Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
Sở giáo dục và đào tạo tỉnh gia lai
PHOỉNG GIAO DUẽC & ẹ.T THAỉNH PHO PLEIKU
Tên đề tài:
Kinh nghiệm tổ chức dạy tốt môn làm
quen văn học lớp mẫu giáo bé
Mã skkn: ..............
Họ và tên ngời viết: Trần Thị Thanh Tân
Chuyên môn: S phạm mầm non
Đơn vị: Trờng mầm non 3/2
Năm học: 2008 - 2009
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
I. Đặt vấn đề:
Làm quen văn học là một loại hình nghệ thuật , là một nội dung quan trọng
của chơng trình giáo dục Mầm non . Văn học giữ vai trò to lớn trong việc hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ . Là tiếng nói hồn nhiên của
tâm hồn trẻ thơ rất dễ đi vào lòng ngời . Em bé nằm trong nôi , qua lời ru của
mẹ dù cha biết thởng thức nghệ thuật nhng ngay từ lúc đó nhịp điệu êm dịu
của lời thơ góp phần tạo nên thế giới tình cảm của em bé . Đó là sự mở cửa
cho trẻ những bớc đi chập chững đầu tiên vào thế giới những giá trị phong phú
chứa đựng trong các tác phẩm văn học . Sự tiếp xúc đầu tiên của trẻ Mẫu giáo
với tác phẩm văn học đợc chọn lọc , nhất là những câu chuyện kể về thế giới
cổ tích thần kì , các câu truyện truyền thuyết , thần thoại , những tác phẩm là
thơ ca sẽ kích thích ở trẻ sự nhạy cảm thẩm mĩ , óc tởng tợng , sự phát triển
ngôn ngữ , trí tuệ Thậm chí khi trẻ lớn lên và cả sau này trẻ vẫn còn nhớ lại
một cách sâu sắc những cảm giác ban đầu khi đợc nghe lời ru của bà , của mẹ
và ký ức đó đã ảnh hởng sâu sắc đến nhân cách mỗi con ngời.
Văn học góp phần hình thành tình cảm đạo đức cho trẻ . ở lứa tuổi Mẫu
giáo việc hình thành và phát triển hoạt động văn học là một hình thức quan
trọng để phát triển tính tích cực cá nhân , tính độc lập , sáng tạo của trẻ . Các
cháu đến với những tác phẩm văn học , những nhân vật trong thơ , trong truyện
, với tất cả những tình cảm , những rung động ngọt ngào nhất , say mê nhất ,
đồng cảm nhất. Những tác phẩm văn học đã là một phần của cuộc sống gợi lên
cho trẻ những xúc cảm lành mạnh có ảnh hởng to lớn đến cuộc sống mai sau
của trẻ.
Trong năm học này, Ban giám hiệu nhà trờng phân công cho tôi giảng dạy
lớp Mẫu giáo 3- 4 tuổi. Là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy chơng trình
đổi mới hình thức tổ chức giáo dục Mầm non, mỗi năm đúc rút thêm cho bản
thân những kinh nghiệm trong giảng dạy và kiến thức mới trong chuyên môn,
điều đó đã nói lên bản thân có rất nhiều điều kiện thuận lợi nhng bên cạnh đó
vẫn còn nhiều khó khăn mà thực tế trong giảng dạy tôi vẫn còn nhiều băn
khoăn.
Về thuận lợi:
- Đợc sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trờng cũng nh
Phòng Giáo dục Thành phố Pleiku thờng xuyên quan tâm và coi trọng việc đầu
t về chuyên đề làm quen văn học và chữ viết. Nhà trờng đã đầu t phòng th viện
chung cho toàn trờng và chỉ đạo xây dựng góc th viện riêng ở các lớp. Việc
thực hiện cho trẻ tiếp cận với góc th viện ở lớp cũng nh lịch cho trẻ hoạt động
ở th viện trờng tơng đối đầy đủ và có hiệu quả. Đồ dùng, dụng cụ đặc biệt là
các loại tranh truyện, truyện chữ to, truyện tranh, thơ có tranh minh hoạ, các
bộ rối mang nội dung của các câu truyện, bài thơ rất đầy đủ và hấp dẫn trẻ.
- Đa số các cháu đã đợc học qua lớp Nhà trẻ nên việc phát âm , đọc thơ cũng
nh tiếp thu nội dung các câu truyện có phần dễ dàng hơn, trẻ đã biết đọc thơ
theo cô, kể lại truyện cùng cô và biết kết hợp các điệu bộ, nét mặt cử chỉ, sử
dụng nhịp điệu, giọng điệu để thể hiện các tác phẩm văn học đợc thuận lợi
hơn.
2
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
- Bản thân cũng có năng khiếu về giọng đọc, giọng kể, nắm vững vàng về yêu
cầu của việc đổi mới hình thức tổ chức giảng dạy trong chơng trình Mầm non.
Đặc biệt chuyên đề làm quen văn học và chữ viết đã đợc thể hiện thờng xuyên
trong giáo án, lên lớp một cách thuần thục.
Về khó khăn:
- Vẫn còn một số ít các cháu cha học qua các nhóm trẻ nên việc tiếp thu và sức
cảm thụ nghệ thuật về các tác phẩm văn học cha đợc đồng đều.
- Một vài cháu cha đủ độ tuổi, còn nói ngọng, phát âm cha rõ lời, lời nói cha
mạch lạc nên việc dạy trẻ đọc thuộc thơ và đọc thơ diễn cảm vẫn còn gặp
không ít khó khăn.
- Hiện nay có quá nhiều tài liệu hớng dẫn giảng dạy nên các phơng pháp lên
lớp thuần thục cũng nh việc sáng tạo trong giờ dạy vẫn cha xem là việc thống
nhất cao. Không có bài soạn mẫu, chủ yếu giáo viên tự mày mò sáng tạo là
chính.
Để tổ chức thực hiện tốt một giờ dạy làm quen văn học, tôi thờng quan tâm
đến việc nghiên cứu kỹ yêu cầu về đề tài của các chủ điểm đã đề ra trong chơng trình. Từ đó bản thân có một kế hoạch định hình cho bài soạn, đồng thời
chuẩn bị các phơng tiện, giáo cụ trực quan chủ yếu quan trọng, các kỹ năng
hoạt động trong giờ dạy.
Ví dụ : ở chủ điểm 2: Bản thân
- Yêu cầu đợc đặt ra là giúp trẻ hiểu biết về họ, tên, tuổi, sở thích, khả năng
của bản thân. Các bộ phận cơ thể. Biết địa chỉ , nơi ở, tên các thành viên trong
gia đình. Biết nhà là nơi gia đình sống, biết tên công cụ, chất liệu của một số
đồ dùng gia đình. Miêu tả bản thân và ngời thân, các đồ dùng phục vụ cho bản
thân thông qua hoạt động hát, đọc thơ, kể chuyện...Giúp trẻ giao tiếp ứng xử
phù hợp của bản thân với bạn bè, lớp học, với cô giáo và truyền thống gia
đình. trẻ đợc đọc thơ, kể chuyện đóng kịch những tác phẩm văn học về bạn bè,
cô giáo và gia đình có nội dung về sự yêu thơng, chia sẽ với bạn bè, với các
thành viên trong gia đình, kính trọng ngời trên, nhờng nhịn em bé, bạn bè...;
Biểu lộ đợc cảm xúc gần gũi, thân thơng về tình cảm ấm áp của bạn bè với
nhau, với sự vỗ về của cô giáo, với tình thân gia đình.
- Với tác phẩm văn học có đề tài là thơ Đôi mắt của em, Cái lỡi. Tôi đã
xây dựng lồng ghép các nội dung tích hợp cho tiết học này có cả về âm nhạc,
làm quen môi trờng xung quanh.
* Nhờ lời diễn giải về tác phẩm của cô giáo, trẻ hiểu đợc rằng cơ thể mình đợc
mẹ sinh ra, đợc sự chăm sóc nuôi nấng và lớn lên từ bàn tay cha mẹ nên trẻ
phải biết giữ gìn và bảo vệ thân thể, biết yêu thơng cha mẹ và mọi ngời trong
gia đình, tôi đã lồng ghép với các môn học nh Giáo dục âm nhạc, làm quen
môi trờng xung quanh:
+ Tích hợp môn âm nhạc: Bàn tay mẹ, Ngọn nến lung linh
- Ngoài ra tôi còn chọn nội dung tích hợp với môn học khác nh làm quen môi
trờng xung quanh nói về tình cảm gia đình, tình cảm của cha mẹ dành cho con
cái và con cái thì phải chăm ngoan nghe lời cha mẹ. Mọi ngời trong gia đình
phải biết quan tâm yêu thơng lẫn nhau...
3
Trần Thị Thanh Tân – Mầm non 3/2, Pleiku
- Bªn c¹nh ®ã kh«ng thĨ thiÕu phÇn chn bÞ vỊ ®å dïng trùc quan, c¸c ph¬ng
tiƯn d¹y häc hç trỵ cho tiÕt d¹y nh:
+ §µn Organ.
+ Tranh vÏ vỊ c¬ thĨ trỴ, c¸c gi¸c quan trªn c¬ thĨ vµ sù ch¨m sãc cđa mĐ
®èi víi con c¸i.
T«i ®· chn bÞ kh¸ chu ®¸o vµ lªn líp tù tin, m¹nh d¹n, ®i ®óng tr×nh tù
c¸c bíc, trun thơ ®óng kiÕn thøc, ®óng träng t©m vµ cßn cã c¶ kiÕn thøc më
réng phï hỵp víi ®Ị tµi, víi ch¬ng tr×nh nhng kÕt qu¶ ®em l¹i kh«ng cao, chØ
kho¶ng 55% - 60% ch¸u hiĨu bµi vµ tham gia vµo ho¹t ®éng nghƯ tht ®¹t
yªu cÇu giê d¹y, sè ch¸u cßn l¹i thiÕu linh ho¹t, cßn ë t thÕ bÞ ®éng, líp häc cã
vỴ trÇm, bn .VỊ b¶n th©n cßn thÊy thiÕu sù s«i nỉi vµ høng thó vµ kh«ng
tr¸nh khái sù b¨n kho¨n th¾c m¾c: Lµm thÕ nµo ®Ĩ khi xong mét tiÕt d¹y c¶m
thÊy tho¶i m¸i vµ nhĐ nhµng, l«i cn ®ỵc tÊt c¶ trỴ cïng tham gia theo h×nh
thøc ®ỉi míi lµ “ trỴ chđ ®éng” ; “ c« tung ch¸u høng” vµ m×nh lµm g× ®Ĩ tỉ
chøc mét giê lµm quen v¨n häc ®óng víi yªu cÇu ®ỉi míi vµ phï hỵp kh¶
n¨ng cđa mét gi¸o viªn ë thêi kú ®ỉi míi nµy.
II. Nh÷ng biƯn ph¸p gi¶i qut vÊn ®Ị:
Đổi mới phương pháp lên lớp và nâng cao chất lượng giảng dạy là điều
mà bản thân tôi luôn trăn trở suy nghó nhất trong quá trình công tác.
Tõ nh÷ng b¨n kho¨n, tr¨n trë vµ tõ nh÷ng kÕt qu¶ ®¹t ®ỵc vµ cha ®¹t ®ỵc ®·
nãi ë trªn t«i còng ®· t×m ra cho m×nh mét sè gi¶i ph¸p cã kh¶ n¨ng phï hỵp
®Ĩ kh¾c phơc khã kh¨n nh sau:
- TiÕp tơc nghiªn cøu kü c¸c tµi liƯu cã liªn quan lµm quen v¨n häc vµ ch÷
viÕt ë ch¬ng tr×nh MÇm non c¶ 3 ®é ti, tµi liƯu híng dÉn ®ỉi míi, mét sè tËp
san, t¹p chÝ cđa c¸c nhµ chuyªn m«n, vơ Gi¸o dơc MÇm non vµ Khoa ®Çu
ngµnh ( Khoa gi¸o dơc MÇm non - §¹i häc S ph¹m Hµ néi)
- Tµi liƯu båi dìng thêng xuyªn...
Tuy nhiªn, kh«ng thĨ bçng dng mµ h×nh tỵng v¨n häc l¹i trë nªn phï hỵp
víi ®Ỉc ®iĨm t duy cđa trỴ, ®iỊu ®ã phơ thc rÊt nhiỊu vµo ngêi ®em v¨n häc
®Õn cho trỴ em, ®ã chÝnh lµ c« gi¸o. C« gi¸o ph¶i lµ ngêi cã giäng ph¸t ©m
chÝnh x¸c, cã kh¶ n¨ng ®äc th¬, ng©m th¬ , kh¶ n¨ng vỊ ©m nh¹c, vỊ kĨ trun
diƠn c¶m, biĨu hiƯn ®óng s¾c th¸i, ng÷ ®iƯu, nhÞp ®iƯu, giäng ®iƯu cđa ng«n
ng÷ th¬ ca vµ trun ®Ĩ trun ®¹t tíi trỴ. TrỴ ®äc th¬ chÝnh x¸c c¸c tõ , c¸c
c©u râ, ®óng dÇn tíi m¹ch l¹c. BiÕt phèi hỵp kĨ trun cïng c«, kĨ nèi tiÕp víi
b¹n, kĨ trun tõ tõng ®o¹n ®Õn mét phÇn c©u trun vµ c¶ c©u trun.
Nh ®· nãi ë phÇn khã kh¨n: Do mét sè ch¸u cha häc qua líp nhµ trỴ nªn
kh¶ n¨ng tiÕp thu vµ c¶m thơ vỊ c¸c t¸c phÈm v¨n häc kh«ng ®ång ®Ịu, v× thÕ
mµ ®iỊu t«i quan t©m lµ ë c¸c ch¸u nµy.( Theo nh ®Ỉc ®iĨm t©m lý cđa trỴ em
th× cã thĨ trỴ cha quen víi h×nh thøc ho¹t ®éng tËp thĨ, v× thÕ mµ trỴ cßn nhót
nh¸t, rơt rÌ, thiÕu tù tin hc sù chó ý cã chđ ®Þnh cđa trỴ cßn thÊp...) §Ĩ tr¸nh
nh÷ng trêng hỵp trỴ kh«ng mn tham gia vµo ®äc th¬ hc ®äc sai, kh«ng
nhí râ néi dung trun, tªn trun vµ tªn c¸c nh©n vËt trong trun t«i thêng
xuyªn xÕp xen kỴ nh÷ng trỴ nµy víi trỴ hiÕu ®éng, tÝch cùc vµ linh ho¹t ®Ĩ trỴ
cã ®iỊu kiƯn hßa nhËp vµo ho¹t ®éng tËp thĨ h¬n.
4
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
Song song với việc dạy trẻ đọc thuộc thơ diễn cảm, dạy trẻ nắm đợc cốt
truyện thì giáo viên phải tạo không khí văn chơng ở lớp học phù hợp với nội
dung của bài thơ hay câu truyện, trang trí lớp và có cả trang phục của cô để
giúp cô và trẻ hóa thân vào nhân vật và sống trong hoàn cảnh cụ thể của tác
phẩm.
Cô giáo phải là ngời biết sử dụng các loại dụng cụ âm nhạc nh: Đàn Organ,
các dụng cụ gõ đệm phát ra âm thanh vì trong lúc cho trẻ làm quen tác phẩm
văn học là truyện thì cần có các nhạc cụ này để làm tiếng chim hót, suối chảy,
cây cối xào xạc và các tiếng động để đa trẻ đến gần với hoàn cảnh của tác
phẩm hơn.
Giáo viên còn là ngời sử dụng các rối linh hoạt, phù hợp vì những câu
truyện trong chơng trình Mẫu giáo thờng có nội dung gần gũi với cuộc sống
thực tế của trẻ. Thờng gắn để giáo dục trẻ những hành vi văn hóa đơn giản,
những ớc mơ hoài bảo, những tấm gơng tốt, dũng cảm, đoàn kết biết giúp đỡ,
tính hiếu thảo, chăm chỉ, hiền lành...; Và thờng đợc mợn hình ảnh của các con
vật thân thơng gần gũi trẻ nh: Cóc, hơu, nai, rùa, thỏ... đại diện cho phái nhân
vật hiền lành. Còn những con vật nh: Cọp, hổ, báo, sói... đại diện cho phái
nhân vật ác, nép dới tên các con vật hung dữ. Mặc dù các con vật đợc nhân
cách hóa những vẫn mang tính rất là động vật.
Chính vì thế mà khi lựa chọn đồ dùng là rối, cô nên lựa chọn con rối phù
hợp với đặc điểm, tính cách của các nhân vật trong tác phẩm và sử dụng thật
phù hợp.
ở đây, cô giáo phải làm cho những hình tợng ấy trở nên sống động trớc mặt
trẻ có thể hình dung và cảm nhận đợc toàn bộ nội dung câu truyện, cảm nhận
đợc những khung cảnh, những sự kiện phẩm chất, tính cách của các nhân vật
trong truyện. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào quá trình kể truyện cho trẻ
nghe, giúp trẻ thâm nhập vào tác phẩm một cách sâu sắc qua sự thể hiện của
cô giáo. Cách sử dụng ngữ điệu, độ âm vang của giọng ngng, nghỉ, nét mặt, cử
chỉ...
* Ví dụ: ở chủ điểm : Gia đình với câu truyện Cô bé quàng khăn đỏ
+ Đồ dùng: Tạo môi trờng văn học: Mô hình khu rừng và sân khấu với
5 nhân vật (rối): Mẹ cô bé, cô bé quàng khăn đỏ, 1 chú Sói, 1 chú Sóc, 1 ngôi
nhà và 1 bác hàng xóm.
+ Mở đầu là cô dạo một đoạn nhạc kèm theo tiếng chim hót , tiếng suối
chảy và có tiếng của cô: Là la lá la là ... (Cô bé vừa đi vừa hát) Cô bắt đầu :
Một ngày mới bắt đầu, bình minh toả sáng, bầu trời trong xanh và Cô bé
quàng khăn đỏ đợc mẹ giao cho 1 công việc là đa bánh sang biếu bà ngoại, nhng rồi để biết đợc cô bé quàng khăn đỏ có nghe lời mẹ dặn không? điều gì đã
xảy ra với cô bé? Các con muốn biết không nào?
+ Cô bắt đầu kể truyện diễn cảm. Cô kể bằng lời kèm cả cử chỉ minh họa,
giọng của mẹ cô bé nhẹ nhàng, dịu dàng, chậm rãi ở các câu: con đi thì đi đờng thẳng, đến những đoạn đối thoại giữa chó sói và cô bé, giọng cô bé trong
trẻo, thể hiện sự hồn nhiên, nghi ngờ: Bà ơi mẹ cháu bảo mang bánh sang
biếu bà; bà ơi sao hôm nay tai bà dài thế?; sao hôm nay mắt bà to thế?; giọng
5
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
của Sói ồm ồm, chậm rãi: Thế à, bà cảm ơn cháu; tai bà dài để bà nghe cho
rõ, mắt bà to để bà nhìn cháu cho rõ...; ngoài cách kể truyện diễn cảm của cô,
cô dùng thêm các tiếng trống, mỏ ở trong đàn làm tiếng động để phụ họa thêm
cho các phần nhằm mục đích tạo sự hấp dẫn hứng thú, lôi cuốn trẻ tập trung
chú ý vào cô, ghi nhớ và hiểu đợc nội dung truyện, tính cách của nhân vật, bắt
chớc giọng kể diễn cảm của cô ở ngữ điệu, giọng điệu, cách ngng, nghỉ, cử
chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với từng tính cách của nhân vật.
Khi cô kể truyện sử dụng mô hình và con rối, cô cũng vừa kể vừa sử dụng
rối nhng các lần xuất hiện rối cũng là lúc mà lời kể của cô bắt đầu phù hợp
với nội dung miêu tả nhân vật .
+ Ví dụ: ở đoạn: Cô bé gặp chó Sói ở trong rừng thì điều khiển rối cô bé
với tính cách nhẹ nhàng vừa có chút sợ hãi kèm giọng kể nhẹ, trong nhng hơi
yếu. Sói lúc này cũng đang đợc điều khiển nhẹ nhàng kèm lời kể hỏi han cặn
kể đầy vẻ toan tính trong đầu kèm cử chỉ nét mặt. Ngợc lại đoạn kể đến câu
mồm bà to để bà ăn thịt cháu đấy kể với giọng hùng hồn, to tát nhng khi
đến đoạn xuất hiện của bác hàng xóm thì điều khiển rối nhanh, mạnh hơn
nhằm lột tả đợc vẽ dũng cảm của bác hàng xóm. Những lời kể cuối là những gì
mà cô giáo muốn đem đến cho trẻ nhất trong suốt cả câu truyện đó là vì cô bé
không nghe lời mẹ; may nhờ có bác hàng xóm tốt bụng và dũng cảm; nếu
nghe lời mẹ thì cô bé đã không xảy ra chuyện gì; và từ đó trở đi, cô bé quàng
khăn đỏ không bao giờ làm sai lời mẹ dặn. Lúc này nhân vật cô bé nh thẹn
thùng, hối cãi, có vẻ nh khép mình nhận lỗi... Nh thế sẽ diễn ra trớc mắt trẻ
một bức tranh trong đó có sự vị tha của những ngời lớn xung quanh trẻ, có sự
thẹn thùng ăn năn, nhận lỗi kèm theo những chi tiết có hình tợng của 1 cuộc
cãi vả, một cuộc chiến mà điều mong đợi của trẻ có lẽ trở thành hiện thực đó
là mong cho cô bé không bị Sói ăn thịt, mong cho bác hàng xóm thắng chó
Sói và cứu đợc cô bé quàng khăn đỏ.
Cũng bằng những biện pháp kể diễn cảm, cô lựa chọn lời kể ngắn gọn, súc
tích tác động đến tình cảm, thẩm mĩ sẽ giúp cho quá trình tiếp nhận của trẻ đợc tốt hơn. Trẻ có thể kể lại truyện bằng ngôn ngữ của trẻ chứ không phụ
thuộc hoàn toàn vào ngôn ngữ của câu truyện. Với lời kể diễn cảm và sinh
động có phần trong và vang của cô đã làm cho câu truyện nh có hồn, cô làm
sống động trớc mắt trẻ những hình ảnh, những quang cảnh của câu truyện nh
đang diễn ra trớc mắt trẻ.
* Ví dụ: ở câu truyện Ba cô tiên chủ điểm Gia đình, khi kể truyện Ba
cô tiên với giọng kể diễn cảm dí dỏm và lỗi kể nh tự sự hay giải thích: cậu
bé Tí Hon chỉ bằng ngón tay cái mọi ngời mà thôi, nhng Tí Hon rất yêu thơng
cha mẹ; chăn trâu thay cha mẹ (cha mẹ phải đi chăn trâu cho địa chủ). Giọng
kể đầy vẻ ngạc nhiên: Sao Tí Hon không ăn?; Giọng kể kèm cử chỉ, thái độ
lạ lùng, ngạc nhiên hiện lên trên nét mặt của Tí Hon và cha mẹ ở các câu: ồ
nhà ai đẹp thế? Ruộng ai tốt thế? áo quần ai nhiều thế?.
6
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
+ Đoạn Tí Hon đi khỏi, cô tiên áo đỏ vẽ 1 cái nhà xinh đẹp... Cô kể với
giọng chậm, ngắt giọng sau mỗi câu kể về hành động của mỗi cô tiên. ở đây
cô cần chú ý nhấn vào các chi tiết Vẽ xong tất cả hoá thành thật.
Đúng vậy, lúc này đây trớc mắt trẻ là cả một quang cảnh ruộng vờn, nhà
cửa..., thấy đợc 1 cô tiên áo đỏ, 1 cô tiên áo xanh, 1 cô tiên áo vàng lộng lẫy bớc từ trong nhà đi ra chào bố mẹ Tí Hon. Còn nữa, 1 Tí Hon ngày nào thật bé
tí chỉ bằng ngón tay cái mopị ngời ngồi trên sừng trâu bây giờ đã trở thành 1
chàng trai cao to lực lỡng đầy nghị lực làm việc rất chăm chỉ, khéo léo. Tí
Hon bây giờ thì đã lớn rồi. Nh đã nói ở trên về ngữ điệu, giọng kể kèm thái
độ, cử chỉ và điệu bộ của cô, điều mong đợi của trẻ đã đến, trẻ sẽ thở phào nhẹ
nhỏm rằng Tí Hon không bé, bạn đã giúp đỡ đợc bố mẹ, bố mẹ Tí Hon không
khổ nữa vì đã có nhà cửa đẹp, ruộng vờn tốt, quần áo đẹp cả đứa con bé tí năm
nào bây giờ đã là 1 chàng trai cao to và khoẻ mạnh. Qua ngữ điệu, cử chỉ kèm
theo âm thanh phụ họa của cô mang đến cho trẻ một quang cảnh núi non, sông
nớc và cuộc chuyện trò đầy cảm động càng giúp trẻ gợi cảm và càng khơi
mạnh sức tởng tợng của trẻ hơn. Điều này cũng cho thấy rằng việc cô sáng tạo
trong ngôn ngữ kèm âm thanh minh hoạ giúp trẻ phát triển trí tởng tợng, phát
triển vốn từ . Trẻ không chỉ có khả năng nói đợc các câu đủ thành phần, đúng
ngữ pháp mà còn có khả năng nói đợc những câu nói giàu sắc thái biểu cảm.
Hay hơn, ý nghĩa hơn và đẹp hơn đó là cô đã kích thích ở trẻ niềm say mê
sáng tạo nghệ thuật đầy ớc mơ: Giá nh mình là cô tiên áo đỏ, giá nh mình là
cô tiên áo xanh thì mình sẽ..., giá nh và giá nh..., và không chỉ lúc này mà cả
khi tan học trẻ muốn đợc làm một điều gì đó nh các cô tiên để giúp bố mẹ, liệu
trẻ có muốn mình nhỏ bé nh Tí Hon không? có! và hơn hết đó là sự hoá thân
vào câu truyện, sự cảm nhận và muốn đợc bắt chớc đầy ngây ngô của trẻ.
Tuy nhiên với mỗi đề tài, mỗi câu truyện lại có cách lựa chọn về đồ dùng
trực quan, đồ dùng dạy học và chất giọng lại khác nhau. Với các câu truyện cổ
tích thần kì nh Tấm cám thì lời kể mở đầu phải là Ngày xửa, ngày xa....
Lời kể mở đầu này cô không nên để lộ chất giọng hàng ngày ở lớp của cô
giáo. Không để trẻ dễ dàng nhận ra giọng cô hàng ngày, vì đó là lời của quá
khứ vọng về. Giọng cô phải hạ xuống, trầm ấm xa xôi, kể chậm rãi nh đang
chuẩn bị vào câu truyện sắp kể. Với câu truyện Tấm cám tôi đã sử dụng lần
một kể diễn cảm với biện pháp Kể truyện trên nền nhạc nhẹ ( Nhạc nhẹ,
trầm có vẻ buồn, không sôi nổi, không mạnh mẽ) . Biện pháp này làm cho câu
truyện nh huyền bí và lôi cuốn ngời nghe hơn. Thực tế biện pháp này trẻ rất
hứng thú, tập trung chú ý và bản thân tôi lên lớp cũng cảm thấy bình tỉnh tự tin
và thao tác rất thuận lợi.
Lúc nào cũng vậy, với phơng pháp và trình tự cho trẻ làm quen văn học nh
đang hiện hành, sau khi giảng giải nội dung tác phẩm ở lần 1, cô bắt đầu vào
đọc thơ hoặc kể lần 2. Nếu chọn đồ dùng trực quan minh họa không phải rối
mà là tranh thì cô đặt (hoặc treo) tranh lên phía trớc để trẻ cùng nhìn rõ. ở
phần này tôi thờng chú ý đến mặt ngôn ngữ và hình thể của cô giáo, nó hỗ trợ,
bổ sung làm sâu sắc hơn, sống dậy hình tợng của tác phẩm, ánh mắt cử chỉ nét
mặt, điệu bộ khi trình bày tác phẩm giúp trẻ cảm nhận bằng trực giác. Còn đồ
7
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
dùng trực quan ( tranh minh họa) cũng là một phơng tiện rất thực tế và sinh
động. Việc sử dụng tốt sẽ gây đợc hứng thú tạo tình huống, cũng cố những
kiến thức, biểu tợng, khắc sâu ấn tợng nghệ thuật. Ví dụ tác phẩm là truyện thì
cô có thể sáng tạo truyện bằng cách kể và chỉ tranh để đảm bảo nội dung cho
trẻ. Cách chỉ tranh của cô cũng hết sức quan trọng. Bởi nó tăng tính tò mò và
chính xác hóa biểu tợng cần cung cấp cho trẻ. Lời kể lúc này cần diễn cảm và
khớp với nội dung tranh, cảm giác lúc này cô nh vừa là nhà s phạm, vừa là một
nghệ sỹ.
Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là thơ, đối với trẻ Mầm non cha
tự mình đọc thơ nên sự cảm thụ trông chờ vào cô giáo. Mỗi lần soạn bài gặp
đề tài là thơ tôi thờng xác định tác phẩm ở loại thể thơ gì? Vì thơ có đặc trng
riêng, ngôn ngữ của thơ hàm súc, âm hởng và vẻ đẹp của thơ không chỉ do
nhạc điệu, nhịp điệu mà còn cả vần điệu, nối các câu thơ với nhau. Tôi thờng
có quan niệm trong thơ có nhạc, nhạc trong thơ thể hiện một quan niệm về
một dãy âm thanh đẹp, đầy cảm xúc, đầy du dơng hài hòa ngân vang. Thơ ca
còn là tinh hoa của ngôn ngữ, là kết tinh vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ. Biết bao điều
của cuộc sống đợc diễn đạt trong thơ một cách uyển chuyển, giàu nhạc điệu,
giàu hình ảnh làm nảy sinh trong lòng ngời đọc những tình cảm thiết tha với
cuộc đời. Các tác phẩm là thơ cho trẻ mẫu giáo đều mang nội dung về những ớc mơ trong sáng về tơng lai, những vần thơ hay không chỉ gieo tiếng nói dân
tộc vào lòng trẻ thơ mà còn ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam, thiên nhiên
Việt Nam. Chính vì thế mà sau cuối tiết học tôi thờng ngâm lại bài thơ cho trẻ
nghe. Hiện nay, thơ đợc viết cho trẻ em rất nhiều vẫn là thể thơ lục bát, thơ lục
bát thể hiện rõ nhất nét nhạc ấy. Lục bát có sức mạnh ở cái hồn trong thơ, âm
điệu ngọt ngào, là loại thơ mang tính chất ru rõ nét nhất. Cho trẻ tiếp xúc
với thơ ca là việc hoàn toàn đúng và không thể thiếu trong chơng trình nhng
dạy thơ nh thế nào để phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ nhỏ bây giờ là
vấn đề mà bản thân tôi luôn suy nghĩ và tìm cách bắt đầu từ lúc soạn giáo án,
chuẩn bị giáo cụ trực quan cho đến khi lên lớp.
* Ví dụ: Bài thơ: Em yêu nhà em( Sáng tác của nhà thơ Đoàn Thị Lam
Luyến)
+ Mở đầu là một mô hình nhà xinh xắn và có ngôi nhà, bên cạnh có ao
muống nhỏ, phía trớc sân có đàn gà đang mổ thức ăn, vài cây chuối, cây bắp
đợc đặt ở từng vị trí khác nhau. Cô cháu vừa đi tham quan mô hình nhà, lúc
này có giai điệu của bản nhạc Nhà của tôi nhng trẻ không hát mà chỉ nghe
giai điệu kết hợp quan sát nhà với sự diễn giải của cô giáo và cô cùng trẻ trò
chuyện về nhà.
+ Với bài thơ này, biện pháp dùng rối là không thích hợp, dùng tranh minh
họa cũng không có ấn tợng gì mà cô đọc thơ diễn cảm trên nền nhạc cho trẻ
nghe( Cô dạo nhạc nhẹ, không nhất thiết phải theo giai điệu bài hát nào, mà cô
dạo nhạc tự do lúc trầm lúc bỗng phù hợp với khung cảnh thơ là đợc.)
ở lứa tuổi này do tiếp xúc nhiều với môi trờng xung quanh nên vốn từ của trẻ
đã đợc tăng, cảm xúc về ngôn ngữ và năng lực biểu cảm lại ngôn ngữ cũng đợc
phát triển. Những mối quan hệ giữa con ngời với nhau, những thái độ thân
8
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
thiện giữa con ngời với thiên nhiên đều là nội dung phong phú bồi bổ cho đời
sống tinh thần của các cháu nhỏ.
* Ví dụ bài thơ: Rong và cá (Sáng tác: Phạm Hổ)
+ Đồ dùng trực quan của tôi tiết này nhất định sẽ là 1 bể cá trong đó có vài
cây rong, dăm ba con cá cảnh nhỏ. Vào đầu bài là 1 đoạn nhạc dạo bài Cá
vàng bơi cho trẻ hát, cô hỏi:
+ Cá vàng bơi ở đâu các con?
+ Thế trong hồ cá vàng còn làm bạn với ai nữa?
+ Để khám phá về những ngời bạn nhỏ trong thiên nhiên quanh chúng ta,
hôm nay cô sẽ dạy các con đọc thơ về rong và cá nhé !
Nh đã nói ở trên, những vẻ đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc sống con ngời giúp trẻ có cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm hồn nhiên trong sáng đối với thế
giới xung quanh, nhạy cảm trớc cái đẹp của thiên nhiên trẻ lại liên tởng tới vẻ
đẹp cao cả của con ngời với nhau, của sự đoàn kết về tình bạn bao la ví nh bầu
và bí vậy, do đó trẻ rất dễ tiếp nhận điều hay lẽ phải. Ví dụ những câu thơ về
cô rong xanh:
Đẹp nh tơ lụa
Giữa hồ nớc trong
Trong hồ còn có một đàn cá nhỏ nhng cuộc sống của họ vẫn tiếp diễn
vui vẻ thân thiện hàng ngày không có gì xảy ra:
Một đàn cá nhỏ
Đuôi đỏ nhuộm hồng
Quanh cô rong đẹp
Múa làm văn công
ở những bài thơ dạng tứ tuyệt này, tất nhiên là tôi thờng tự phổ nhạc để dạy
trẻ hát về bài thơ. Dạng nhạc đối với những bài thơ này yêu cầu không cần đủ
chi tiết câu chữ, không nhất thiết với kiểu ngắt nghỉ ở tính thơ trong bài thơ,
có thể thêm bớt một vài từ cho phù hợp miễn hợp tính nhạc nhằm mục đích
lồng ghép nhẹ nhàng giúp trẻ hiểu nội dung bài thơ, tăng sự hứng thú của trẻ
trong tiết học, mặt khác phát triển tính tích cực và khả năng tái hiện lại những
gì vừa đợc học từ thơ:
Ví dụ: Có cô rong xanh, đẹp nh tơ lụa, giữa hồ nớc trong. Một đàn cá nhỏ
đuôi đỏ nhuộm hồng, đang cùng cô rong múa làm văn công. Ai yêu cô rong
xanh nh con cá vàng.
Tuy chỉ có vài câu hát nh vậy nhng thực tế trong quá trình soạn bài và lên tiết,
phơng pháp sáng tạo này tuy nhỏ bé nhng tôi thấy rất thích và thực sự mang lại
hiệu quả vừa cho bản thân cảm thấy tự tin trong truyền thụ kiến thức vừa cảm
thấy tiết dạy xôm tụ, hấp dẫn và hứng thú với trẻ, tránh đợc tính đơn điệu
trong tiết dạy rất nhiều.
Nh chúng ta đã biết, thơ ca mẫu giáo góp một phần lớn vào sự phát triển trí
tởng tợng cho trẻ. Sự phản ánh hiện thực của thơ ca vừa thực lại vừa h, điều đó
càng làm cho trẻ phát triển mạnh mẽ trí tởng tợng.
* Ví dụ: ở bài thơ Thỏ con và mặt trăng (Sáng tác: Phạm Hổ)
9
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
+ Trong bài thơ này, dĩ nhiên trẻ sẽ không hiểu đợc vì sao lại khi thỏ chạy
trăng cũng chạy và vì sao khi thỏ đứng trăng lại dừng? Có phải trăng cũng có
chân giống mình?... , trẻ sẽ lạ lùng khó hiểu, có trẻ mạnh dạn thì hỏi cô: Cô
ơi vì sao trăng lại đi đợc? Vì sao trăng lại đứng đợc, trăng có chân giống ngời
không?...; thế nhng có trẻ nhút nhát chẳng giám hỏi cô mà chỉ thủ thỉ thắc
mắc với bạn ngồi cạnh mà thôi. Gặp tình huống này cô giáo cần làm gì?
+ ở đây tôi lại quay về phần trên đó là diễn giải nội dung, giải thích từ khó
là điều cần làm cho dù lời giải thích của cô giáo cha thật thoả mãn tính tò mò,
hiếu kỳ của trẻ:
"à, vì trăng quá yêu thỏ con đó mà, thỏ đứng ở mặt đất còn trăng ở trên
trời cũng có thể nói chuyện với nhau đợc đó, khi trái đất xoay thì làm
cho thỏ con tởng rằng trăng cũng có chân đi đợc nh mình vậy, thực ra
trăng không có chân nh ngời đâu các con. Lớn lên các con sẽ hiểu điều
này hơn nhé !
+ Trong bài thơ này thực tế tác giả đã sử dụng một chút nghệ thuật nhân
cách hoá và bản thân tôi nghĩ rằng nhiệm vụ của mình cần phải đem đến cho
trẻ hiểu đợc đó là sự kết hợp giữa tình yêu thơng với trí tởng tợng và đó chính
là đặc điểm tâm lý nổi bật của trẻ nhỏ. Sự vật xung quanh trong con mắt của
trẻ thơ bao giờ cũng có hồn, nhuốm màu xúc cảm và bay bổng đến diệu kỳ.
Bằng sức tởng tợng, nội dung bài thơ còn còn giúp trẻ có một tâm hồn đầy ớc
mơ, sớm hình thành những tiền đề của hoạt động sáng tạo, hình dung ra những
cái sẽ có và mong muốn làm nên những điều tốt lành.
+ Đối với bài thơ này, sự chuẩn bị một vài bức tranh đẹp của các hoạ sĩ
hay của cô su tầm trên báo, lịch phù hợp với nội dung bài thơ là cần thiết. Vì
thờng cuối giờ tôi sẽ tổ chức cho trẻ thể hiện khả năng tạo hình đó là vẽ. Trẻ sẽ
có cơ hội tái tạo lại những hình ảnh biểu hiện xúc cảm của mình đối với con
ngời, thiên nhiên và cảnh vật hoặc những gì trẻ cảm nhận đợc ở bài thơ theo
cách cảm, cách nghĩ, theo trí tởng tợng của mình. Sau khi trẻ vẽ theo xúc cảm
và sự hình dung chân thực của mình về bài thơ, tôi thờng cho trẻ xem một vài
bức tranh (nh đã nói ở trên, phần chuẩn bị ) để trẻ có sự so sánh thật ngây ngô:
ai vẽ đẹp hơn, tiếp tục cô chọn một số tranh trẻ vừa vẽ có phần tiêu biểu và
hỏi trẻ là đã vẽ gì? con có ớc mơ gì nh trong bức tranh? Có phải bạn nhỏ này
là con không? tại sao không ở dới mặt đất mà ở gần trăng nh thế này?...
+ Thực tế có trẻ sẽ nói: Con thích lên chơi với ông trăng, thậm chí là
con đã lên chơi với trăng rồi...!. Nh vậy cần làm gì để chắp cánh cho ớc mơ
trong tởng tợng của trẻ đây? và tôi lại nói: Con phải chăm ngoan vâng lời cô
giáo và cha mẹ, học giỏi ngay từ bây giờ sau này lớn lên con sẽ đợc bay vào vũ
trụ và chơpi đừa với ông trăng. (Thực tế có rất nhiều ngời đã lên mặt trăng,
điều này không có gì là lạ nên tôi có thể giúp trẻ thoả mãn ớc mơ trong tởng tợng của mình). Tất cả những cách làm này cuối cùng nhằm mục đích giúp trẻ
cảm nhận và hiểu nội dung bài thơ, mặt khác càng làm cho trẻ có tình cảm
thân thiện với mọi sự vật, hiện tợng xung quanh hơn.
Nh đã nói ở phần trên, lứa tuổi này do tiếp xúc nhiều vói môi trờng xung
quanh nên vốn từ của trẻ đã đợc tăng. Cảm xúc về ngôn ngữ và năng lực biểu
10
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
cảm lại ngôn ngữ cũng đợc phát triển. Chính vì vậy, mà khi đọc thơ trẻ đã
phần nào nắm đợc giọng điệu của bài thơ, đã biết cách ngng nghỉ để thể hiện
bài thơ một cách diễn cảm nhất.
* Ví dụ: ở bài thơ Cô giáo của em
+ Trẻ đọc các câu Cô giáo của em" (có thể ngừng một lát) - hay cời (nghỉ biểu cảm thái độ 1 chút) - hay nói / hay kể chuyện vui
+ Hoặc các câu thơ đọc với vẻ biểu lộ cảm xúc nh: Chúng em quấn quýt/
bên cô suốt ngày / bố mẹ rảnh tay/ yên tâm công tác
+ Hay ở bài thơ Chiếc cầu mới (Sáng tác: Thái Hoàng Linh); các câu thơ
khi đọc trẻ có thể ngng, nghỉ, ngắt giọng kèm biểu lộ thái độ kính trọng, thầm
thể hiện cảm xúc về lòng biết ơn: Tấm tắc / khen tài/ công nhân xây dựng
Bằng những sác thái tình cảm, cảm xúc của ngôn ngữ, nhân vật trong tác
phẩm , cô giáo sẽ tác động đến nhu cầu tình cảm của trẻ, gây hấp dẫn lôi cuốn
trẻ, có nh vậy thì mới có thể kích thích đợc khả năng, chú ý ghi nhớ có chủ
định của trẻ. ( Ghi nhớ bài thơ, nhân vật và hình ảnh, hình tợng trong thơ)
Việc dạy trẻ đọc thơ diễn cảm, ngoài đọc đúng tức là phát âm rõ, hiểu đợc
từ mới, cụm từ khó ( qua sự giảng giải của cô) còn có đọc hay. Dạy trẻ biết
cách đọc thể hiện chất giọng phù hợp với nội dung câu thơ, đoạn thơ, biết bao
quát và theo dõi ngời nghe hớng vào mình để tăng thêm sức truyền cảm.
* Ví dụ: ở bài thơ ảnh Bác (của nhà thơ Trần Đăng Khoa)
+ Mở đầu là hình ảnh Bé nói với ngời nghe rằng: Nhà em có treo một
bức ảnh Bác Hồ khi đọc câu thơ này nhà em treo ảnh Bác Hồ cô cần dạy
trẻ thể hiện sắc thái nét mặt, phải nhìn lớt qua ngời nghe, tiếp theo là đọc nh
kể với ngời nghe các hình ảnh trong thơ : Bên trên là lá cờ, ngoài sân có đàn
gà, ngoài vờn có bởi, có na... Khi đến đoạn : Em nghe nh Bác dạy lời...nhớ
ra hầm ngồi. Cần dạy trẻ vừa đọc vừa thể hiện cách lắng mình, lắng giọng
trầm hơn, thể hiện sự ghi nhớ, ghi sâu lời Bác dặn và lòng biết ơn của trẻ đối
với Bác Hồ kính yêu.
Có thể nói thơ là kho tàng tri thức về tình cảm, cuộc sống thiên nhiên,
những bài học kinh nghiệm làm ngời, sự say mê sáng tạo và còn có cả yêu
thích lao động, yêu thích các nhân vật trong thơ. Việc các tác giả sử dụng phép
nhân cách hóa trong thơ là một đặc điểm nổi bật đợc yêu thích của tâm hồn bé
thơ, chính vì lý do này mà khiến cho trẻ rất yêu thích về các bài thơ với nhiều
hình ảnh sống động hấp dẫn.
* Ví dụ: Bài thơ Mèo đi câu cá ( của Thái Hoàng Linh)
+ Cả bài thơ là sự cảm nhận lắng nghe nhịp điệu vui tơi thực tế gần gũi của
tác giả ở nông thôn, là một bức tranh sinh hoạt của làng quê Việt Nam. Câu
giới thiệu nhân vật chính là hai anh em Mèo trắng với động từ chỉ công việc
vác giỏ đi câu kết hợp các từ chỉ nơi chốn bờ ao, sông cái tôi dạy trẻ
với giọng dứt khoát, đỉnh đạc, qua đọc thơ cần cho trẻ thể hiện đợc sắc thái
vừa cảm nhận vừa biểu lộ rằng: sống phải lao động và cần có cái ăn, là
cá ẩn chứa một hình ảnh gần gũi.
+ Cả đoạn thơ sau chỉ việc đi câu cá nhng không gian, thời gian và trạng
thái cả hai anh em đều khác nhau, vì thế khi dạy trẻ đọc thơ cũng thể hiện sắc
11
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
thái, ngữ điệu phù hợp với nội dung đoạn thơ: Mèo anh: Hiu hiu, buồn ngủ
liền ngã lng ngủ một giấc và trong lòng đã có em. Còn Mèo em thì nhập bọn
vui chơi, nên ở đoạn này trẻ đọc với nét vui tơi, nhộn nhịp, phấn khởi và hớn
hở nhng vẫn cảm nhận đợc vì mê chơi nên đã ỉ lại vào anh.
+ Với hình ảnh hoàng hôn thì tâm trạng đọc với trẻ thất vọng, buồn trầm
và có chút hối hận vì ỉ vào nhau nên chiều đến chẳng có con cá nào.
Để tránh gò bó, gây mệt mỏi cho trẻ giờ làm quen văn học tôi thờng thay
đổi t thế cho trẻ ngồi theo hình cung hoặc lúc đứng, lúc quây quần bên cô,
luân phiên giúp trẻ luyện tập theo nhóm, cá nhân...( tất nhiên tránh sự lạm
dụng luân chuyển quá nhiều gây cho cháu thiếu sự tập trung, lúng túng mất tự
tin trong hoạt động)
Bên cạnh đó phải sáng tạo, linh hoạt tích hợp một cách khéo léo, nhẹ nhàng
các hoạt động môn khác vào giờ học.
* Ví dụ: Tích hợp âm nhạc qua dẫn dắt những hoạt động câu truyện : Ba cô
gái hoặc các bài thơ: vì con, Chú bộ đội hành quân trong ma
+ Tích hợp môn học làm quen môi trờng xung quanh:
+ Với các câu truyện Nhổ củ cải vào đầu câu truyện cô dẫn dắt vào tình
cảm gia đình, cha mẹ, anh em phải biết đoàn kết yêu thơng nhờng nhịn lẫn
nhau. Có sức mạnh đoàn kết thì việc gì cũng làm đợc nh củ cải to lớn vậy mà
có sức mạnh của ông, bà, bé, cún, mèo, chuột... thì cuối cùng cũng nhổ lên đợc
...
+ Tích hợp môn tạo hình: Trẻ tái tạo lại nhân vật hoặc hình ảnh trong thơ
trong truyện nh câu truyện Đôi bạn tốt vào cuối tiết học dẫn trẻ vào việc vẽ
lại các nhân vật, hình ảnh trong truyện nh: Gà mẹ, bạn gà con, bạn vịt con, vịt
mẹ, cáo, 1 cái hồ hình tròn hay hình vuông chẳng hạn...
Kết quả của giờ cho trẻ làm quen một tác phẩm văn học nào đó còn kể đến
biện pháp cô tổ chức đàm thoại với trẻ về tác phẩm. Hệ thống câu hỏi đặt ra
với trẻ là các dạng câu hỏi mang tính gợi mở, câu hỏi mang tính t duy, sáng
tạo và câu hỏi suy đoán có tính lô gíc.
* Ví dụ:
+ Cậu bé lên sáu tên là gì? cậu lớn bằng chừng nào?
+ Bỗng nhiên Tí Hon thấy gì từ bông hoa hồng?
+ Khi các cô tiên cho bánh kẹo tại sao Tí Hon không ăn?
+ Cô tiên áo đỏ vẽ gì?
+ Cô tiên áo xanh vẽ gì?
+ Ruộng lúa chín vàng do ai vẽ?
+ Các con học tập đợc đức tính gì ở Tí Hon?
Hoặc ví dụ ở truyện Cô bé quàng khăn đỏ
+ Vì sao mọi ngời gọi cô bé là cô bé quàng khăn đỏ?
+ Trớc khi đi mẹ cô bé dặn điều gì?
+ Trên đờng cô bé gặp ai?
+ Vì sao cô bé bị chó sói ăn thịt?
+ Ai đã cứu cô bé quàng khăn đỏ?
+ Nếu là con thì con làm gì khi mẹ dặn?
12
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
+ Các con đã nghe lời ông bà, bố mẹ cha?
Từ hệ thống các câu hỏi trên, mục đích chính của phần đàm thoại này là
giúp trẻ hiểu sâu tác phẩm, do đó tôi thờng chọn câu hỏi về những tình tiết
chính và xoáy vào các tình tiết đó. Ngoài các câu hỏi gợi mở tôi còn đặt các
câu hỏi buộc trẻ phải suy nghĩ, có nh vậy mới phát triển cho trẻ đợc tính t duy.
Thời gian gần đây trong cách đặt câu hỏi đàm thoại tùy vào từng tác
phẩm tôi có thay đổi cách đặt câu hỏi nh sau:
* Ví dụ: ở bài thơ Cái lỡi (Lê Thị Mỹ Phơng)
- Các con thấy cô đọc bài thơ này nhanh hay chậm? Cô đọc nh thế các
con thấy đã hay cha?
- Con thấy bài thơ Cái lỡi có hay không? Vì sao?
- Con thích nhất là khổ thơ nào? Khổ thơ đó nói lên điều gì ?
- Con thấy những việc cái lỡi trong thơ làm có giống cái lỡi của con
không?
Với kiểu đặt câu hỏi này có vẻ trẻ rất thích và hứng thú trả lời hơn, vì
theo tôi cách đặt câu hỏi này không bị lặp, không bị nhàm chán đối với trẻ và
kể cả cô so với cách đặt câu hỏi thông thờng:
- Cô vừa đọc bài thơ gì? Sáng tác của ai?
- Bài thơ có những ai? Nhân vật nào?...
Ngoài ra tôi còn sử sụng kiểu câu hỏi mang tính cũng cố và hệ thống:
* Ví dụ bài thơ Đôi mắt của em (Sáng tác: Lê Thị Mỹ Phơng)
Sau khi đã có các câu hỏi gợi mở, suy luận để trẻ nắm đợc nội dung
chính của bài thơ rồi cô dặt các câu hỏi :
- Các con thuộc những bài thơ nào của cô Lê Thị Mỹ Phơng?
+ Hoặc nếu là truyện :
- Các con còn biết những truyện cổ tích nào nữa?...
Kết quả của giờ làm quen văn học còn kể đến việc đa trẻ vào hoạt động văn
học nghệ thuật - tức là dạy trẻ thể hiện lại tác phẩm bằng ngôn ngữ của trẻ.
Kể lại truyện hoặc đóng kịch lại thơ hay câu truyện đó. Cô cho trẻ phối hợp
kể cùng cô, cô là ngời dẫn truyện. Trẻ nói lời thoại hoặc cô cháu kể nối tiếp
với nhau. Hoặc kể nối tiếp theo tổ ví dụ câu truyện Nhổ củ cải
+ Cô là ngời dẫn truyện, các cháu tổ Hoa Hồng sẽ nói lời Ông già, tổ hoa
cúc nói lời Bà già, cô cháu gái chọn một cháu khác nói, con chó 1 cháu nói,
con mèo 1 cháu nói... Với biện pháp này thì nhiều trẻ có cơ hội luyện tập với
tác phẩm hơn.
+ Trẻ thể hiện truyện sáng tạo theo kiểu trẻ tự nghĩ ra cách sáng tạo mà
trẻ cho là hay (không nhất thiết phải rập khuôn: cô giả vờ kể sai một từ hay
một câu nào đó vì theo tôi cách này không phát huy tính sáng tạo của trẻ),
miễn sao phù hợp nội dung của đoạn đó, có sự bổ sung của cô. Thực tế trong
quá trình giảng dạy tôi thấy cách này kích thích sự hoạt động của trẻ, mặt khác
càng lôi cuốn trẻ tập trung và có sự thi đua lẫn nhau hơn rằng mình giỏi, mình
đã làm đợc, mình đợc cô khen ...
Sau mỗi tiết làm quen văn học, tùy vào nội dung từng bài thơ, câu truyện mà
tôi thờng tổ chức cho trẻ đóng kịch lại tác phẩm đó. Việc đóng kịch còn kể
13
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
đến trang phục, vì trang phục góp phần lớn vào việc thể hiện tính cách nhân
vật tốt hay cha?
Việc đóng kịch còn thể hiện ở mọi lúc mọi nơi chứ không nhất thiết phải trên
tiết học.
Song song với việc hoạt động chung, tôi cũng thấy rõ tầm quan trọng của
hoạt động góc, bởi ở hoạt động góc trẻ đợc tập luyện, cũng cố và vận dụng
những kĩ năng sắp học, đang học và đã đợc học một cách sáng tạo thành thạo,
nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động trong giờ hoạt động chung.
Chính vì vậy mà tôi đã xây dựng góc văn học theo chủ điểm đang tiến hành có
rối, có truyện tranh, có các đạo cụ đơn giản. Trẻ đợc nghe kể truyện qua băng
đĩa, xem video hóa trang đóng kịch, tham gia các hoạt cảnh mà trẻ cùng cô
dàn dựng...
* Ví dụ: Tập đóng kịch theo lối kể truyện sáng tạo ngôn ngữ của cô và của trẻ
ở câu truyện Mỗi ngời một việc
+ ở các câu đối thoại thì mắt, tai, mũi, tay, chân đều nói lặp lại một
câu: Tôi suốt ngày phải...; thay vì thế tôi sẽ cho trẻ đóng kịch theo lối sáng
tạo nhằm tránh lặp lại các câu đối thoại nh:
+ Mắt: Tôi suốt ngày phải nhìn
+ Tai: Thế còn tôi đâu có rãnh, tôi cũng phải dơng lên nghe ấy chứ
+ Mũi: Thế mọi ngời tởng tôi ngồi không à, tôi cũng phải ngửi suốt
ngày đấy thôi
+ Chân: Thế còn tôi, tôi không chạy nhảy thì làm sao mọi ngời khoẻ
mạnh đợc chứ?
+ Mồm: Đợc rồi, nếu vậy tôi chẳng thèm ăn nữa xem mọi ngời sống
thế nào?...
Từ đặc điểm trẻ tiếp nhận tác phẩm văn học chỉ bằng con đờng dán tiếp, vì
trẻ cha đọc đợc mà chỉ nghe đọc, nghe kể mà thôi nên điều tôi thờng làm đó là
tăng cờng sức nghe cho trẻ. Trẻ đợc nghe mọi lúc mọi nơi, nghe từ lời cô vào
các giờ đón, trả..., đặc biệt vào giờ ngủ tôi thờng cho trẻ nghe kể truyện từ đĩa
phát ra với âm thanh đủ nghe nho nhỏ và lúc này các hình tợng cô tiên, ông
bụt rất dễ đi vào tâm thức trẻ thơ. Những bài thơ, câu truyện đã, đang và sẽ đợc học sẽ làm giàu cho trẻ về các tình tiết phong phú và đa dạng nhằm giúp trẻ
làm quen, cũng cố, ghi nhớ lại tác phẩm nhanh và sẽ không gặp khó khăn
trong giờ hoạt động chung.
Tóm lại các nội dung ở hoạt động góc phải đợc hòa quyện với nhau hài hòa
tạo thành một chơng trình thống nhất hỗ trợ cho hoạt động chung.
Không chỉ ở hoạt động góc mà ở mọi lúc mọi nơi, tôi luôn tạo điều kiện cơ
hội cho trẻ đợc tiếp xúc với môi trờng văn học nh : Nghe kể truyện, đọc thơ,
ngâm thơ qua băng đĩa, xem video, múa rối ( dựa trên nội dung các tác phẩm
văn học). Tổ chức cho trẻ vào góc văn học xem truyện tranh, đọc truyện chữ
to Xem các chơng trình ca cảnh và biểu diễn văn nghệ do trờng tổ chức.
Phải nói rằng, từ khi tìm tòi, sáng tạo và đa các biện pháp nêu trên vào sử
dụng, tôi thấy không khí lớp học sôi nổi, hứng thú hẳn lên, cháu ham muốn đợc hoạt động với văn học nghệ thuật, biết kể kể truyện sáng tạo, đọc thơ diễn
14
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
cảm, đọc đúng, đọc hay. Biết sử dụng giọng điệu, ngắt giọng phù hợp với ngữ
điệu đọc, kể tác phẩm. ở trẻ phát huy tối đa tính tích cực hoạt động, phát triển
năng lực cảm thụ văn học cao và các mặt nhân cách khác nh : Đạo đức, trí tuệ,
thẩm mỹ , thể chất và đặc biệt phát triển về mặt vốn từ cho trẻ.
III. Kết quả và việc ứng dụng nội dung vào thực tiễn:
- Đa số trẻ biết đọc thơ diễn cảm, có khả năng đọc, kể tác phẩm nghệ thuật.
- Phát triển năng lực cảm thụ về tính nghệ thuật, tính nhạc trong thơ, trong
truyện. Trẻ đã nắm và hiểu đợc nội dung chính của bài thơ, nắm rõ cốt truyện.
- Trẻ rất thích đợc hoạt động với các giờ làm quen văn học tham gia vào giờ
học thoải mái, nhẹ nhàng và đạt kết quả .
- Gần nh 100% trẻ có đủ khả năng tham gia vào hoạt động với văn học nghệ
thuật: Diễn kịch, hoạt cảnh, kể tác phẩm có nghệ thuật, có sáng tạo, thể hiện
tính chất bài thơ, nội dung câu truyện đạt gần bằng 95 - 97%.
- Về bản thân, tôi rất thích dạy giờ làm quen văn học, lên lớp với tinh thần đã
quen với cách xây dựng cho mình một kế hoạch soạn giảng, xây dựng một đề
tài chung cho viêch hớng tới khi soạn bài, có sự dẫn dắt, lồng ghép xuyên suốt
tiết dạy, không rập khuôn, máy móc với chơng trình cải cách.
- Qua tiếp cận với một số đổi mới về việc cho trẻ làm quen với môi trờng văn
học - chữ viết giúp cho cô và trẻ phát huy tối đa tính tích cực, sáng tạo trong
hoạt động với văn học nghệ thuật.
Đểđạt đợc những kết quả trên bản thân cũng rút ra đợc kinh nghiệm đó là:
- Càng phải nghiên cứu kỹ các loại sách hớng dẫn thực hiện chơng trình chăm
sóc và giáo dục Mầm non ở cả ba độ tuổi. (Theo đổi mới hình thức tổ chức
hoạt động giáo dục mầm non của Vụ giáo dục mầm non )
- Cần xác định rõ yêu cầu của bài dạy và từ đó xây dựng một đề tài để hớng tới
việc soạn bài cũng nh lên tiết đợc xuyên suốt hơn.
- Chọn nội dung tích hợp phù hợp, nhẹ nhàng và lu ý tránh lạm dụng tích hợp
gây nhàm chán và nặng nề trong tiết dạy.
- Giáo viên phải có năng lực về khả năng dẫn dắt, giọng đọc, giọng kể, ngữ
điệu , sắc thái và sử dụng tất cả các yếu tố đó một cách hài hòa và thuần thục
khi lên lớp.
- Phải luôn luôn tìm tòi , sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động ,tránh rập
khuôn áp đặt trẻ vào hoạt động.
- Phải thờng xuyên nâng cao kiến thức và kỹ năng thực hành làm quen với các
tác phẩm văn học, đồng thời tích cực tìm tòi những phơng pháp tốt cho trẻ hoạt
động phù hợp và phải luôn linh hoạt trong khi hớng dẫn trẻ ở hoạt động chung
và hoạt động góc.
- Phải tìm tòi sáng tạo trong việc làm đồ dùng dạy học, thờng xuyên thay đổi
mới lạ nhằm thu hút và lôi cuốn trẻ vào giờ học một cách tích cực nhất.
- Thật sự yêu nghề và yêu thơng trẻ, luôn quan tâm đến các cháu, phát hiện kịp
thời những cháu còn rụt rè, nhút nhát đồng thời phát hiện những cháu mạnh
dạn, tự tin khi tham gia vào các hoạt động tập thể, có năng khiếu về giọng đọc,
giọng kể, kể hay, diễn cảm và có năng lực cảm thụ văn học để có hớng giúp đỡ
15
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
cháu phát triển một cách toàn diện và thực sự đem đến cho trẻ những niềm vui
trong các hoạt động nghệ thuật với các tác phẩm văn học.
Đúng nh thế, văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu đợc trong sự lớn
lên của trẻ và kể cả trong cuộc sống đời thờng. Văn học không chỉ tạo niềm
say mê hứng thú về nghệ thuật cho trẻ mà kể cả những phẩm chất trong sáng ,
trí tuệ minh mẫn cũng nh con ngời dẻo dai và tinh thần sảng khoái. Văn học
còn đem đến cho con ngời sự lạc quan, yêu đời trong cuộc sống lao động khó
nhọc hàng ngày. Chính văn học đã đào tạo những con ngời năng động, sáng
tạo nghệ thuật, khám phá và yêu thích nghệ thuật.
Một số kinh nghiệm trên tuy còn nhỏ bé nhng đó là sự cố gắng tìm tòi, học
hỏi và nghiên cứu của bản thân, một mặt đã tạo cho bản thân cảm thấy yêu
thích, tự tin trong soạn giảng cũng nh lên lớp môn làm quen văn học, mặt khác
đem đến cho trẻ không ít hứng thú trong giờ học và đã đạt đợc một số kết quả
nhất định trong các giờ dạy.
Kính mong sự góp ý và xét duyệt của Hội đồng khoa học để bản thân có
thêm đợc nhiều kinh nghiệm hơn trong giảng giảng dạy môn làm quen văn
học.
Xin chân thành cảm ơn .
Tài liệu tham khảo:
1. Chơng trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo và hớng dẫn thực hiện 3 độ
tuổi - Nhà xuất bản giáo dục.
2. Hớng dẫn thực hiện chơng trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo 3 độ
tuổi (Theo nội dung đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục Nhà xuất bản Hà Nội 2006.
3. Hà Nguyễn Kim Giang - Phơng pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần kì
cho trẻ mẫu giáo - NXBĐHQG Hà Nội - 2004.
4. Phơng pháp cho trẻ làm quen tác phẩm văn học - Nhà xuất bản giáo
dục - 1976.
5. Hà Nguyễn Kim Giang - Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học- Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
16
Trần Thị Thanh Tân – Mầm non 3/2, Pleiku
6. T¹p chÝ gi¸o dôc mÇm non sè 05 - 2006.
7. §inh Hång Th¸i - Ph¬ng ph¸p ph¸t triÓn lêi nãi trÎ em - NXB §¹i häc
s ph¹m, §H - 2006.
17
Trn Th Thanh Tõn Mm non 3/2, Pleiku
Mục lục:
I. Đặt vấn đề
II. Những biện pháp giải quyết vấn đề
III. Kết quả và việc phổ biến ứng dụng nội dung vào thực tiễn
Trang
2
4
15
18