Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN giải pháp giúp giáo viên dạy tốt môn làm quen văn học cho trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.69 KB, 37 trang )

KINH NGHIỆM CHUẨN BỊ TÂM THẾ
CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN VÀO LỚP 1
I.PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trẻ em là thế hệ mầm non tương lai của đất nước, là những chủ nhân kế thừa
và phát huy những gì tốt đẹp nhất của loài người. Vì thế, việc quan tâm, chăm
sóc cũng như tạo điều kiện để trẻ phát triển một cách toàn diện là một vấn đề mà
toàn xã hội cần phải quan tâm. Đặc biệt là những giáo viên mầm non, những
người trực tiếp chăm sóc, dạy dỗ trẻ.Với lứa tuổi mầm non, chúng ta cần quan
tâm nhất là trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) vì trẻ lứa tuổi này chuẩn bị bước
vào lớp 1, một bước ngoặt vô cùng quan trọng đối với trẻ.Trẻ mẫu giáo lớn
chuyển lên lớp 1 rất non nớt bởi vì trẻ đang sống trong một môi trường được sự
chăm lo chu đáo của các cô giáo mầm non về cả dạy dỗ và nuôi dưỡng, được các
cô chăm sóc chu đáo nhiệt tình như người mẹ thứ hai của mình. Vì thế, trong một
môi trường hoàn toàn mới lạ trẻ sẽ khó tiếp cận và thích nghi ngay được. Chính
vì thế, nhiệm vụ của các cô giáo mầm non là phải tạo cho trẻ mẫu giáo lớn(5-6
tuổi) một tâm thế vững vàng, sẵn sàng bước vào lớp 1 để trẻ tiếp cận môi trường
mới một cách tốt nhất, nhằm giúp trẻ tiếp thu kiến thức ở bậc học phổ thông đạt
hiệu quả nhất.
Bản chất của hai quá trình dạy học ở hai bậc học: mầm non và tiểu học ( cụ
thể là mẫu giáo (5-6 tuổi) và lớp1- tiểu học) khác hẳn nhau: học mẫu giáo theo
phương châm “học mà chơi, chơi mà học” còn việc học ở lớp 1 là nhằm mục đích
tiếp thu kiến thức một cách nghiêm túc. Trẻ mẫu giáo lớn chuyển sang một môi
trường học tập hoàn toàn mới lạ, khác với môi trường mẫu giáo nên rất bỡ ngỡ,
dễ bị hoang mang, lo sợ, dao động về mặt tâm lý.

Việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo lớn vào lớp 1 là hết sức cần thiết vì đó là
1
một trong những mục tiêu của ngành học mầm non.
Chính xuất phát từ các lý do đã nêu ở trên, bản thân tôi là một giáo viên với
nhiều năm kinh nghiệm dạy trẻ Mẫu giáo lớn, nắm được những đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ cũng như tâm lý của phụ huynh, tôi thấy việc chuẩn bị tâm thế cho


trẻ mẫu giáo lớn vào lớp 1 là điều hết sức cần thiết và quan trọng. Chính vì thế
mà tôi quyết định chọn đề tài: Kinh nghiệm “chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo
lớn vào lớp 1”. Với mong muốn chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân với các
bạn đồng nghiệp. Để thực hiện đề tài này tôi gặp những thuận lợi, khó khăn sau:
* Điều kiện thuận lợi:
- Trường xây mới, cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu học tập và vui chơi của trẻ có
đầy đủ .
- Giáo viên trẻ, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, nắm vững phương pháp dạy các
môn học.
- Trẻ ngoan ngoãn, có nề nếp trong các hoạt động.
- Phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc, dạy dỗ trẻ.
* Điều kiện khó khăn:
- Một số trẻ còn mắc một số bệnh như: viêm mũi họng…
- Một số trẻ ăn chậm, hay nôn.
- Một số phụ huynh là đồng bào dân tộc khinh tế còn khó khăn nên chưa quan
tâm tới con mình và việc nhận thức vấn đề chuẩn bị cho con vào lớp 1 còn lệch
lạc.
Một số cơ quan ban ngành chưa thực sự hiểu được về bạc học mầm non
Để giúp trẻ Mẫu giáo lớn có tâm thế vững vàng bước vào lớp 1- tiểu học tôi đã
đề ra nội dung cần thực hiện như sau:
II. PHẦN II: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
A/ Xây dựng kế hoạch.
2
Nhận thức được vấn đề “chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một” và xác định
được tầm quan trọng của vấn đề này. Cho nên ngay từ đầu năm học tôi đã bàn
với cô giáo cùng lớp để thống nhất cách làm việc và vạch ra kế hoạch cụ thể
trong một năm học để thực hiện đạt hiệu quả tốt nhất.
B/ Tổ chức thực hiện các nội dung như sau:
1/. Chuẩn bị tốt cho trẻ về thể lực
Trẻ có thể lực tốt, khoẻ mạnh,thông minh, nhanh nhẹn, cân đối, tăng cân đều,

da dẻ hồng hào… tất cả các yếu tố này giúp trẻ tích cực tham gia vào các hoạt
động học tập và vui chơi đạt kết quả tốt nhất.
Ngay từ những ngày đầu trẻ lên lớp mẫu giáo lớn chúng tôi đã kết hợp với nhà
trường và trung tâm y tế Thị trấn Ba Tơ cân và khám sức khoẻ định kỳ cho trẻ để
chấm biểu đồ và phân loại kênh sức khoẻ, đồng thời dựa trên kết quả khám để
biết tình hình bệnh tật của từng trẻ. Trên cơ sở đó phân loại sức khoẻ theo kênh,
và phân loại theo bệnh tật của trẻ. Tôi theo dõi, ghi kết quả lên bảng sức khoẻ để
phụ huynh tiện theo dõi. Sau đó tôi trao đổi cụ thể với phụ huynh của những trẻ
có tình trạng sức khoẻ trẻ không bình thường, thể trạng nhỏ, bị bệnh về hô hấp,
về răng, ăn chậm, béo phì, suy dinh dưỡng để phối hợp với gia đình cải thiện
tình hình sức khoẻ cho các trẻ đó bằng các hình thức như: cô động viên trẻ trước
tập thể lớp, cho trẻ cắm cờ, thưởng bé ngoan, khi trong ngày trẻ ăn có tiến bộ.
Hoặc kết hợp cùng phụ huynh cho trẻ uống sữa thêm
Ví dụ: Về cải thiện tình trạng sức khoẻ cháu Trà My bị mắc bệnh về mũi
họng, cháu rất hay bị ốm, bị sốt, ăn hay bị nôn trớ, nên cháu không tăng cân,
người luôn trong trạng thái mệt mỏi, không muốn tham gia vào các hoạt động của
lớp, tôi đã kết hợp cùng phụ huynhcủa cháu luôn luôn quan tâm, để ý đến sức
khoẻ của cháu như luôn giữ ấm cho cháu vào mùa đông, thường xuyên lau mồ
hôi cho cháu vào mùa hè, để cố gắng giảm bớt số lần mắc bệnh cho cháu. Hoặc
những bữa ăn cháu hay nôn thì tôi luôn cho cháu ăn lại hay pha sữa bột cho cháu
để đảm bảo đủ chất, đủ lượng trong ngày cho cháu. Và qua một học kỳ cháu đã
lên cân, tích cực hơn khi tham gia vào hoạt động chung của lớp. Điều này làm
3
cho gia đình cháu cũng như hai cô ở lớp rất vui và phấn khởi.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều những cháu yếu, lười ăn, ăn chậm, lười nhai tôi
thường luôn chú ý, quan tâm, nhắc nhở trẻ thường xuyên trong bữa ăn, động viên
để trẻ tự xúc lấy ăn. Và khi cả lớp đã gần ăn xong thì cô xúc cơm giúp cháu ăn,
cô ngồi cùng trẻ động viên trẻ nhai kỹ, ăn nhanh để cơm không bị vữa.
Đối với những cháu ăn hay bị nôn, tôi và giáo viên cùng lớp luôn chú ý nhắc
trẻ không xúc cơm đầy miệng. Nếu trẻ bị nôn không bắt trẻ tiếp tục ăn ngay( vì

trẻ vẫn còn có cảm giác khó chịu) mà sẽ cho trẻ nghỉ ăn một lúc, sau đó cho trẻ
ăn bánh ngọt hoặc cơm cùng với cô để không bị đói bụng khi ngủ.
Báo cáo tình hình sức khỏe, ăn, ngủ, của trẻ cả lớp vào buổi họp phụ huynh
đầu năm để phụ huynh nắm được tình hình ăn, ngủ của con mình ở trường ( trẻ
nào cũng ăn hết suất của mình, có nhiều trẻ có nhu cần ăn nhiều hơn định suất) là
vô cùng cần thiết.
Tôi trao đổi tình hình cụ thể với gia đình một số cháu ăn quá khoẻ, dễ có nguy
cơ béo phì để cùng phụ huynh thống nhất chỉ cho trẻ đó ăn vừa đủ chứ không ăn
theo nhu cầu của cháu đó, tích cực cho trẻ được hoạt động, nhằm giảm nguy cơ
béo phì ở trẻ một trong những căn bệnh của trẻ em thời nay.
Trên cơ sở trao đổi giữa phụ huynh và cô giáo về tình hình của trẻ ăn ngủ, tôi
có biện pháp nhắc nhở động viên trẻ có chiều hướng tiến bộ.
Song song với việc quan tâm đến chế độ ăn uống, chúng tôi còn phải đồng
thời chú ý đến giấc ngủ. Luôn đảm bảo cho trẻ được ngủ đủ giấc, ngủ sâu, ngủ
say. Chú ý cho trẻ cả lớp đều được ngủ hết. Với một số cháu
khó ngủ như: Đức Trung, Qản Lộc, Tố Uyên, Ngọc Quỳnh, Gia Hân tôi trao
đổi với gia đình để kết hợp nhắc nhở động viên trẻ kịp thời. Cùng phụ huynh
nhắc trẻ buổi tối đi ngủ sớm, để sáng mai đến lớp đúng giờ. Bởi vì có nhiều cháu
hay đi ngủ muộn, sáng không trở dậy để đi học được.
Chúng tôi luôn đảm bảo phòng ngủ ấm về mùa đông, mát mẻ về mùa hè. Đảm
bảo phòng ngủ luôn yên tĩnh để trẻ ngủ tốt. Ngoài làm tốt công việc cho trẻ ăn,
ngủ, ta còn phải cho trẻ được vận động hợp lý. Bởi vì có vận động hợp lý sẽ kích
thích cho trẻ ăn ngon miệng và ngủ sâu hơn. Trẻ phải được vận động vui chơi
4
ngoài trời, tham gia vào các trò chơi vận động, vào các buổi chơi dài tức là đòi
hỏi người giáo viên thực hiện giờ nào việc đấy, chứ không được bắt trẻ ngồi yên
một chỗ.
Làm được tất cả các điều trên là ta đã chuẩn bị cho trẻ tốt về mặt thể lực: Trẻ
được vận động hợp lý, ăn, ngủ tốt sẽ có một thể lực tốt, trẻ khoẻ mạnh da dẻ hồng
hào, tăng cân đều, vận động lâu mỏi, ít ốm đau, hạn chế được các bệnh truyền

nhiễm và đặc biệt quan trọng là trẻ sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động mà cô
giáo tổ chức.
2/. Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt trí tuệ
Như tất cả chúng ta đều biết, để làm tiền đề cho trẻ mẫu giáo lớn bước vào lớp
1 một cách tốt nhất không thể không chuẩn bị tốt cho trẻ về tri thức. Bởi tri thức
là vô cùng quan trọng và cần thiết cho trẻ. Trẻ có một trí tuệ tốt, trẻ thông minh,
nhanh trí, nắm bắt được những kiến thức sơ đẳng do cô giáo truyền đạt ở lứa tuổi
mẫu giáo sẽ rất thuận lợi cho trẻ bước vào lớp 1. Để chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 ta
phải đáp ứng được nhu cầu nhận thức của trẻ ở lứa tuổi này. Điều này được thực
hiện thông qua các hoạt động như: hoạt động học tập ( qua các môn học: làm
quen văn học, làm quen với môi trường xung quanh, làm quen chữ cái, làm quen
với toán, hoạt động vui chơi…)
- Trẻ mẫu giáo lớn đến cuối năm phải đạt được những yêu cầu của các môn học,
yêu cầu của hoạt động. Đó chính là hành trang và là vốn hiểu biết rất cần thiết để
trẻ bước vào lớp 1 tự tin và vững vàng.
Đối với trẻ mẫu giáo lớn nhu cầu nhận thức muốn tìm hiểu, khám phá những
điều mới lạ, muốn khám phá được bản chất của sự vật, hiện tượng, các mối quan
hệ qua lại của các sự vật hiện tượng đó. Chính vì vậy mà trẻ mẫu giáo lớn rất hay
đặt ra các câu hỏi. Câu hỏi của trẻ không chỉ đơn giản ở các dạng như “ai”, “ cái
gì”, “ở đâu” mà còn hỏi các dạng như: “tại sao”, “như thế nào”, “sao lại thế”.
Chính vì vậy, mà giáo viên phải là người bạn giúp trẻ thoả mãn được những
câu hỏi của trẻ, những băn khoăn suy nghĩ của trẻ.
Hơn thế, với các môn học mang tính tìm hiểu về môi trường xung quanh của
5
trẻ chúng ta còn cần đặc biệt quan tâm và rèn kỹ năng cho trẻ ở hai môn đó là:
Làm quen với toán và làm quen với chữ viết. Bởi hai môn học này là hai môn cơ
bản, chủ yếu nhất của trẻ lớp 1- tiểu học.
Tôi biết ở lớp 1- tiểu học trẻ cũng học chương trình toán gần giống với mẫu
giáo lớn và chữ cái cũng vậy trẻ phải nhận biết được và đọc thông viết thạo 29
chữ cái, tô 29 chữ đó và 10 chữ số đầu, đúng hướng để làm tiền đề cho trẻ vào

lớp 1. Vì thế việc chú trọng hai môn học này là vô cùng cần thiết và chúng tôi đã
xác định đây là hai môn trọng tâm để dành nhiều thời gian cũng như đầu tư rèn
kỹ năng cho trẻ.
Ví dụ: Với môn làm quen chữ viết, tôi luôn dạy trẻ phát âm chuẩn các chữ cái,
có một số cháu còn nói ngọng n-l chúng tôi sửa triệt để cho trẻ để trẻ phát âm
đúng. Những cháu còn quên các chữ khó như chúng tôi thường xuyên dạy trẻ
bằng cách dạy trẻ mọi lúc, mọi nơi, tôi thấy cách thức này đem lại hiệu quả rất
cao, trẻ rất húng thú tham gia và thuộc bài nhanh, cô cũng đỡ vất vả rất nhiều.
Hay tôi đặc biệt và luôn luôn quan tâm đến những cháu tô còn xấu, ngồi còn chưa
đúng tư thế, cầm bút tô chưa đúng cách, tôi thường rèn những cháu đó rất nhiều
vào những buổi học để giúp cháu tiến bộ.
Với môn làm quen với toán cũng vậy, bắt buộc trẻ phải biết đếm, thêm bớt
phân chia trong phạm vi 10, rồi nhận biết các khối, độ lớn, chiều cao của vật, biết
các thao tác đo Ở lớp tôi cũng có rất nhiều cháu kiến thức về toán còn yếu Vì
thế tôi cùng cô giáo ở lớp đã lên kế hoạchcụ thể rèn trẻ yếu để trẻ tiếp thu kiến
thức về toán đồng đều với các bạn ở lớp và đáp ứng yêu cầu so với độ tuổi. Bên
cạnh việc rèn các kiến thức về hai môn chữ cái và toàn tôi còn quan tâm đến
những câu hỏi của trẻ. Trẻ thường hay gặp những khó khăn nhất định trong việc
dùng từ, sắp xếp, diễn đạt ý, khiến người lớn nhiều khi phải dựa vào tình huống
giao tiếp để trả lời điều trẻ muốn hỏi.
Ví dụ trẻ hỏi: “ Quả bầu tiên tại sao lại có vàng bạc hả cô”
“ Mẹ ơi! làm sao mà giật điện”
“ Cô ơi! Sao cô là cô mà cô giáo của con cũng là cô?”
“ Bố ơi! Sao đồng hồ nó đứng?”
6
Những hạn chế trên của trẻ có thể do nhiều nguyên nhân: do vốn từ chưa
phong phú, do khả năng hiểu nghĩa của từ, khả năng nắm các mô hình ngữ pháp,
khả năng tư duy còn hạn chế… Vì vậy, tôi cho rằng một trong những hướng thiết
thực cần chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo lớn (5- 6 tuổi) vào lớp 1- tiểu học là rèn luyện
cho trẻ kỹ năng đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi rõ ràng, mạch lạc. Điều này hết sức

cần thiết đối với trẻ khi học lớp 1. Tôi có thể rèn các kỹ năng trên thông qua các
giờ học( nhất là giờ văn học, giờ môi trường xung quanh, làm quen với toán, giờ
hoạt động vui chơi, hoặc giờ hoạt động ngoài trời…)
Thông qua các hoạt động trên tôi thấy những trẻ lớp tôi có tính tích cực giao
tiếp, có trình độ phát triển ngôn ngữ tương đối cao thường hay đặt các câu hỏi và
dễ dàng đặt các câu hỏi hơn các trẻ ở lớp khác. Vì vậy người lớn cần chủ động tổ
chức giao tiếp, hình thành tính tích cực, giao tiếp cho trẻ giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ, và đó cũng là cách ta giúp trẻ có được công cụ, phương tiện, cần thiết để tư
duy tìm hiểu về thế giới xung quanh. Điều này là cơ sở giúp trẻ vững vàng hơn
khi vào lớp 1.
Nhưng như trên đã nêu, trẻ mẫu giáo lớn vẫn còn gặp khó khăn nhất định
trong việc đặt câu hỏi. Do đó cô giáo cần tìm hiểu nắm bắt những khó khăn và
hạn chế của từng trẻ để có sự tác động kịp thời uốn nắn, phù hợp với trẻ.
Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo lớn tò mò ham tìm hiểu về
thế giới xung quanh trẻ. Vấn đề đặt ra là người lớn cần tạo những điều kiện môi
trường thuận lợi để kích thích, nuôi dưỡng và phát triển nhu cầu đó của trẻ giúp
trẻ có thể chỉ từ sự tò mò ban đầu trở nên say mê, hứng thú và đó cũng là một
cách người lớn chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
3/. Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tinh thần
Được chuẩn bị tốt về mặt tinh thần đối với trẻ cũng rất quan trọng. Trẻ có một
tinh thần tốt, luôn luôn vui vẻ, thích thú trong mọi công việc, và đặc biệt là luôn
vươn tới, luôn mong mỏi mình sẽ được đi học lớp 1 đó là một điều rất tốt. Vì vậy,
tôi luôn động viên, khích lệ trẻ ngoan, biết vâng lời người lớn, hoàn thành các
nhiệm vụ được người lớn giao cho.
7
Ví dụ: nếu các con học giỏi, ngoan biết vâng lời người lớn thì sẽ được đi học
lớp 1. Hoặc dùng đó làm động lực để kích thích khả năng tìm tòi khám phá, kích
thích tính tò mò ham hiểu biết, biết trả lời các câu hỏi khó ở trẻ.
Ví dụ: Câu hỏi này khó nhưng nếu ai trả lời được câu hỏi này sẽ được lên lớp
1 đấy!

Thông qua việc được lên lớp 1 dùng làm động lực để phát huy các đức tính tốt
cho trẻ: rèn luyện tự giác, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự lập, ý thức đoàn kết,
nhường nhịn giúp đỡ bạn bè, kính trọng người lớn tuổi…
Những đức tính này rất cần thiết cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo song đặc biệt
quan trọng với trẻ khi đi học lớp 1. Bởi vì đặc thù của hai bậc học khác nhau: ở
mẫu giáo lúc nào cũng có cô bên cạnh, có cô ở gần, còn khi lên học tiểu học thì
không phải lúc nào trẻ cũng ở gần cô giáo. Mà có lúc trẻ tự chơi, tự do một mình
hoặc chơi với các bạn…
Thông qua việc tổ chức sinh nhật cho trẻ ở lớp ngoài ý nghĩa cho trẻ biết quan
tâm, yêu quý bạn bè, thích tham gia vào hoạt động tập thể nó còn có thể góp phần
giúp trẻ hiểu rằng mình đã bước sang tuổi thứ 6, đã lớn khôn và chững chạc lên
nhiều để chuẩn bị vào lớp 1- tiểu học.
Ví dụ: cháu Nhật Trinh nói “ con thích lên lớp 1. Nhưng con muốn cả 2 cô lên
lớp 1 dạy con cơ mẹ ạ!”.
Chuẩn bị cho trẻ tốt về mặt tinh thần sẽ cho trẻ có tâm lý thoải mái, tự tin, sẵn
sàng bước vào lớp 1 không lo sợ, rụt rè, thiếu tự tin.
Tóm lại: Việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1- tiểu học là ta phải làm tốt cả
3 yếu tố trên. Cả 3 yếu tố này đều rất quan trọng, không thể tách rời nhau được
và không thể thiếu một trong các yếu tố đó trong quá trình chuẩn bị tâm thế cho
trẻ vào lớp 1- tiểu học.
Từ việc Chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1 như đã nêu ở trên. Tôi đã thu được
những kết quả sau:
C/ Kết quả
* Về thể lực:
8
- Các cháu trong lớp tôi đều khoẻ mạnh, da dẻ hồng hào, vận động nhanh
nhẹn, thông minh có khả năng đề kháng với các bệnh dịch. Trong đợt dịch bệnh
tay, chân, miệng vừa qua , rất nhiều trẻ các lớp trong trường mắc phải và phải
nghỉ học. Nhưng riêng ở lớp tôi sĩ số trẻ đi học vẫn được duy trì. Đây chính là
điều rất đáng mừng.

- Kết quả khám sức khoẻ cuối năm cho thấy 100% trẻ đạt kênh A
- Lớp đã được nhà trường khen ngợi và thưởng vì có tỷ lệ tăng cân đều hàng
quý cao.
* Về trí tuệ:
- Trẻ thông minh, nhanh nhẹn, mạnh dạn, hồn nhiên và đạt được yêu cầu của
độ tuổi thông qua kết quả khảo sát các môn học. 98% trẻ đạt yêu cầu về kiến
thức.
* Về tinh thần:
- Phát huy và rèn luyện cho trẻ rất nhiều đức tính tốt, hạn chế tính xấu
- 100% trẻ đều rất yêu mến các cô và rất thích được đi học lớp 1.
III. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua những năm dạy trẻ lớp mẫu giáo lớn tôi đã rút ra được những kinh
nghiệm cho bản thân trong việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ mấu giáo ( 5-6 tuổi) vào
lớp 1- tiểu học như sau:
- Việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo lớn vào lớp 1 là hết sức cần thiết và là
một trong những mục tiêu của ngành học Mầm non.
- Để việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo lớn vào lớp 1 được tốt yêu cầu giáo
viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của lứa tuổi. Giáo viên phải đọc và nghiên
cứu những tài liệu và sách, cập nhật thông tin trên mạng để tìm hiểu về tâm sinh
lý lứa tuổi để đảm bảo có phương hướng, biện pháp hình thức đúng đắn trong quá
trình giáo dục trẻ , và bảo đảm cho giáo viên không chỉ là cô giáo mà còn là
người bạn, người nghệ sĩ, bác sĩ rất gần gũi thân thiết với trẻ.
- Phải biết bàn bạc, phối hợp ăn ý, nhịp nhàng với giáo viên cùng lớp và cùng
thống nhất với nhau về cách chăm sóc giáo dục trẻ thì kết quả đem lại mới cao.
9
- Phải biết bám sát vào sự chỉ đạo và yêu cầu của ban giám hiệu thông qua các
buổi họp tổ chuyên môn, họp định kỳ, họp sơ kết để trên cơ sở đó có kế hoạch,
biện pháp, hình thức phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp mình.
- Cần có ý kiến báo cáo đề xuất kịp thời cho Ban giám hiệu trong quá trình chăm
sóc giáo dục trẻ để đảm bảo sao cho trẻ được chăm sóc tốt về thể chất và tinh

thần
-Phải biết lắng nghe, tham khảo, học hỏi kinh nghiệm, góp ý của Ban giám hiệu
cùng đồng nghiệp, của các bậc phụ huynh để chọn lọc ý kiến và tiếp thu ý kiến
hay.
Trên đây là kinh nghiệm chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo lớn vào lớp 1- tiểu
học. Rất mong được sự góp ý của ban giám hiệu và chị em đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Ba Tơ, ngày 02 tháng 04 năm 2010
Người viết
Nguyễn Thị Thắm
MỤC LỤC
I/. PHẦN I. MỞ ĐẦU Trang 1- 2
II/. PHẦN II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Trang 3- 9

10
A. Xây dựng kế hoạch Trang 3

B. Tổ chức thực hiện các nội dung Trang 3- 9

C. Kết quả đạt được Trang 9
III/. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trang 10
11
MỘT SỐ KINH NGHIỆM
TRONG VIỆC TỔ CHỨC CÁC TRÒ CHƠI
DÂN GIAN CHO LỨA TUỔI MẪU GIÁO LỚN
1/. PHẦN I: Mở đầu.
Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ đạo của trẻ em chính là hoạt động vui
chơi. Trẻ em không chỉ cần được chăm sóc sức khoẻ, được học tập, mà quan
trọng nhất trẻ cần phải được thoả mãn nhu cầu vui chơi. Xuất phát từ vai trò quan
trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ em và nhu cầu hưởng thụ hoạt động này,

tôi thấy việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian là một việc làm cần thiết
và rất có ý nghĩa.

Di sản văn hoá truyền thống Việt Nam có nhiều loại hình khác nhau, trong đó
có thể nói, trò chơi dân gian cũng là một di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Nó
12
được kết thành từ quá trình lao động và sinh hoạt, trong đó tích tụ cả trí tuệ và
niềm vui sống của bao thế hệ người Việt xưa. Đặc biệt đối với trẻ em, trò chơi
dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã mang lại cho thế giới trẻ thơ
nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu cầu giải trí, vui chơi, quyền
được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè, cộng đồng. Nó làm cho thế giới
xung quanh các em đẹp hơn và rộng mở; tuổi thơ của các em sẽ trở thành những
kỉ niệm quý báu theo suốt cuộc đời; làm giàu nguồn tình cảm và trí tuệ cho các
em. Chính vì vậy, trò chơi dân gian rất cần thiết được lựa chọn, giới thiệu trong
nhà trường tuỳ theo lứa tuổi của trẻ.

Đúng như PGS. TS Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam đã nói: “ Cuộc sống đối với trẻ em không thể thiếu những trò chơi. Trò chơi
dân gian không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con mà nó chứa đựng cả nền
văn hoá dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc. Trò chơi dân gian không chỉ
chắp cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển tư duy, sáng tạo, mà còn giúp các
em hiểu về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Ngày nay, các em ở
một xã hội công nghiệp, chỉ quen với máy móc và không có khoảng thời gian
chơi cũng là một thiệt thòi. Thiệt thòi hơn khi các em không được làm quen và
chơi những trò chơi dân gian của thiếu nhi ngày trước - đang ngày càng bị mai
một và quên lãng, không chỉ có ở các thành phố mà còn ở cả các vùng quê. Vì
thế, giúp các em hiểu và quay về nguồn với các trò chơi dân gian là một việc làm
cần thiết”.

Ở lứa tuổi mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo. Thông qua hoạt động vui

chơi, trẻ phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm quan hệ xã hội, qua đó nhằm phát
triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Chính vì vậy, giáo viên cần tổ chức cho trẻ chơi
các trò chơi nói chung và trò chơi dân gian nói riêng. Năm học 2008 – 2009, Bộ
giáo dục và đào tạo phát động phong trào: “ Xây dựng trường học thân thiện –
Học sinh tích cực” trong đó có nội dung đưa trò chơi dân gian vào trường học.
13
Nhưng làm thế nào để tổ chức được các trò chơi dân gian thực sự có hiệu quả, lôi
cuốn và hấp dẫn được trẻ là một bài toán khó với các giáo viên, đặc biệt là các
giáo viên mầm non. ( Vì khả năng chú ý có chủ định của trẻ mầm non còn kém.
Trẻ dễ dàng tham gia vào trò chơi nhưng cũng nhanh chán, nhanh bỏ cuộc ).

Là một giáo viên mầm non, tôi luôn trăn trở và tìm các biện pháp để tổ chức
các trò chơi dân gian một cách có hiệu quả nhất. Sau đây tôi xin trình bày sáng
kiến kinh nghiệm của mình với đề tài: “ Một số kinh nghiệm trong việc tổ chức
các trò chơi dân gian cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn”.
Phạm vi tiến hành thực hiện đề tài này là 37 trẻ lớp mẫu giáo Lớn B – Trường
Mần Non 11/3 Ba Tơ do tôi phụ trách.

2/. PHẦN II: Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
1 Thực trạng của vấn đề:
1.1: Thuận lợi:
- Luôn đựơc sự hướng dẫn và chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục
và sự quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt của BGH nhà trường. Nhà trường đã
xây dựng lịch trình tổ chức giao lưu trò chơi dân gian ở từng khối lớp.
- Trẻ MGL mạnh dạn, tự tin, thông minh, thích tham gia vào các trò chơi, đặc
biệt là các trò chơi dân gian.
- Bản thân tôi đã có một thời tuổi thơ và cũng được chơi rất nhiều trò chơi dân
gian. Chính vì vậy, những trò chơi dân gian của trẻ con đã gắn bó với tôi trong
suốt một thời gian dài.
- Tôi rất thích các trò chơi dân gian Việt Nam và sưu tầm được rất nhiều trò chơi

dân gian thú vị và đặc sắc, phù hợp với trẻ MG.
- Được đào tạo chính quy và trải qua bảy năm kinh nghiệm thực tế. ( Trong đó có
5 năm trực tiếp tham gia giảng dạy lứa tuổi MGL ).
14
1.2: Khó khăn:
- Giáo viên phải có hiểu biết và vốn kiến thức phong phú về các trò chơi dân
gian.
- Việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ đòi hỏi phải có sự linh hoạt và tính
sáng tạo cao.
- Mức độ khó hay dễ của các trò chơi không giống nhau. Có những trò chơi vô
cùng đơn giản nhưng cũng có những trò chơi phức tạp, đòi hỏi người chơi phải tư
duy trong quá trình chơi.
- Thời gian tổ chức cho trẻ chơi rất hạn hẹp vì một trò chơi không thể diễn ra
trong suốt cả một hoạt động của trẻ mà nó chủ yếu chỉ được lồng ghép và tích
hợp vào các hoạt động mà thôi.
- Khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn kém. Trẻ dễ dàng nhập cuộc chơi
nhưng cũng nhanh chóng tự rút ra khỏi trò chơi nếu nó không còn hứng thú.
- Trong lớp còn một số trẻ rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin và không thích tham gia
vào các hoạt động tập thể.
2. Một số biện pháp tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo lớn
( 5 – 6 tuổi ):
Từ những thuận lợi và khó khăn trên đây, tôi đã đề ra một số biện pháp cụ thể
như sau:
2.1: Lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
Kho tàng các trò chơi dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng nhưng
không phải trò chơi nào cũng phù hợp với trẻ nhỏ. Vì thế, giáo viên nên có sự cân
nhắc lựa chọn cho trẻ chơi các trò chơi có luật chơi và cách chơi đơn giản, dễ
nhớ, dễ hiểu.
Bên cạnh đó, trong trường mầm non lại có sự phân chia trẻ theo nhiều độ tuổi.
Mỗi độ tuổi lại có mức độ nhận thức và khả năng chú ý có chủ định khác nhau.

15
Chính vì thế, các trò chơi cũng cần phải được lựa chọn cho phù hợp với từng độ
tuổi.
Cụ thể như sau:
* Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo bé ( từ 2 đến 4 tuổi ): khả năng chú ý có
chủ định còn kém, nhận thức còn đơn giản. Vì vậy trẻ chỉ có thể chơi được các
trò chơi đơn giản như: “ Lộn cầu vồng”,“ Chi chi chành chành”, “ Tập tầm
vông”, “ Nu na nu nống”, “ Dung dăng dung dẻ”…
* Với trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn ( từ 4 đến 6 tuổi ): khả năng chú ý có chủ định và
nhận thức của trẻ đã cao hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước. Vì thế, trẻ có thể
chơi được các trò chơi dài hơn và khó hơn.
Khi lựa chọn các trò chơi dân gian cho trẻ MGL, tôi thực hiện theo các tiêu chí
sau:
- Trò chơi không quá đơn giản nhưng cũng không quá phức tạp.
- Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi dễ kiếm, dễ tìm.
- Giúp củng cố tư duy, ngôn ngữ, vận động, kỹ năng cho trẻ.
- Gây được hứng thú, thu hút sự chú ý của trẻ.
- Có sự tham gia của tập thể lớp hoặc nhóm trẻ trong lớp.
Từ những tiêu chí trên, tôi đã lựa chọn các trò chơi sau cho trẻ lớp MGL: “ Thả
đỉa ba ba”,
“ Ô ăn quan”, “ Chuyền thẻ”, “ Hát chuyền sỏi”, “ Trốn tìm”, “ Đếm sao”, “ Kéo
co”, “ Rồng rắn lên mây”, “Chồng đống chồng đe”, “ Trồng nụ trồng hoa”, “
Ném còn”, “ Cướp cờ” …
2.2: Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi, lời ca, địa điểm trước khi tổ chức cho trẻ tham
gia vào các trò chơi dân gian.
2.2.1: Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho các trò chơi dân gian:
Đồ dùng đồ chơi của các trò chơi dân gian cũng vô cùng đa dạng và phong phú,
16
mang tính đặc trưng và được thiết kế dựa vào cách chơi và luật chơi của từng trò
chơi. Mỗi trò chơi dân gian có một hoặc nhiều loại đồ dùng đồ chơi tương ứng

mà thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành được.
Ví dụ như trò: “ Chơi chuyền” đòi hỏi phải có 10 que chuyền và một đồ vật có
dạng khối cầu như quả bóng, quả bưởi non…Trò chơi “ Ném còn” không thể
diễn ra nếu thiếu quả còn - đồ chơi truyền thống của trò chơi đó. Hay đơn giản
như trò chơi “ Bịt mắt bắt dê” cũng không thể được tổ chức nếu không có dải vải
hoặc dải khăn bịt mắt…
Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi dân gian nào đó, giáo
viên cần tìm hiểu kỹ lưỡng về luật chơi, cách chơi cũng như việc có hay không
có đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi để từ đó có thể chuẩn bị đầy đủ các yếu
tố cần thiết cho trò chơi.
2.2.2: Dạy trẻ đọc thuộc lời ca ( đối với những trò chơi có lời đồng dao ):
Một đặc điểm đặc trưng của trò chơi dân gian đó là khi chơi trẻ không bao giờ
chỉ hùng hục thực hiện các vận động của mình mà chúng thường vừa chơi vừa
hát hoặc đọc lời đồng dao nào đó. Các bài đồng dao đó khiến cho không khí chơi
vui vẻ, nhộn nhịp hơn. Mặc dù không phải bài đồng dao nào cũng có ý nghĩa,
song bài nào cũng phù hợp với tư duy hồn nhiên của trẻ.
Ví dụ như: chơi “ Chi chi chành chành”, trẻ hát:
“ Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Tam vương ngũ đế…”.
Câu hát dường như chẳng có mạch ý nào rõ ràng, nhưng thiếu nó thì trò chơi
không thể tiến hành. Hay như chơi “ Rải ranh” trẻ hát:
“ Rải ranh
Bẻ cành
Hái ngọn
Chọn đôi”.
17
Cùng với lời hát trong trẻo là bàn tay rải những viên sỏi một cách khéo léo,
tung viên cái lên, nhặt một hoặc hai viên con dưới đất, rồi lại giơ tay đỡ viên cái

vừa rơi xuống.
Trò chơi chỉ có thể được tổ chức khi trẻ đã thuộc lời đồng dao. Chính vì vậy,
tôi thường cho trẻ làm quen với lời đồng dao của các trò chơi dân gian trước khi
hướng dẫn trẻ chơi vào các thời điểm trong ngày của trẻ như: hoạt động chiều,
hoạt động ngoài trời…Khi trẻ đã thuộc lời đồng dao, tôi tổ chức cho trẻ chơi các
trò chơi tương ứng với lời đồng dao đó. Vì thế, trẻ chơi rất hứng thú và tích cực
tham gia chơi.
2.2.3: Chuẩn bị địa điểm để tổ chức trò chơi:
Mỗi trò chơi dân gian có một cách chơi và luật chơi khác nhau. Có những trò
chơi vận động mang tính tập thể rất cao, thường có số lượng người tham gia chơi
lớn và đòi hỏi địa điểm chơi phải có diện tích rộng như “ Kéo co”, “ Rồng rắn lên
mây”, “ Thả đỉa ba ba”, “ Trồng nụ trồng hoa”…
Nhưng lại cũng có những trò chơi tĩnh, trẻ hay chơi theo các nhóm nhỏ như “
Chi chi chành chành”, “ Tập tầm vông”, “Rải ranh”, “ Chuyền thẻ”, “ Ô ăn
quan”…
Chính vì vậy, giáo viên cần nắm vững cách chơi, luật chơi, đặc điểm của từng
trò chơi để từ đó lựa chọn địa điểm cho phù hợp trước khi tổ chức cho trẻ chơi.
2.3: Tổ chức các trò chơi phù hợp với tính chất của hoạt động.
Mỗi hoạt động của trẻ đều nhằm đạt được một mục đích nhất định. Vì thế, hoạt
động nào cũng có tính chất riêng của nó. Nếu như hoạt động chung được tổ chức
nhằm cung cấp các kiến thức cho trẻ thì hoạt động ngoài trời lại giúp trẻ được
gần gũi với thiên nhiên, khám phá các hiện tượng tự nhiên và phát triển thể chất;
hay như ở hoạt động góc trẻ lại được mở rộng thêm về kinh nghiệm sống và kỹ
năng chơi theo nhóm. Chính vì vậy, giáo viên cần chú ý lựa chọn và tổ chức các
trò chơi dân gian cho phù hợp với tính chất của từng hoạt động.
*Với HĐ ngoài trời: tận dụng không gian rộng và thoáng, giáo viên nên tổ chức
18
cho trẻ chơi các trò chơi vận động nhằm rèn luyện và phát triển thể lực cho trẻ
như: “Rồng rắn lên mây”, “Bịt mắt bắt dê”, “ Nhảy dây”, “Nhảy lò cò”, “ Thả đỉa
ba ba”…

* Với hoạt động góc: nên tổ chức cho trẻ các trò chơi có thể chơi theo nhóm
nhỏ trong một không gian hẹp như: “ Ô ăn quan”, “Chơi chuyền”, “Rải ranh”,
“Chuyền thẻ”, “Kéo cưa lửa xẻ”…
* Với hoạt động chung và hoạt động chiều ( chủ yếu diễn ra trong phòng
nhóm ): nên tổ chức cho trẻ các trò chơi tĩnh nhằm phát triển nhận thức cho trẻ
như: “Ô ăn quan”, “Tập tầm vông”, “Rải ranh”, “Chơi chuyền”, “Chơi cờ”, “Vấn
đáp”, “Đếm sao”, “ Đọc câu”…
Đặc biệt khi tích hợp trò chơi dân gian trong hoạt động chung, giáo viên cần
lựa chọn trò chơi phù hợp với đặc điểm của từng môn học.
Ví dụ:
- Với môn thể chất: nên lựa chọn các trò chơi vận động nhằm rèn luyện thân thể
khoẻ mạnh, hoạt bát và năng động. Nhiều trò chơi đòi hỏi trẻ phải mạnh mẽ,
nhanh chân, nhanh mắt, nhanh miệng. Trẻ phải có sức khỏe mới có thể vui chơi
và ngược lại vui chơi giúp cho trẻ thêm khỏe mạnh và năng động.
Chẳng hạn:
+ Với trò chơi “ Rồng rắn lên mây”, khi trẻ hát xong câu cuối: “ Xin khúc đuôi –
Tha hồ thày đuổi”, lập tức trẻ làm “ đuôi” ( đứng sau cùng ) phải chạy thật nhanh,
nếu không sẽ bị “ thầy” tóm lấy, sau đó có thể bị thay người khác hoặc lại phải
làm “ thầy” để đi đuổi những trẻ khác.
+ Trò “ Nhảy dây”, “ Trồng nụ trồng hoa”, “ Nhảy lò cò” có nhiều nấc chơi nho
nhỏ: từ bàn một, bàn hai…đến bàn mười
( Nhảy lò cò ); từ một nụ, một hoa…đến tám hoa ( Trồng nụ trồng hoa )…Trẻ
phải vượt qua dần từng nấc, hết nấc này mới đi tiếp nấc sau. Như vậy, trẻ phải dai
sức, khỏe mạnh, nhanh nhẹn và khéo léo mới có thể tiến dần đến được nấc cuối
của trò chơi.
+ Trò “ Chi chi chành chành” lại buộc trẻ phải rất nhanh tay, nhanh miệng vì nếu
câu cuối bài là “ ù à ù ập” được đọc xong mà trẻ không rút kịp tay ra, ngón tay
19
của nó sẽ bị giữ lại, như thế là thua.
- Với môn MTXQ, toán, văn học khi lựa chọn các trò chơi cần đáp ứng được các

tiêu chí sau:
+ Nhằm phát triển nhận thức cho trẻ.
+ Phát triển ngôn ngữ.
+ Cung cấp cho trẻ các kỹ năng như: kỹ năng hoạt động theo nhóm, kỹ năng sử
dụng đồ dùng đồ chơi…
+ Rèn luyện trí nhớ và khả năng tư duy cho trẻ.
Ví dụ:
+ Lời đồng dao của trò chơi chuyền: “ Con ruồi có cánh - Đòn gánh có mấu –
Châu chấu có chân…” đã giúp trẻ nhận biết được đặc điểm đặc trưng của một số
con vật và đồ vật quen thuộc.
+ Những câu hát ngược có tính chất đánh lừa nhận thức, thử thách sự năng động
của trí tuệ, khiến trẻ muốn hiểu đúng sự vật thì phải chuyển ngược lại:
“ Non cao đầy nước
Đáy biển đầy mây
Dưới đất lắm mây
Trên trời lắm cỏ
Người thì có mỏ
Chim thì có mồm…”
+“ Chuyền thẻ” là một trò chơi dân gian dạy trẻ làm toán cộng hay trừ. Đó là bài
tập đếm từ 1 đến 10 của trẻ. Trẻ nhóm các nhóm theo trật tự cao dần lên và cộng
lại trong phạm vi 10: bắt đầu từ bàn một “cái mốt, cái mai, cái trai, cái hến…”
sau đó là nhóm đôi và các nhóm cao hơn “ đôi tôi, đôi chị…”, “ba lá đa, ba lá
đề…”, “tám quả trám, hai lên chín”…Bài tập đó có thể giúp trẻ đếm thành
thạo trong phạm vi 10.
- Với môn âm nhạc nên chọn các trò chơi có giai điệu và lời hát như các trò chơi:
“ Tập tầm vông” , “ Hát chuyền sỏi”, “Đồng dao chăn trâu xứ Quảng”…
Ngoài ra khi lựa chọn các trò chơi dân gian trong hoạt động chung, một điều cần
đặc biệt lưu ý đó là: phải lựa chọ trò chơi phù hợp với đề tài và chủ điểm của bài
20
dạy.

Chẳng hạn như:
- Chủ điểm “ Thế giới động vật” có thể tổ chức các trò chơi: “ Đồng dao hỏi tuổi
xứ Quảng”, “ Đồng dao chăn trâu xứ Quảng”, “ Bịt mắt bắt dê”, “ Phụ đồng ếch”,
“ Thi tìm những con vật có từ láy”…
- Chủ điểm “ Thế giới thực vật” có thể cho trẻ chơi các trò chơi:
“ Trồng nụ trồng hoa”, “ Mít mật mít gai”, “ Làm nón mão bằng lá”…
- Chủ điểm “ Tết và mùa xuân” là thời điểm thích hợp để giới thiệu cho trẻ các
trò chơi truyền thống của dân tộc trong dịp lễ Tết như: “ Ném còn”, “ Cướp cờ”,
“ Bịt mắt đập niêu”, “ Đẩy gậy”, “ Chơi đu”,“ Múa lân”…
2.5: Động viên tất cả các trẻ tham gia vào trò chơi.
Một ưu thế của trò chơi dân gian chính là ở chỗ nó có thể dung nạp tất cả
những ai muốn chơi. Không bao giờ trò chơi dân gian quy định số người chơi
nhất định. Vì vậy tôi luôn khuyến khích, động viên tất cả các trẻ tham gia chơi
càng đông càng vui. Nếu chơi “ Bịt mắt bắt dê”, mỗi khi có một người vào thêm,
vòng chỉ rộng ra một chút chứ trò chơi không thay đổi. Còn trò chơi “ Rồng rắn
lên mây” thì thêm một người, “ cái đuôi” sẽ dài ra một chút và tất cả mọi người
đều được chơi, được chạy như nhau. Những trò chơi “ Thả đỉa ba ba”, “ Chi chi
chành chành”, “ Nhảy lò cò”, “Nhảy dây”… cũng tương tự như vậy.Trong khi
chơi, mọi trẻ đều bình đẳng như nhau. Nếu trẻ nào ích kỷ, chơi không đúng luật
chơi, chen lấn các bạn khác sẽ bị tập thể phê phán, loại trừ bằng cách không cho
chơi chung. Qua đó tinh thần tập thể của các trẻ được nâng lên rất nhiều.
3. Kết quả:
Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm của bản thân vào việc tổ chức cho trẻ lớp
mẫu giáo Lớn B – Trường Mần Non 11/3 Ba Tơ làm quen với các trò chơi dân
gian, tôi đã thu được nhiều kết quả tốt:
- 100% trẻ rất hứng thú và yêu thích các trò chơi dân gian.
- 100% trẻ được mở rộng kiến thức và có thêm rất nhiều hiểu biết về các trò chơi
21
dân gian, các phong tục truyền thống của dân tộc.
- Trẻ đã biết tự tổ chức chơi các trò chơi dân gian với các bạn trong lớp.

- Qua việc thường xuyên được tham gia vào các trò chơi dân gian, nhận thức và
thể lực của các trẻ trong lớp tôi được nâng cao rõ rệt. Trẻ nhanh nhẹn, năng
động, tự tin và hồn nhiên trong giao tiếp với mọi người.
- Trò chơi dân gian còn giúp các trẻ trong lớp tôi thêm gắn bó với nhau, nâng cao
tinh thần đoàn kết và ý thức tập thể của trẻ.
3/. PHẦN III: Kết luận.

Qua việc nghiên cứu đề tài trên, tôi đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm
sau:
- Trò chơi dân gian có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của trẻ nhỏ.
Trò chơi dân gian vừa giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu vui chơi, vừa góp phần nâng
cao nhận thức, phát triển các giác quan, tăng cường thể lực cho trẻ, giúp trẻ trở
thành những người lao động tài giỏi trong tương lai.
- Những trẻ chơi một cách hăng hái, hoạt động nổi bật trong khi chơi thường
cũng chính là những đứa trẻ thông minh, tháo vát và biết tổ chức trong cuộc
sống.
- Cần phải tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian để phát triển ở trẻ tinh thần
tập thể, biết nhường nhịn bạn bè, biết giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm của mình với
bạn khác.
- Khi tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ giáo viên cần tìm hiểu kỹ cách chơi, luật
chơi và chuản bị đầy đủ các yếu tố cần thiết để tiến hành trò chơi.
- Những kinh nghiệm của tôi rất đơn giản, giáo viên có thể dễ dàng thực hiện.
- Một số giáo viên và cả phụ huynh học sinh trong trường đã áp dụng kinh
nghiệm của tôi trong việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian và đạt được
kết quả tốt.
- Bằng việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, tôi đã giúp trẻ được thỏa
mãn nhu cầu vui chơi, đồng thời bảo tồn được một di sản văn hóa tốt đẹp của dân
22
tộc, góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện –
Học sinh tích cực”.

Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc tổ chức cho trẻ lớp mẫu giáo
lớn B- Trường mầm non 11/3 Ba Tơ chơi các trò chơi dân gian đã được thực
hiện trong lớp.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các chị em đồng nghiệp và các cấp
lãnh đạo.
Ba Tơ, ngày 02 tháng 04 năm 2010.
Người viết
Nguyễn Thị Thắm
MỤC LỤC
1. PHẦN I: MỞ ĐẦU Trang 1-2
2. PHẦN II: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Trang 2- 8
1/. Thực trạng của vấn đề Trang 2-3
2/. Một số biện pháp tổ chức các trò chơi dân gian Trang 3- 7
23
cho trẻ mẫu giáo lớn (5- 6 tuổi) Trang 7- 8
3/. Kết quả
3. PHẦN 3: KẾT LUẬN Trang 8
“Một số giải pháp
giúp giáo viên dạy tốt môn làm
quen văn học cho trẻ mẫu giáo”.
A/. PHẦN MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết: Văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với
cuộc sống con người. Từ xa xưa khi chưa có những áng văn thơ tuyệt tác, văn
học cũng đã đi vào cuộc sống con người bằng những câu ca dao, hò vè, tục ngữ
24
và nó trở thành nguồn văn học dân gian tuyệt vời cho thế hệ sau này. Xã hội ngày
càng phát triển và trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử thì văn học là
chiếc gương thần kỳ phản ánh những gì xảy ra trong xã hội, xảy ra với con người.
Văn học còn là những lời ca hay, những áng văn tuyệt vời, sinh động, như một
bức tranh nhiều màu sắc ca ngợi tình cảm con người đối với thiên nhiên đất nước,

những khát vọng vươn tới ngày mai. Văn học cho chúng ta hình dung được toàn
cảnh xã hội có nắng mưa, vui buồn, thương yêu, hờn giận hay chê trách. Văn học
như nguồn nước mát tưới đẫm tâm hồn ta thư thái hơn, giúp ta thêm yêu cuộc
sống, yêu con người, yêu thiên nhiên cây cỏ.
Đối với bản thân tôi, văn học là tình yêu cuộc sống, yêu con người. Văn
học luôn là niềm say mê đối với tôi, nó giúp tôi mở rộng tầm nhìn để hiểu biết
hơn về cuộc sống, về con người, về xã hội.
Với trẻ thơ, văn học chỉ là những bài thơ, những câu chuyện kể nhưng luôn
làm các cháu háo hức say mê. Văn học đi vào tâm hồn trẻ thơ nhẹ nhàng như lời
ru êm ái qua những câu chuyện cổ mà bà hay mẹ vẫn kể trong đêm. Sự tác động
của văn học đến tư cách đạo đức trẻ rất mạnh, nó lớn hơn cả những lời giáo huấn,
dỗ dành hay mệnh lệnh, nó xây dựng cho trẻ những cảm xúc tốt đẹp về tình yêu
thương con người, yêu cuộc sống và giúp trẻ nhận biết những điều hay lẽ phải.
“Làm quen văn học” là một bộ môn mà trẻ rất thích học. Trẻ mầm non rất
say mê với các câu chuyện khi được nghe cô kể và thích thú khi tự mình thể hiện
tình cảm qua các bài thơ. Văn học có sức giáo dục tình cảm mạnh mẽ và trở
thành nhu cầu đối với trẻ. Nếu thiếu nó, tôi nghĩ rằng công tác chăm sóc giáo dục
trẻ mầm non không thể hoàn thành và giúp trẻ phát triển toàn diện được.
Thế nhưng làm thế nào để giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm văn học, hay
nói cách khác là: Làm thế nào để các giờ cho trẻ làm quen văn học sinh động có
sức truyền cảm, thu hút trẻ, giúp trẻ tiếp thu kiến thức tốt là việc làm đòi hỏi
người giáo viên như chúng ta phải có phương pháp dạy tốt, kỹ năng thể hiện diễn
cảm, bằng mọi cách giúp trẻ cảm nhận hết cái hay, cái đẹp của bài thơ hay câu
25

×