy trì và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ?
LLSX còn thấp, nên LLSX tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với nó
là một kiểu quan hệ kinh tế .

.Mặt khác nhiều cơ sở KT do XH cũ để lại và do quá trình hội nhập KT, hợp tác
đầu tư qtế
=> Tồn tại nhiều thành phần KT => Mỗi TP KT đều có vai trò và ưu thế+ CNH,
HĐH đòi hỏi phải có một nguồn lực đủ mạnh để thực hiện => cần phải sử dụng phát
huy để tạo sức mạnh tổng hợp.
+ Nêu các thành phần kinh tế theo quan điểm ĐH X: ...
+ Tính định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều thành phần:
Từ ĐH VI chúng ta đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị
trường; mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và chủ trương là phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần.
Trong ĐH VII: Trong cương lĩnh chúng ta khẳng định là phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước.
Đến ĐH VII đưa ra 1 quan niệm mới quan trọng là: SX hàng hóa không đối lập
với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan
cần thiết trong công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng.
Đến ĐH X thì khái niệm kinh tế thị trường theo định hướng XHCN được chính
thức nêu lên.
Quan điểm phát triển tại ĐH XI: “Phát triển mạnh mẽ LLSX với trình độ KH,
CN ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện QHSX trong nền KTTT định hướng
XHCN”.

18


Như vậy việc xác định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta là một lý luận rất sáng tạo của Đảng đặc biệt là lý luận về quan hệ
biện chứng giữa LLSX và QHSX.
Với chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta đã thừa nhận sự
tồn tại của nhiều hình thức sở hữu và các loại hình tổ chức kinh tế gắn liền với các

hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng thành phần kinh tế. Chính
điều này đã tạo ra sức sống động cho sự phát triển kinh tế, tạo ra được nhiều sản
phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của các thành phần
kinh tế. Việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu không thể xác
lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là một quá trình kinh tế - xã hội lâu
dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao … Tiêu chuẩn căn bản để
đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đẩy
phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã
hội.
Thực tế cho thấy, sự đổi mới trên phù hợp với quy luật giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất đã gắn kết các điều kiện sản xuất lại với nhau tạo ra năng suất cao, các ngành
nghề truyền thống khởi sắc, phát triển rộng và khá mạnh, nền kinh tế phát triển và đã đưa đất
nước ra khỏi cuộc khủng hoảng để từng bước phát triển một cách ổn định và bền vững.
Tóm lại, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất cùng các hệ thống, các quy luật KT-XH khác của nền
kinh tế hàng hoá thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước theo định
hướng XHCN, nhất định chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH
công bằng, dân chủ văn minh. Những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được sau hơn
20 năm đổi mới là những minh cho điều đó./.

Câu 5: Nội dung, kết cấu của hình thái kinh tế-xã hội. Quá trình lịch sử tự
nhiên của sự phát triển xã hội. Sự vận dụng của Đảng ta.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội là nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử và cũng là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Với sự ra đời
của học thuyết này đã chỉ rõ kết cấu cơ bản của các xã hội cụ thể và còn vạch rõ những
quy luật nội tại của sự vận động phát triển xã hội, vạch ra phương pháp khoa học để giải
thích tiến trình lịch sử xã hội.
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và

với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất
ấy.
Hình thái kinh tế-xã hội là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp, gồm ba yếu tố
cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Các yếu tố
cơ bản có quan hệ biện chứng với nhau tạo thành các quy luật cơ bản chi phối sự vận
động, phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội, trở thành nhân tố khách quan, khoa học
19


cho việc phân loại xã hội. Trong đó, lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao
động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất. Quan hệ sản xuất là một chỉnh thể thống nhất của quan hệ sở hữu (quan hệ giữa
người với người trong việc sở hữu đối với các tư liệu sản xuất của xã hội), quan hệ
quản lý (quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức sản xuất và trao đổi hoạt
động cho nhau), quan hệ phân phối (quan hệ giữa người với người trong việc phân
phối sản phẩm xã hội làm ra). Các mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng với
nhau trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định, còn quan hệ quản lý và phân phối
tác động lại rất mạnh mẽ và quan trọng đến chế độ sở hữu.
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất tương ứng với một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ sản xuất của một xã hội cụ
thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng xã hội, mà
chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài những yếu tố cơ bản của xã hội còn có những quan hệ xã hội như quan hệ dân tộc quan
hệ gia đình v.v...
Sự vận động, phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội trong lịch
sử do sự tác động của các qui luật khách quan chi phối.
Sự phát triển của phương thức sản xuất bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi của lực
lượng sản xuất, trước hết là từ công cụ lao động. Mỗi bước phát triển mới của lực lượng sản
xuất luôn đòi hỏi tất yếu quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi, phát triển theo để phù hợp với

trình độ mới của lực lượng sản xuất. Đó là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người. Lực lượng sản xuất là yếu tố biến đổi trước, năng động hơn.
Quan hệ sản xuất là yếu tố biến đổi sau, ổn định tương đối hơn, nó không tự biến đổi
trước, vượt lên trên lực lượng sản xuất, mà do tính tất yếu phải thay đổi để phù hợp với trình
độ mới của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa
bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc
đẩy tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc
hậu không còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó trở thành
xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của
lực lượng sản xuất, vì nó qui định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao
động của quãng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp
dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động…
Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được
mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên.
Qui luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX chỉ cho chúng ta
thấy nguồn gốc, động lực bên trong chi phối sự vận động phát triển của lịch sử xã hội lòai
người bắt đầu từ sự phát triển của LLSX tới một giới hạn nhất định nào đó làm cho QHSX
20


vốn là hình thức phát triển của LLSX trở nên không phù hợp và trở thành xiềng xích kiềm
hãm sự phát triển của LLSX nên bị thay thế bằng một QHSX mới phù hợp với trình độ của
LLSX, cứ thế lịch sử xã hội lòai người lại bước vào một giai đoạn phát triển mới, lại bắt đầu từ
sự phát triển của LLSX.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng trong một hình
thái kinh tế-xã hội, chúng tác động qua lại với nhau tạo thành qui luật chi phối sự vận động và
phát triển của xã hội.

Theo triết học Mác, QHSX là những quan hệ vật chất qui định các quan hệ chính trị và
tinh thần tức là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng và
qui định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Tính chất mâu thuẫn trong kinh tế qui định tính
chất mâu thuẫn về chính trị và tinh thần. Tính chất giai cấp của kinh tế qui định tính chất giai
cấp của kiến trúc thượng tầng. Giai cấp nào thống trị về kinh tế cũng thống trị về mặt chính trị
và tinh thần. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng qui định sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng qui định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối
và tác động trở lại cơ sở hạ tầng, chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ,
xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng hiện tồn tại chống lại những nguy cơ làm suy yếu hoặc
phá hoại cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng tác động bằng nhiều hình thức khác nhau, nhiều
góc độ trực tiếp hoặc gián tiếp. Kiến trúc thượng tầng tác động theo hai hướng đó là nếu tác
động phù hợp với qui luật kinh tế-xã hội, với yêu cầu phát triển của LLSX thì sẽ thúc đẩy sản
xuất và xã hội phát triển; nếu tác động không phù hợp với qui luật kinh tế-xã hội, với yêu
cầu phát triển của LLSX thì sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất và xã hội.
Sự phát triển của hình thái kinh tế-xã hội từ thấp đến cao là xu hướng chung của lịch sử
còn đối với mỗi quốc gia dân tộc cụ thể do những điều kiện cụ thể chi phối mà trong sự phát
triển có thể bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế-xã hội đó là quá trình lịch sử tự nhiên đặc
thù.
Điều này đã được Lênin chỉ rõ “...Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những
quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những
hình thái xã hội là một quá trình lịch sử -tự nhiên”.
Đối với nước ta là một xứ thuộc địa nữa phong kiến với điểm xuất phát thấp, sản
xuất nhỏ là chủ yếu lại trãi qua chiến tranh lâu dài đó là những khó khăn cho quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta đã khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới.
21


Đại hội IX của Đảng tiếp tục quan điểm của các đại hội trước (kể từ sau Đại hội đổi
mới) đã chỉ rõ “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa...”.
Đến Đại hội XI Đảng ta tiếp tục khẳng định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhất
thiết phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta phải nêu cao tinh
thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng
thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và

phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng ta vẫn đang khẳng định đựơc vai trò lãnh đạo tuyệt đối của mình đối với sự
nghiệp cách mạng, thẳng thắn nhìn nhận và quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm, kiên
quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, ra sức nâng cao sức chiến đấu và
năng lực lãnh đạo của mình. Đặc biệt Đảng ta đã nhận thức, nắm bắt chính xác xu thế khách
quan của thời đại, từ đó có đường lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế, nêu cao tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước. Vì vậy đã
tiếp cận, tranh thủ và thu hút được ngày càng nhiều và có hiệu quả các nhân tố khách quan
thuận lợi của thời đại chuyển vào trong nước để cùng với các nhân tố bên trong tạo thành tổng
lực cho sự phát triển đất nước.

22


Nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp. Tòan quân, toàn dân ta tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng; phát huy được lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần
cù, năng động, sáng tạo tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, với thành tựu 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhận thức và vận dụng
đúng đắn hệ thống các quy luật khách quan về kinh tế-xã hội trong đó có mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng, cùng những tiền đề khách quan và chủ quan như trên, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng, nhân dân ta hoàn tòan có khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước
ta. Kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản và tòan diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự
nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, nâng lên rõ

rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết tòan dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính
trị-xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và
lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với nhiều triển vọng tốt./.

Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Ý nghĩa
phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng ta.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và những
quy luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, nhận
thức đúng đắn bản chất của ý thức xã hội và sự chuyển hóa từ tư tưởng thành hiện thực
trong đời sống xã hội có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu lịch sử xã hội loài người. Trên
cơ sở nghiên cứu, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
trong phương hướng đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế đi
lên gắn liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường xã hội”.
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng toàn bộ những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trước hết sinh hoạt vật chất của xã hội phương
thức sản xuất (bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Sinh hoạt vật chất của
xã hội còn bao gồm những sinh hoạt vật chất khác như trao đổi, tiêu dùng hàng ngày, kế
thừa tài sản... Điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm điều kiện tự nhiên xung
quanh, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số…Trong các yếu tố cấu thành nên tồn
tại xã hội, phương thức SX là nhân tố cơ bản vì nó có ảnh hưởng quyết định đến sự
biến đổi của ý thức xã hội và nó làm thay đổi ý nghĩa của hoàn cảnh địa lý và điều kiện
dân số trong sự phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan
điểm tư tưởng lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, mong muốn, truyền thống…
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định.
Căn cứ vào trình độ nhận thức, có thể phân ý thức xã hội thành ý thức xã hội
thông thường và ý thức lý luận (ý thức lý luận làm gia tăng yếu tố khoa học, trí tuệ của

23


ý thức thông thường). Nói cách khác, ý thức xã hội biểu hiện qua tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác
nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định nên ý thức xã
hội cũng có tính giai cấp, nghĩa là mỗi giai cấp đều có những quan điểm, tư tưởng và
tâm lý riêng, không có ý thức chung cho mọi giai cấp mà chỉ có ý thức chung cho một
giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng thống trị trong mỗi thời đại là hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị về kinh tế. Giai cấp thống trị luôn tìm cách hạn chế ý thức của giai cấp bị trị và
truyền bá ý thức của giai cấp hình thành xã hội.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, tồn tại xã hội
giữ vai trò quyết định đến nội dung, khuynh hướng phát triển của ý thức xã hội, ý thức
xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ý thức xã hội do
tồn tại xã hội sinh ra, nội dung của nó là kết quả của sự phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn
tại xã hội tác động đến nhận thức của chủ thể thì hình thành những quan điểm, tư tưởng,
nhận định và thái độ của chủ thể. Sự phản ánh của ý thức xã hội bao giờ cũng xuyên qua
một mắt khâu là lợi ích, trong xã hội có giai cấp đó là lợi ích của giai cấp. Xem xét nội
dung của ý thức xã hội phải gắn chặt chẽ với quan hệ lợi ích. Mặt khác, ý thức xã hội là
sự phản ánh tồn tại xã hội nhưng không phải bất cứ tư tưởng nào, một hình thức ý thức
xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp các quan hệ kinh tế của thời đại mà nó có
thể là phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp qua khâu trung gian, nhưng xét đến cùng bằng
cách này hay cách khác nó vẫn phản ánh các quan hệ kinh tế của thời đại. Tính quyết
định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội còn thể hiện khi tồn tại xã hội-nhất là
phương thức sản xuất-biến đổi thì ý thức xã hội (những tư tưởng và lý luận xã hội,
những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật…)
sớm muộn sẽ biến đổi theo. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh các thời đại khác nhau có
những tư tưởng khác nhau đều bắt nguồn từ sự khác nhau của cơ sở kinh tế và sự thay
đổi, phát triển của ý thức xã hội trước hết là xuất phát từ sự thay đổi và phát triển của

phương thức sản xuất.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ
nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như là một yếu tố thụ động trái lại còn
tác động tích cực, sáng tạo của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh
tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, nghĩa là tuy bị tồn tại xã hội quy định nhưng ý
thức xã hội lại vừa có tính quy luật, lôgíc phát triển riêng. Sự thống nhất giữa chức năng
phản ánh và chức năng sáng tạo tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội biểu
hiện ở chỗ ý thức xã hội vừa vượt trước vừa lạc hậu so với sự phát triển của tồn tại xã
hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội thường xảy ra khi ý thức xã hội không phản ánh
kịp thời sự vận động, phát triển của đời sống xã hội bởi vì ý thức xã hội chỉ là cái phản
ánh được sinh ra từ tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội thì gắn trực tiếp với hoạt động thực
tiễn nên thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu của ý thức xã hội còn thể hiện ở những
tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của xã hội cũ còn rơi rớt lại vẫn tồn tại dai dẳng sau khi
tồn tại xã hội đã thay đổi, bởi vì những tư tưởng, tâm lý một khi đã ăn sâu vào đời sống
xã hội và trở thành lối sống, nếp nghĩ phong tục, tập quán, thói quen thì nó có tính ổn
định tương đối và tồn tại lâu hơn, không dễ mất đi ngay. Mặt khác, các giai cấp lỗi thời,
24


phản động cũng tìm cách duy trì những tư tưởng cũ nhằm phục vụ lợi ích của chúng,
Lênin nói rằng: “Một người bệnh chết đi ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh nhưng
một xã hội mất đi ta không thể đem chôn cùng những căn bệnh của nó được mà những
căn bệnh này rữa ra xâm nhập vào những con người đang sống”.
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học
Mác đồng thời cũng thừa nhận rằng trong những điều kiện vật chất nhất định, tư tưởng
của con người đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát
triển của tồn tại xã hội, phản ánh đúng quy luật vận động và phát triển của tồn tại xã
hội. Từ đó đưa ra các dự báo tương lai một cách khoa học, giúp con người xác định
được mục tiêu và lựa chọn những giải pháp, định hướng cho việc tổ chức chỉ đạo hoạt

động thực tiễn của con người để đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên khi nói tư tưởng tiên
tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình khách quan của sự phát
triển xã hội thì không có nghĩa là trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn
tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà
phản ánh chính xác, sâu sắc mối quan hệ tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội của một thời đại bao giờ cũng phản ánh đời sống vật chất của thời
đại đó, đồng thời là sự kế thừa của những giá trị tinh thần mà các thế hệ trước đó tích
lũy được. Quan hệ kế thừa nói lên sự phát triển liên tục về tư duy giữa các thế hệ, tuy
nhiên nó không kế thừa máy móc mà trên cơ sở “lọc bỏ”. Kế thừa và lọc bỏ là biện
chứng của sự phát triển của ý thức xã hội, nội dung xuất phát từ quan hệ về lợi ích và
nhu cầu của giai cấp chi phối. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức
khác nhau của các thời đại trước. Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh
vực ý thức thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học, phản tiến bộ của
những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện hiện tại mà còn phải chỉ ra những
nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử và phải kế thừa, phát huy những giá trị tinh
thần tiến bộ của dân tộc và nhân loại. Tuy nhiên, xét đến cùng thì tồn tại xã hội vẫn
quyết định nội dung và khuynh hướng của sự kế thừa.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái ý thức xã hội đều phản ánh tồn
tại xã hội với những đặc trưng riêng và giữ chức năng xã hội khác nhau, không thể thay
thế cho nhau nhưng lại tồn tại trong sự liên hệ tác động xâm nhập vào nhau, làm cho
mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất bị ảnh hưởng bởi hình thái
khác. Trong sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau đó thì tuỳ điều kiện cụ thể mà một hình
thái nào đó có ảnh hưởng lớn hơn nhưng ở xã hội hiện đại thì ý thức chính trị có ảnh
hưởng to lớn nhất. Do đó trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới phải phát triển hài
hòa và đồng bộ tất cả các hình thái ý thức xã hội tránh mâu thuẩn đối lập nhau.
Sự tác động ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra hai khuynh hướng khác
nhau. Những tư tưởng khoa học và tiến bộ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển; ngược
lại những tư tưởng lạc hậu, phản động thì cản trở sự phát triển của xã hội. Tính chất và
hiệu quả tác động trở lại của ý thức xã hội phụ thuộc vào các yếu tố vai trò lịch sử của
giai cấp chủ thể của tư tưởng, trình độ phù hợp của ý thức đối với hiện thực và mức độ

truyền bá, xâm nhập của tư tưởng cả bề rộng lẫn bề sâu trong quần chúng nhân dân.
Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội không phải là trực tiếp biến đổi tồn
tại xã hội mà nó tác động thông qua hoạt động của con người, ý thức xã hội vạch ra nội

25


×